Chương 4 Núi Tân Cao
Thời tiết đầu tháng Mười có lúc vẫn giống mùa hè, ánh nắng như thiêu như đối chiếu lên da, ép ra rất nhiều mồ hôi.
Hồ Duệ Diệc cầm ô che nắng, bước ra từ cửa ra số Một của ga tàu điện ngầm Bệnh viện Đại học quốc gia Đài Loan, men theo lối đi bộ của đường Công Viên đi về phía Nam, qua đại lộ Khải Đạt Cách Lan rộng lớn rồi rẽ trái, tìm thấy thư viện Quốc gia nguy nga trên đường Trung Sơn Nam.
Chị đẩy cửa kính, bước vào không gian máy lạnh mát rượi. Trong không khí ngập tràn mùi sách làm người ta thanh thản, có điều, mục đích chuyến đi này của chị không phải để đọc sách, mà là kiểm tra xem những tin tức kỳ lạ đó có thực sự tồn tại hay không.
Phòng tư liệu ảnh thu nhỏ nằm ở tầng bốn, nhưng theo hướng dẫn thì phải vào từ phòng đọc tạp chí ở tầng ba. Hồ Duệ Diệc bước ra khỏi thang máy, xuyên qua khu đọc sách và khu truy cập máy tính, đi lên cầu thang thông với tầng bốn.
Trước đó, Hồ Duệ Diệc cũng đã lên mạng kiểm tra các tư liệu sưu tập về Đài Loan Nhật nhật tân báo . Tuy hiện giờ đã có thể đăng ký sử dụng máy tính kết nối đến kho dữ liệu số 34 ngay tại khu tài nguyên mạng ở bên trái lối vào thư viện, rồi đọc thời báo Đài Loan của thời kỳ Nhật trị, nhưng Hồ Duệ Diệc thầm nghĩ, đã mất công xin nghỉ để đến đây, đương nhiên phải xem hình dạng chân thực của cái gọi là “vi dạng [*] ”.
Trong kho lưu trữ được duy trì độ ẩm và nhiệt độ có bố trí hàng loạt tủ tài liệu bằng thép, những ngăn kéo tưởng như không đếm xuể thực sự khiến Hồ Duệ Diệc hơi nản lòng. Dưới sự hỗ trợ của nhân viên quầy phục vụ, chị giở cuốn sách tra cứu Chiêu Hòa thiên (quyển thượng) , quyết định bắt đầu tìm từ những tờ báo của năm Chiêu Hòa thứ nhất.
Nhật nhật tân báo từng phát hành phiên bản toàn Hán văn, nhưng đã bị bãi bỏ vào năm Minh Trị thứ 44 (1911). Sau đó, Nhật nhật tân báo lại được khôi phục dưới dạng Nhật văn xen lẫn hai trang Hán văn, đến năm 1937, sau khi chiến tranh Trung Nhật bùng nổ, chính phủ Nhật Bản thúc đẩy cuộc vận động Hoàng dân hóa [*] , hai trang Hán văn mới bị loại bỏ hoàn toàn. Cuộn phim dạng 35mm trong tay Hồ Duệ Diệc chính là bản chụp của Đài Loan Nhật nhật tân báo , thu thập các tờ báo từ năm 1898 đến năm 1944. Chị đặt cuộn phim vào trong máy đọc vi dạng, cố định xong cuốn phim thì bật nguồn. Ánh sáng giống như của kính hiển vi lóe lên, chiếu nội dung trên cuộn phim lên màn hình cao khoảng ba mươi phân.
Hồ Duệ Diệc điều khiển núm xoay, liên tục tiến lùi, tìm bài báo về vụ án Ma thần tử chưa có lời giải. Tuy không đọc được tiếng Nhật, chị vẫn kiên nhẫn xem sơ qua, thầm nghĩ chưa biết chừng sẽ xuất hiện những chữ Hán dễ hiểu như “ma giấu”, “không rõ đi đâu” hoặc “mất tích”. Nhưng không ngờ mới xem lướt được hai quyển tài liệu, mắt đã nhức ghê gớm, thậm chí còn xuất hiện bóng chữ giống như những con muỗi đen nhỏ bay vo ve trong tầm mắt.
Hồ Duệ Diệc mấy lần định bỏ cuộc, nhưng chỉ cần nhớ đến thi thể của Buni bị ngâm rữa nát trong nước sông năm đó là chị không dám lơi lỏng chút nào. Cuối cùng trong bản Hán văn in lần thứ tư của ngày mùng tám tháng Bảy năm Chiêu Hòa thứ 9 (1934), chị đã tìm thấy một tin tức thế này.
Ô tô cán bé gái tóc óc chết ngay tại chỗ
Cụm 61, khu 2, Nhật Tân Đinh, thành phố Đài Bắc, xe tải của thương hội Đức Mỹ, số hiệu Bắc 593. Tài xế tên là Lưu Vận Nam. 9 giờ 30 phút sáng ngày mùng bảy. Lái chung xe. Từ phía Tân Trang. Chạy đến con đường phía trước tiệm vàng ở cụm 146, khu 2, Thái Bình Định thuộc nội thành. Bỗng có Lâm Hoàng Sâm Mai, con gái nuôi của Lâm Thụy Thủy ở cụm 23, Tây Đinh, thành phố Cơ Long. Mười một tuổi. Đi ngang qua bị cán phải. Não tóe ra chết ngay tại chỗ. Sở Cảnh sát phía Bắc nhận được tin báo. Hai sĩ quan cảnh sát là chủ nhiệm hình sự Katakura và thanh tra Yabuki. Vội đến hiện trường điều tra. Nghe nói mấy hôm trước cô bé vì xem lễ tế Thành hoàng Hà Hải ở khu Đại Đạo Trình. Cùng mẹ nuôi đi đến phía Bắc. Dự định hôm nay về Cơ Long. Vậy mà lại gặp phải tai nạn thảm khốc này. Người mẹ nuôi từ tiệm xà phòng Kao trên đường Kinh Đinh đuổi tới. Tận mắt chứng kiến cảnh này. Tay chân bủn rủn. Nức nở không ra tiếng. Làm người khác cảm thông sâu sắc. Còn tài xế Lưu. Cũng phải chịu tội ngộ sát. Bị sở Cảnh sát phía Bắc gọi tới. Điều tra truy cứu gắt gao.
Tuy không chắc có liên quan đến Ma thần tử hay không, nhưng Hồ Duệ Diệc có linh cảm khó tả rằng vụ án này sẽ dẫn đến các vụ án khác cũng chưa biết chừng. Chị bèn in lại bài báo bằng máy in mạng.
Trong khi đợi in tài liệu, Hồ Duệ Diệc chợt nảy sinh ấn tượng mơ hồ đối với đoạn “phía trước tiệm vàng ở cụm 146, khu 2, Thái Bình Định” trong bài báo. Chị nghĩ đi nghĩ lại, nhận ra mình đã nhìn thấy một loạt địa danh tương tự trong mấy quyển báo thu nhỏ trước.
Phải xem lại một lượt nữa sao?
Hồ Duệ Diệc lại lần nữa muốn kháng cự, nhưng trong cõi u minh dường như có một sức ép mạnh mẽ thúc đẩy chị làm như vậy, thế là chị đành quay lại đặt từng cuộn phim đã xem vào trong máy, cẩn thận tìm những địa danh tương tự.
Bình tĩnh nào.
Tâm trạng sốt ruột nhiều lần trào lên trong lòng, Hồ Duệ Diệc đều nén xuống bằng cách hít thở sâu. Sau bao phen đấu tranh, cuối cùng chị đã tìm thấy. Đó là một mẩu tin vào ngày hai mươi mốt tháng Sáu năm Chiêu Hòa thứ 7, cũng được viết bằng Hán văn. Hồ Duệ Diệc nín thở đọc, cảm giác run rẩy lập tức trào lên từ giữa đùi.
Bé gái không có hành tung
Cụm 12, khu 2, Thái Bình Đinh, thành phố Đài Bắc, Lưu Xảo Xá, con gái lớn của tài xế Lưu Vận Nam. Mười hai tuổi. Bỏ đi hai mươi bảy đêm. Không biết đi đâu. Theo lời nữ giáo viên Noda của trường tiểu học Công lập Lão Tùng. Sau giờ học ra về. Học sinh Lưu không có biểu hiện gì khác lạ. Sở Cảnh sát phía Bắc nhận được báo cáo. Hiện đang điều tra chi tiết.
Mặc dù có mỗi phần địa chỉ “khu 2, Thái Bình Đinh” là trùng nhau, nhưng rất có thể não bộ chị đã nối sai mạch, nguyên nhân thực sự dẫn đến sự chú ý khó tả của chị đối với cô bé chết thảm dưới bánh xe, chắc là mối quan hệ giữa người đàn ông tên Lưu Vân Nam và Thái Bình Đinh.
Nếu lý giải của Hồ Duệ Diệc không sai, bản thân Lưu Vân Nam cũng sống ở Thái Bình Định, lúc đó cô con gái mười hai tuổi tên Lưu Xảo Xá của anh ta đã mất tích hai mươi bảy ngày; khoảng độ hai năm sau, Lưu Vận Nam tông chết một bé gái mười một tuổi ở Thái Bình Đinh. Liệu có thể giải thích là vì Lưu Vân Nam quá đau buồn, nên không nhìn thấy cô bé đột nhiên lao ra từ bên đường được không?
Hồ Duệ Diệc quyết định in cả trang báo này ra, giữ lại để ngày sau nghiên cứu kỹ hơn.
Cuối cùng Lưu Vân Nam có tìm lại được con gái không?
Bài báo trong năm Chiêu Hòa thứ 9 hoàn toàn không đề cập đến vụ mất tích này, vì vậy Hồ Duệ Diệc cho rằng cứ mù quáng tìm tiếp sẽ chẳng thu hoạch được gì. Chị quyết định đặt phát hiện này sang một bên, tập trung tìm bài báo liên quan đến Ma thần tử trước đã.
4 giờ 17 phút chiều, Hồ Duệ Diệc cảm thấy cổ và thắt lưng mỏi nhừ, bèn ngẩng đầu lên nhìn đồng hồ. Gần hết giờ chọn đọc tài liệu, chị chỉ tìm được một vài tin mất tích không đáng để mắt tới, hơn nữa chẳng có bài nào nhắc đến “giọng nói kỳ lạ”, thực sự hơi nản. Chị quyết định xem nốt phần còn lại của cuộn này, những cái khác để lúc nào rảnh đến đọc tiếp.
Có lẽ nhờ tâm trạng phấn chấn lúc sắp xong việc, Hồ Duệ Diệc để ý thấy một vụ mất tích xảy ra vào năm Chiêu Hòa thứ 8 ở một góc báo vốn dĩ có thể bị bỏ qua.
Dưới chân núi Tân Cao, ma giấu hay bắt cóc
Bài báo này xuất hiện ở một bên của bức ảnh chụp tổng đốc Nakagawa Kenzo leo lên núi Tân Cao, chỉ là một ô nho nhỏ, lại được viết hoàn toàn bằng tiếng Nhật, rất dễ bị bỏ qua. Tuy vậy vẫn có một số chữ Hán có thể nhận ra, ví dụ như “A Lý Sơn”, “Bát Thông Quan”, “sống Lão Nùng”, “khu lánh nạn trên đường lên núi Tân Cao”, vận vân. Núi Tân Cao tức là Ngọc Sơn, chính vì sự kiện ma giấu xảy ra ở Ngọc Sơn, nên mới khiến ra đa tìm kiếm của Hồ Duệ Diệc reo lên một tiếng.
Hồ Duệ Diệc từng đọc những sách vở có liên quan nên không lạ lẫm gì với cách gọi “núi Tân Cao”, cũng biết tổng đốc Đài Loan lúc đó coi núi Tân Cao là biểu tượng của việc thống trị Đài Loan. Ông Ishizuka Eizo, tổng đốc nhiệm kỳ thứ 13 là tổng đốc đầu tiên lên chơi núi Tân Cao; sau đó, Nakagawa Kenzo của nhiệm kỳ thứ 16 thì leo núi Tân Cao vào mùa hè năm Thiên hoàng thứ 2593”, trở thành vị tổng đốc thứ hai leo lên đỉnh núi cao nhất Đài Loan. Sở dĩ không gọi là năm Chiêu Hòa thứ 8 mà lại gọi riêng là “năm Thiên hoàng thứ 2593”, vì khi đó Nhật Bản bị quốc tế cô lập, chủ nghĩa quân phiệt dâng cao, dẫn đến các phát ngôn về chính trị của cơ quan quốc phòng ngày càng đanh thép hơn.
Tóm lại, Hồ Duệ Diệc vừa nhìn thấy một loạt bài báo liên quan đến việc Ishizuka Eizo leo núi Tân Cao trên các báo của năm Chiêu Hòa thứ 5. Việc ông ta và hai cô con gái bắt thanh niên thổ dân trong xã làm việc ngày đêm để họ leo lên núi Tân Cao cũng đã trở thành ngòi nổ của sự kiện Vụ Xã [*] . Chính vì sự kiện “Tổng đốc leo núi Tân Cao” long trọng hoành tráng như thế, nên Hồ Duệ Diệc vô cùng ngạc nhiên khi thấy bài báo chứa đầy sắc thái thần bí này ở đây.
Con gái của người bạn đi cùng tổng đốc Nakagawa lên núi cũng từng “bị ma giấu” sao?
Nói cho cùng, vào thời đại đó leo núi là một việc vô cùng nguy hiểm. Một khi đã mất tích trong núi, tạm chưa bàn đến yếu tố tai nạn, thổ dân mà nhìn thấy trẻ con Nhật Bản, có lý do gì để không giết cơ chứ.
Chỉ có điều, việc khiến Hồ Duệ Diệc kinh ngạc hơn là, cô bé mười ba tuổi tên “Matsuda Minako” này lại sống sót trở về từ trong ngọn núi nguy hiểm như một kỳ tích.
Trên tờ báo còn có một bức ảnh khác, đó là ảnh chụp cảnh Nakagawa Kenzo sau khi leo lên đỉnh Ngọc Sơn thì dẫn mọi người đi về phía cửa lên núi A Lý Sơn. Theo hiểu biết của Hồ Duệ Diệc, có ba tuyến đường lên núi Tân Cao, chia làm cửa lên núi A Lý Sơn, cửa đường sông Thủy Lý, cửa lên núi Ngọc Lý. Hiển nhiên Nakagawa Kenzo từ Hoa Liên tiến vào đường vượt đèo Bát Thông Quan, cũng tức là, Minako mất tích khi sắp đến gần đỉnh núi.
Điều làm Hồ Duệ Diệc chú ý hơn là, trong bài báo xuất hiện hai chữ “tiếng lạ (kisei)”.
Đúng lúc chị đang đau đầu suy nghĩ về mối liên quan trong đó thì nhân viên quầy phục vụ đến nhắc giờ, thế là chị vội vàng in cả trang báo này ra để thỉnh giáo ông chồng biết sơ sơ tiếng Nhật của mình.
Ngô Sĩ Thịnh bước ra từ hội quán mát xa thư giãn có băng rôn đỏ treo trên cửa, đi thẳng về xe.
Trước đây, nơi Ngô Sĩ Thịnh thường đi nhất là khu vực quanh đường Nam Hoàn Hà và Nam Trung Chính Tam Trùng, kể từ khi xây dựng sân bay MRT, “phố đèn đỏ” ở đó đã bị chính phủ dẹp sạch. Sau này nghe nói gái mại dâm Tam Trùng chia quân hai ngả, một tới Lô Châu, một dời đến dưới nút giao thông Thổ Thành bây giờ. Vì gần khu công nghiệp Thổ Thành, nhu cầu lớn, nên làm ăn còn tốt hơn cả trước.
Mẹ nó!
Rõ ràng là muốn sảng khoái một chút, thế mà tâm trạng lại trở nên tồi tệ bất thường. Ngô Sĩ Thịnh rất hiểu, vấn để hoàn toàn không phải do Tiểu Ái. So với những gái mát xa khác, Tiểu Ái không có mùi hôi miệng giống như nội tạng thối rữa, cũng không thủ dâm cho khách hàng với vẻ mặt chán ghét. Hơn nữa tính Tiểu Ái rất tốt, kể từ khi sang Đài Loan lấy chồng rồi ly hôn chớp nhoáng cách đây năm năm, cô ấy luôn biết thân biết phận mà làm việc, hằng ngày mặc váy siêu ngắn bận rộn từ 3 giờ chiều đến 5 giờ sáng, trong năm, sáu mươi nghìn tệ kiếm được mỗi tháng, cô ấy còn phải gửi ba mươi nghìn tệ về quê nhà. Vậy nên thực ra Ngô Sĩ Thịnh có một chút tình cảm thương hại đối với Tiểu Ái.
Nhưng lúc nghe thấy tiếng buông súng đầu hàng kỳ quái của người đàn ông nằm giường bên cách tấm rèm, cả người gã như thể bị sét đánh trúng, lập tức mềm nhũn ra.
“Sao vậy?”
Ngô Sĩ Thịnh lắc đầu, Tiểu Ái quay đầu nhìn theo ánh mắt của Ngô Sĩ Thịnh, mới biết chuyện gì đang xảy ra. Tiểu Ái không nhịn được bật cười một tiếng, vội vàng đổ tiếp một ít tinh dầu từ trên tủ cạnh giường, gắng sức xoa vuốt hơn.
“Không sao, hôm nay thế này thôi.”
Nói xong, Ngô Sĩ Thịnh toan đứng dậy mặc quần.
“Không cho ra sao? Như vậy không tốt cho cơ thể đâu.”
“Không cần, hôm nay thế này thôi. Anh vẫn trả ba trăm cho việc dùng tay.”
“Hay là em dùng miệng giúp anh nhé?”
“Không cần thật mà.”
Ngô Sĩ Thịnh vén rèm, bỏ lại Tiểu Ái đang không biết phải làm sao, luống ca luống cuống bước đến, vứt hai tờ một nghìn và ba tờ một trăm lên quầy, rồi lao ra ngoài.
Gã ngồi trên ghế lái, tinh thần hết sức bất an, vội châm điếu thuốc trong tay, nhưng cứ dật dờ không làm nổi vì ánh mắt đã rã rời. Khó khăn lắm mới châm được điếu thuốc, gã lập tức đưa lên miệng, rít mạnh mấy hơi.
Chuyện gì xảy ra với gã vậy?
Thực ra trong lúc mát xa bấm huyệt toàn thân, Ngô Sĩ Thịnh đã cảm thấy có gì đó không ổn. Khác với bình thường, trong người gã nóng lên một cách khó tả, chẳng cảm thấy thoải mái chút nào, hơn nữa vừa nhắm mắt lại là gã có thể nhìn thấy hình bóng Quách Tương Oánh đang bận rộn ở nhà. Gã không khỏi nghi ngờ rằng Quách Tương Oánh vẫn chưa chết, mà đang chuẩn bị bữa tối cho gã trong căn bếp tối tăm.
Chỉ là, càng nghĩ như thế, gã càng không muốn về nhà đối mặt với hiện thực.
Gã nổ máy, lái đến nút giao Thổ Thành, chạy dọc theo quốc lộ số 3 về phía Đông, thẫn thờ xoay vô lăng.
Ham muốn tình dục chưa được giải tỏa, lại chuyển về cơn đói cồn cào, hơn nữa còn đói đến mức hơi buồn nôn. Gã nôn khan liên tục, đành vớ bừa lấy viên kẹo trái cây trên xe bỏ vào miệng, tạm thời xoa dịu cái dạ dày đang quặn lên một chút.
Trong lúc hốt hoảng, gã phát hiện mình đã không rẽ trái, đi đường đi về phía Bản Kiều theo kế hoạch, mà lại tiếp tục chạy với tốc độ cao trên đường cao tốc.
Sau khi đi được khoảng ba mươi tư cây số, gã nhìn thấy ngôi đền hùng vĩ, còn có một pho tượng thổ địa khổng lồ, đứng sừng sững trên đỉnh núi xanh biếc.
Hóa ra là vậy.
Cảm giác ức chế bất ngờ ập đến đè lên lồng ngực, khiến Ngô Sĩ Thịnh hơi khó thở. Gã đành nhá xi nhan phải, tạm thời đỗ xe ở lề đường, đôi đèn vàng liên tục nhấp nháy.
Đây chính là cái gọi là tiềm thức sao?
Ngô Sĩ Thịnh nhìn chằm chằm lên đỉnh núi Hồng Lô Tái ở bên tay phải mà tục gọi là Hồng Lô Địa, bỗng nhớ đến lời cảnh cáo của đạo cô quái dị trong giấc mơ đêm đó: “Đừng đi... Núi là lối giao của vong linh!”
Hóa ra gã đang sợ hãi điều này sao?
Lúc này Ngô Sĩ Thịnh mới chợt hiểu ra, các giấc mơ trong quá khứ thì hầu hết đều là tỉnh dậy quên ngay, nhưng giấc mơ này lại giống như được chôn sâu trong tiềm thức, kiềm chế hoạt động của gã. Đương nhiên, tay Từ Hán Cường một đi không trở lại đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến Ngô Sĩ Thịnh chùn bước, chỉ có điều, trước đây gã là một kẻ không tin vào ma quỷ, sao lần này lại tin cơ chứ? Một thằng đàn ông ngạo mạn luôn tin mình là người may mắn, có thể trúng số độc đắc, lại không dám bước vào vùng núi, tìm chân tướng của giọng nói đó ư?
Sẽ chết.
Thời khắc này, Ngô Sĩ Thịnh đặt hết niềm tin vào đạo cô mồm thối đó. Từ cô ta, bằng một cách không sao diễn tả được, Ngô Sĩ Thịnh biết nếu tiếp tục điều tra thì gã nhất định sẽ chết.
Chỉ có điều, Ngô Sĩ Thịnh cũng biết, nếu không điều tra rõ nguyên nhân cái chết của Quách Tương Oánh, gã sẽ ôm hận cả đời. Dạo này, hằng đêm gã đều nhìn chằm chằm vào chỗ trống trên giường mà Quách Tương Oánh để lại, trên gối vẫn còn mùi mồ hôi và mùi tóc bết dầu của vợ gã, như thể đang nhắc nhở gã rằng, gã đã đối xử lạnh lùng với cái chết của vợ như thế nào.
Bầu trời bên ngoài cửa sổ xe tối dần, ráng chiều mang màu tím và màu cam tuyệt đẹp. Gã hạ quyết tâm, tắt đôi đèn vàng, đặt tay lên vô lăng, chầm chậm đạp ga.
Sau khi xuống đường cao tốc từ lối ra An Khanh, gã rẽ vào đường Hoàn Hà, chạy theo hướng Bắc về phía vùng đô thị Nam Thế Giác dựa vào định vị của điện thoại. Lúc này, biển báo trên đường bắt đầu xuất hiện dòng chữ “Đường bộ lên núi Hồng Lô Địa”, Ngô Sĩ Thịnh liền đi theo chỉ dẫn. Dần dần, phong cảnh dọc đường đã biến đổi, nhà máy, sạp hàng và quán cơm được xây dựng từ những căn nhà tôn thô sơ đã thay thế cho cảnh đô thị phồn hoa.
Biển hiệu “Gà nướng lu Hồng Lô Địa chính cống” hơi tróc màu đã lọt vào tầm mắt. Sau khi đi qua phía dưới cầu vượt của quốc lộ số 3, những khu công trình và máy xúc lớn nhỏ đứng sừng sững ở bên đường. Ngô Sĩ Thịnh xoay vô lăng, vòng vào một con đường hẹp cạnh sân bóng rổ, trên con đường ngoằn ngoèo, ngoại trừ lớp học tướng số và sạp xem bói, còn lại toàn là các nhà xưởng quy mô nhỏ, nhà kho và phòng quản lý.
Ngô Sĩ Thịnh dần dần giảm tốc độ, cẩn thận quan sát đạo quán thô sơ bên đường.
Đó là một ngôi nhà thấp được cải tạo từ công ten nơ vỏ tôn, trên tường ngoài có hai chữ “thông linh [*] ” rất lớn được viết bằng sơn đỏ. Lúc này cửa cuốn bằng sắt màu lam vẫn chưa được kéo lên, rõ ràng còn chưa bắt đầu “kinh doanh”, có điều nhìn qua song sắt gỉ sét, có thể trông thấy hai ngọn đèn chong màu đỏ máu.
Đúng lúc Ngô Sĩ Thịnh định lại gần hơn để quan sát thì ngọn đèn đỏ đối diện tay phải gã vụt tắt, từ phía bên kia bức tường tôn truyền ra tiếng tách khe khẽ.
“Soạt” một tiếng, cửa cuốn sắt được kéo lên.
Một ông lão đầu bạc để tóc húi cua bước ra với đôi mắt ngái ngủ, đột nhiên nhìn Ngô Sĩ Thịnh chằm chằm.
“Đi đi, ta không giúp được đâu.”
Ông lão xua tay tỏ ý đuổi Ngô Sĩ Thịnh. Ông ta nói giọng Khách Gia, vẻ bất lực.
“Gì cơ?”
“Anh bị ma nữ quấn lấy, chẳng còn được mấy ngày đâu, mau về chuẩn bị hậu sự đi.”
“Ý của ông là gì?”
Câu nguyền rủa đến bất thình lình làm Ngô Sĩ Thịnh sợ toát mồ hôi lạnh.
“Đèn bị phá mất rồi, còn làm gì được nữa? Nam trái nữ phải, đèn bên trái hỏng, đèn bên phải không có động tĩnh, chắc không phải vợ anh mới mất gần đây chứ?”
Nghe ông lão nói vậy, Ngô Sĩ Thịnh không thốt ra được câu nào.
“Xem ra ta đoán đúng rồi. Tuy ta có thể thông linh, nhưng không có cách nào giải nguy.”
“Tôi đến là để tìm một đạo cô, trước đây tôi từng gặp cô ta ở khu vực Bắc Đầu, cô ta bảo tôi, nếu cần giúp đỡ thì cô ta ở dưới chân núi Hồng Lô Địa.”
“Ta không biết anh đang nói đến ai, tóm lại, mau đi chuẩn bị hậu sự đi.”
Ngô Sĩ Thịnh nổi điên trước thái độ vô trách nhiệm của ông lão, bèn túm lấy cổ áo ông ta, cáu tiết chửi:
“Mẹ kiếp! Luôn mồm kêu người khác chuẩn bị hậu sự, ông muốn ăn đòn à!”
“…”
Thấy ông lão nhìn chằm chằm sau lưng mình, vẻ mặt nặng nề, Ngô Sĩ Thịnh liền cảm thấy nỗi sợ ập đến, vội quay đầu dòm xem có gì bất thường không. Nhưng ngoại trừ chiếc TOYOTA ALTIS Z do chính gã lái, thì sau lưng chỉ còn lại sườn núi phủ đầy cây bụi cỏ dại.
“Ở trên xe sao?”
“Ừ.”
Câu trả lời ngắn gọn của ông lão khiến Ngô Sĩ Thịnh suýt tiểu ra quần.
“Tôi nên làm thế nào?”
Ông lão quay đầu sang, nhìn Ngô Sĩ Thịnh bằng ánh mắt không thể cứu vãn.
“Tôi biết rồi.”
Ngô Sĩ Thịnh thả tay ra, đứng lặng tại chỗ, tiến thoái lưỡng nan.
“Bà đồng lợi hại nhất nơi này đang ở kia.”
Ông lão chỉ vào một con đường núi nhỏ hẹp rẽ nhánh, nằm xéo bên trên.
“Đi lên đó là có thể tìm được bà ta sao?”
“Rất dễ tìm, một đống người đổ xô đến nhờ bà ta giúp đỡ ấy.”
Ông lão nói xong, liền lách vào nhà. Trước khi kéo cửa cuốn sắt xuống, ông lão lại ngoảnh đầu nhìn Ngô Sĩ Thịnh.
“Hy vọng anh có thể sống sót.”
Sau đó “soạt” một tiếng, ông lão kéo cửa cuốn sắt xuống, bỏ mặc Ngô Sĩ Thịnh ở bên ngoài.
Ngô Sĩ Thịnh không muốn trở lại xe, không còn cách nào khác, đành đi bộ lên núi.
Hai bên đường núi mọc đầy cây trinh đằng ba mũi, sau khi quẹo trái rẽ phải chừng trăm mét, một mùi thảo dược hăng hắc bay đến.
Ngô Sĩ Thịnh lần theo mùi thảo dược ngoặt sang phải, rẽ vào một lối mòn hẹp hơn, quả nhiên nhìn thấy một nhóm các bà các chị đang xúm lại, không biết xôn xao bàn tán chuyện gì. Gã dừng bước, quan sát động tĩnh của họ từ xa.
Đột nhiên, tất cả bọn họ đều đổ dồn ánh mắt về phía Ngô Sĩ Thịnh đang nấp, làm gã nhất thời không biết hành xử ra sao.
Đám đông lùi lại chừa ra một khe hở, Ngô Sĩ Thịnh nhìn kỹ, hóa ra chính là đạo cô quái dị đó!
Chỉ thấy đạo cô vòng qua chiếc bàn gấp, gạt đám đông ra, rảo bước thẳng về phía Ngô Sĩ Thịnh, sau đó nhổ nước bọt vào mặt gã.
Hả?
Ngô Sĩ Thịnh sững sờ mất mấy giây mới hiểu chuyện gì vừa xảy ra.
Gã không nhịn nổi, điên tiết hét lớn: “Cô làm cái gì vậy?”
“Được rồi, giờ anh còn một tuần nữa.”
“Mẹ kiếp! Con mụ điên này!”
Ngô Sĩ Thịnh vung nắm đấm lên, định đánh vào mặt đạo cô. Nhưng gã lại nhớ đến câu tiếng dân tộc mà ông lão vừa nói, không khỏi nửa tin nửa ngờ. Mấy bà mấy chị kia nghe thấy, nhao nhao lao đến trách mắng Ngô Sĩ Thịnh không tôn trọng thầy.
Ngô Sĩ Thịnh lấy tay lau đờm trên mặt, bất ngờ phát hiện nó tỏa ra hương thơm dễ chịu của hoa cỏ.
“Đó là nước cốt thảo mộc tôi nhai, anh chớ cảm thấy buồn nôn. Giờ anh sắp bị ma con nhập, phải mau chóng đánh tan uế khí bám trên người.”
Đạo cô nói xong, liền kéo Ngô Sĩ Thịnh vào trong nhà.
Khác với những tòa công giải [*] bình thường, căn nhà lè tè này vừa sâu vừa tối, sau khi vòng qua thạch cảm đương [*] ở cửa nhà, ánh mặt trời bên ngoài đã bị ngăn cách hoàn toàn. Ngoại trừ gương bát quái, sơn hải trấn, bùa chú ở trên tường, bên trong chất đầy các loại đạo cụ thần phật, gian nhà chính đã chật hẹp lại lèn bàn thờ và ghế nhựa cho càng chật thêm. Đạo cô dẫn Ngô Sĩ Thịnh vào một căn phòng nhỏ, sau đó đặt một lò cao trên ghế của kiệu rước thần, thắp ba nén hương.
Ngô Sĩ Thịnh để ý thấy tay đòn bên phải của chiếc kiệu thần nhỏ đó dài hơn hẳn, một trác đầu tiên sinh [*] đang đốt vàng mã, huơ tay múa may trong không trung.
“Chiêu thỉnh thần minh, thần giáng!”
Ngô Sĩ Thịnh cũng biết láng máng về tín ngưỡng dân gian, vì vậy gã có thể lờ mờ đoán được, đạo cô này không phải một bà đồng bình thường, bà đồng chỉ là cách gọi theo thói quen mà thôi. Bất kể là trừ tà bắt ma, hay phù phép mời thần giáng, đều không giống với thầy mo trong dân gian Đài Loan. Từ khẩu âm của đạo cô, gã suy đoán rằng những phép thuật kỳ quái của cô ta có thể bắt nguồn từ phép thuật Mao Sơn ở đại lục.
Lúc này, cơ thể của đạo cô bắt đầu lắc lư dữ dội, cành đào mà cô ta cầm trong tay viết ra những chữ bói khó mà luận được trong khay cám tãi ra trên bàn. Sau khi dựa vào chữ để giải mã ý chỉ của thần, trác đầu tiên sinh viết một đạo bùa chú lên một tờ giấy vàng, rồi đưa cho Ngô Sĩ Thịnh.
Đạo Cô thở nhẹ một hơi, từ từ mở mắt ra, nói với Ngô Sĩ Thịnh:
“Lá bùa này là để hộ mạng anh, chỉ cần mang nó trên người, ma nữ kia tạm thời sẽ không gây nguy hại đến tính mạng anh, nhưng đây không phải là kế sách lâu dài. Muốn trừ khử ma nữ đó, phải lấy độc trị độc.”
“Lấy độc trị độc?”
“Bên mình ma nữ đó có một con ma trành [*] , chuyên môn giúp nó tìm người để nuôi ma con. Những người có ý chí bạc nhược, ý thức tự thân yếu kém thường sẽ trở thành mục tiêu, một khi những mục tiêu này nảy sinh thù hận và khí độc trong lòng, con ma trành đó sẽ nhân sơ hở mà nhập vào.”
“Thù hận và khí độc là sao?”
“Lòng người một khi sinh ra thù hận thì sẽ trở thành cái giường ấm nuôi dưỡng ma con.”
“Vậy lấy độc trị độc mà cô nói nghĩa là gì?”
“Chính là nuôi ma con để phản kích, diệt trừ tận gốc ma nữ đó.”
“Tôi không hiểu lắm.”
“Nói một cách đơn giản là anh phải tự mình nuôi ma con. Nói chung, có bốn cách để nuôi.”
“Bốn cách nào?”
“Cách thứ nhất, lấy gỗ hoàng dương ngâm vào chỗ nước có trẻ con chết đuối để tụ hồn, rồi dùng bùa khóa hồn đứa trẻ lại, đẽo gỗ thành hình người, đặt lên đàn làm phép một trăm linh tám ngày.”
“Nghe đáng sợ quá...”
“Đây vẫn chưa phải cách đáng sợ nhất đâu. Có người còn nạy quan tài, moi xác trẻ con từ trong bụng phụ nữ có thai chết vì khó sinh ra để tu luyện; kẻ thì đẽo gỗ đào thành quan tài nhỏ, đào mộ của đứa trẻ mới mất chưa lâu, lấy nến đốt cằm đứa trẻ, lấy quan tài nhỏ hứng mỡ xác chết, sau đó lại dùng thứ mỡ đó trực tiếp chế luyện ma con.”
Nghe thấy vậy, Ngô Sĩ Thịnh sợ đến đờ cả người, không thốt lên được tiếng nào.
“Còn một cách nhanh hơn. Đến thẳng những nơi xảy ra vụ giết người hoặc tai nạn, tìm một linh hồn trẻ con đã qua đời từ ba tuổi đổ lại. Sau đó lấy màn thầu thấm nước xác hoặc vết máu ở nơi đứa bé chết, tụ hồn xong thì nhét nó vào miệng xác thai nhi, đặt vào quan tài nhỏ rồi làm phép, chỉ cần bốn mươi chín ngày là có thể luyện thành hung thần.”
“Xác thai nhi á?”
“Cái gì cũng có nguồn cả mà.”
Nguồn của xác thai nhi, không phải là chỗ phá thai sao?
Ngô Sĩ Thịnh hơi buồn nôn.
Bất kể là cách nào đi nữa thì nghe cũng vô cùng tà ác. Nuôi ma con suy cho cùng vẫn là chuyện vô đạo đức, lại còn nguy hiểm. Ngô Sĩ Thịnh nghĩ đến cái chết của Quách Tương Oánh, còn cả Từ Hán Cường không bao giờ trở về... Tuy gã không dám không tin lời ông lão và đạo Cô vừa nói, nhưng cho dù Minako có khủng khiếp thế nào, gã cũng không muốn thử bừa cách này.
“Dù là cách nào thì cũng phải chọn giờ âm ngày âm tháng âm năm âm để xử lý. Coi như anh may mắn, năm sau vừa đúng năm Đinh Dậu, ngày gần nhất...” Đạo Cô bấm đốt ngón tay tính: “Là mùng tám tháng Một.”
“Không còn cách nào khác ư?”
Đạo Cô nghe thấy câu này, bật cười khinh miệt:
“Cách khác á? Ma nữ Nhật Bản đó có thể là ác ma, nhất định phải mạnh tay như vậy mới có thể diệt trừ tận gốc.”
“Còn giọng nói đó... Nếu có thể tìm được nguồn gốc của giọng nói đó thì sao?”
“Tôi biết anh muốn nói gì, nhưng cách đó còn nguy hiểm hơn cả nuôi ma con nữa. Anh tưởng xông vào địa bàn của ma nữ đó mà vẫn có thể an toàn thoát thân sao?”
Ngô Sĩ Thịnh kinh ngạc, có phần sững sờ không thốt nên lời.
“Cô biết chuyện này ư?”
“Con ma trành đó rất giỏi dụ bắt mục tiêu bằng giọng nói, không biết đã hại chết bao nhiêu người rồi.
Sau đó ma nữ Nhật Bản sẽ lợi dụng oán khí và lòng thù hận của vong linh, chế luyện ra thật nhiều ma con bán mạng tìm mục tiêu cho nó. Một bắt một, sau đó là hai bắt hai... càng ngày càng nhiều, càng ngày càng nhiều...”
Ngô Sĩ Thịnh cúi đầu, phát hiện hai tay mình không ngừng run rẩy vì sợ hãi.
“Tôi có một đồng nghiệp tên là Từ Hán Cường, có vẻ anh ta đã đi A Lý Sơn và không bao giờ trở lại...”
Đạo cô bĩu môi, liếc xéo Ngô Sĩ Thịnh.
“Đó là kết cục của việc tự tiện xông vào cấm địa đấy. Ma nữ Nhật Bản đó đang nuôi dưỡng một đội quân ma con trong vùng núi Ngọc Sơn, đi khắp nơi săn lùng kẻ chết thay. Người không hiểu chuyện vẫn cho rằng đó chỉ là Ma thần tử trong truyền thuyết dân gian Đài Loan.”
Ngọc Sơn?
Hóa ra Từ Hán Cường đi A Lý Sơn là để vào Ngọc Sơn, trừ khử Minako à?
Ngô Sĩ Thịnh ngẫm nghĩ, đúng vậy, trên đường vào vùng núi Ngọc Sơn, cũng chỉ có duy nhất một bưu cục A Lý Sơn thôi. Nói cách khác, Từ Hán Cường đã ôm quyết tâm ắt phải chết mà viết ra tấm bưu thiếp đó...
“Chẳng nhẽ không có cách nào giải quyết trực tiếp vấn đề này sao? Tôi cảm thấy nuôi ma con thực sự quá...”
Thấy Ngô Sĩ Thịnh phân vân, đạo cô đó đành cầm cành đào vừa mới viết chữ bói lên, uốn cong thành một hình thù quái dị, sau đó tiện tay vơ lấy một nắm tiền giấy, bọc cành đào lại, rồi quấn một tờ giấy giải nguy lên ngoài cùng.
“Nếu anh vẫn muốn thử bằng được thì cầm cái này theo. Trên đỉnh Tây của Ngọc Sơn, còn có một ngôi đền thần Tây Sơn của người Nhật Bản để lại, đó là sào huyệt của nó. Đốt cái này nhét xuống dưới đền thần, một khi đền thần bị thiêu hủy, pháp lực của ma nữ Nhật Bản đó cũng sẽ giảm mạnh, nếu may mắn, chưa biết chừng có thể tiêu diệt nó chỉ trong một lần ra tay.”
Ngô Sĩ Thịnh cầm lấy pháp khí có hình dạng giống con rối nhỏ, biểu cảm trên mặt tương đối phức tạp.
“Đúng rồi, trên xe tôi...”
“Đã giải trừ rồi. Đó chỉ là mảnh hồn của nó, không phải thân thể thật, không cần quá lo lắng.”
“Vì vậy hôm đó cô mới nhổ nước bọt ra ghế sau xe tôi à?”
“Năng lượng của mảnh hồn không mạnh, vả lại nó rất giỏi tránh né, nên tôi mới không phát hiện được ngay lập tức.”
Nghe đạo cô nhắc đến năng lượng, Ngô Sĩ Thịnh đột nhiên nhớ lại tình cảnh ngày hôm đó và những nghi ngờ không giải thích được.
“Tại sao tôi vừa bật vô tuyến điện là cô đã phát hiện ra mảnh hồn của nó?”
“Vô tuyến điện?”
“Đúng, bộ đàm vô tuyến.”
Đạo cô nghiêng đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi mới chậm rãi trả lời:
“Có thể là hiện tượng từ trường. Sách thuật số có giải thích rằng ác linh là một loại trường điện từ rất mạnh, tôi nghĩ chắc tín hiệu đã được phóng đại qua bộ đàm, nên tôi mới phát hiện ra mảnh hồn của nó.”
Lúc Ngô Sĩ Thịnh bước ra khỏi căn nhà thấp thì trời đã tối hẳn. Các bà các chị vừa nãy tụ tập trước nền xi măng ngoài cửa giờ chỉ còn lại mấy người quỳ trên đệm tròn ở cửa, thành tâm cầu khấn.
Gã xuống núi theo con đường lúc lên, lòng nghĩ đến “hiện tượng từ trường” mà đạo cô nói.
Nếu gã nhớ không nhầm, bình thường sóng vô tuyến phát ra từ đài vô tuyến đi qua ăng ten chuyển thành dòng điện, rồi lại thông qua “bộ điều hưởng” được cấu tạo từ cuộn cảm và tụ điện biến đổi, điều chỉnh tín hiệu sang trạng thái “cộng hưởng”. Như vậy thì điện cảm và điện dung của máy thu mới khớp được với tần số của sóng điện từ do đài vô tuyến phát ra, thế mới nghe được tiếng phát thanh của đài vô tuyến. Ví như máy thu thanh, chính là dùng núm vặn điều chỉnh tụ điện biến đổi trong máy để chọn nghe các kênh phát thanh khác nhau.
Nghĩ theo hướng này thì giả sử ác linh có thể lợi dụng trường điện từ cực mạnh, mô phỏng hiệu quả của mạch dao động điện từ, sinh ra sóng vô tuyến, biết đâu có thể làm người ta nghe thấy giọng nói của chúng...
Chỉ là, thông thường máy thu thanh vẫn phải được trang bị bộ tách sóng và bộ phát âm mới có thể phát ra âm thanh. Vì dòng điện dao động do bộ cộng hưởng sinh ra có cùng dạng sóng với sóng vô tuyến, tần số cao và tần số thấp tồn tại đồng thời, nên cuộn cảm của bộ phát âm sẽ sinh ra cảm kháng, khiến dòng điện không thể đi qua, cũng tức là không thể phát ra âm thanh.
Mặt khác, tần số âm thanh mà tai người nghe được cũng có giới hạn, đối với tai người, các dao động cao tần như sóng vô tuyến vốn đã thuộc phạm vi sóng siêu âm, vì vậy buộc phải dùng bộ tách sóng để loại bỏ sóng mang, chỉ giữ lại sóng điện từ tần số thấp đại diện cho âm thanh, rồi thông qua bộ phát âm để chuyển năng lượng điện thành năng lượng âm thanh, như thế mới có thể nghe thấy tiếng.
Nói cách khác, cho dù giải thích dưới góc độ sóng vô tuyến, vẫn không thể lý giải được tại sao một số người nghe thấy mà một số người lại không nghe thấy giọng nói của ma. Trừ phi...
Trừ phi cơ thể những người đó có sẵn công năng của máy dò và bộ phát âm.
Lẽ nào đây chính là “thể chất thần bí” mà người ta hay nói sao?
Ác linh tương ứng với đài phát thanh, còn người có thể chất thần bí chính là máy thu thanh.
Nếu như không mau chóng diệt trừ ác linh Minako, sóng vô tuyến mà nó phát tán sẽ hại chết thêm nhiều người có thể chất thần bí.
Nghĩ vậy, Ngô Sĩ Thịnh ngồi vào ghế lái, thu hết can đảm nổ máy.
W*e l*ove eb*ook
Quách Thần San kéo vali đi từ nơi xuống xe khách loại nhỏ đến sảnh xuất cảnh trên tầng ba của cảng hàng không số hai. Trong sảnh rất đông người, chị nhanh nhẹn tìm đến quầy của hãng EVA Air làm thủ tục check-in và ký gửi hành lý.
Trong lúc đợi lên máy bay, Quách Thần San vào Starbucks ở tầng bốn mua cà phê và bánh mì để chống đói. Nhiều lần thấy cảnh các cặp đôi vừa trò chuyện, vừa thưởng thức trà chiều đây mãn nguyện, chị lại tủi thân muốn khóc. Hồi đó chồng chị bận học khóa quản trị kinh doanh của trường Đại học Chính trị, mỗi tuần lên lớp hai ngày, cuối tuần còn phải thảo luận nhóm, Quách Thần San liền nghe lời chồng, hy sinh sự nghiệp của mình, tập trung cho gia đình, nửa đêm cũng phải theo chồng lái xe đi chuẩn bị báo cáo, còn phải tranh thủ ngày nghỉ đến quán cà phê để cùng học và vạch ra những điểm quan trọng trong sách giúp chồng, cứ liên tục như thế trong vòng ba năm.
Sau đó chồng chị nhắm trúng tiềm năng của thị trường giấy đại lục, liền dời trọng tâm công việc sang bên đó, thu hút các nguồn vốn của đại lục và Singapore để tăng vốn điều lệ, lần lượt mở nhà máy ở Thiên Tân, Thượng Hải, Nam Kinh và Tô Châu. Cùng với việc đề cao ý thức bảo vệ môi trường và chi phí nguyên vật liệu gia tăng, giá giấy cũng lên theo, quả nhiên doanh thu tăng trưởng 7% so với năm ngoái, giá cổ phiếu cũng tăng 10%. Lại thêm Công ty giấy của chồng chị liên tục quảng cáo là sử dụng bột giấy tái chế với tỷ lệ 60% theo “tiêu chuẩn Đức”, dưới sự tăng cường giám sát của chính phủ, nó lại bộc lộ được hết khả năng, trở thành doanh nghiệp có tầm quan trọng chiến lược của ngành giấy.
Nhìn lại bản thân trong quá khứ từ góc độ hiện tại, Quách Thần San cảm thấy mình chẳng khôn hơn em gái chút nào. Thậm chí, Quách Thần San tự ngẫm rằng, dựa vào điều kiện của bản thân, việc chọn một thiếu gia con nhà buôn bán làm chồng có lẽ là quyết định ngu xuẩn. Nếu không phải vì chị có sở trường về mặt tài vụ thì nhà chồng sao có thể ngắm trúng chị cơ chứ?
Lúc đó Công ty giấy của nhà chồng sử dụng chứng chỉ tiền gửi để phát hành thương phiếu, thông qua chênh lệch lãi suất và sự khác nhau về thời gian đáo hạn, nhiều lần tiến hành các thao tác chứng khoán ngắn hạn, kết quả là, do thao tác đòn bẩy tài chính không phù hợp và đầu tư quá mức, dẫn đến tình trạng quyết toán chứng khoán sai hẹn. Nếu không phải Quách Thần San tích cực kiểm tra tình hình tài chính thật sự của công ty, bán những tài sản không phải cốt lõi, đồng thời làm trung gian đàm phán kế hoạch trả nợ với ngân hàng cho vay, Công ty tuyệt đối không thể có thành tựu như ngày hôm nay.
Quách Thần San nghĩ về chuyện cũ với tâm trạng tràn đầy hối hận, chỉ biết thở dài liên tục. Việc đến nước này, bản thân đã mất đi giá trị lợi dụng, chị chỉ có thể một mình tự giữ lấy cái vỏ rỗng tuếch của gia đình đã không còn tồn tại từ lâu, nhìn chồng và bồ nhí tiêu dao bên ngoài, hưởng thụ thế giới và khối tài sản kếch xù mà chị đã giúp gia tộc giành về.
Máy bay bắt đầu phát thông báo bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh, ngay sau đó thì cất cánh đúng giờ.
Quách Thần San nhìn đất Đài Loan dưới chân mình từ cửa sổ máy bay, không có tầng mây che khuất, có thể thấy rõ đèn đuốc dày đặc chiếu sáng toàn bộ đại đô thị phía Bắc. Chị lại bắt đầu tưởng tượng, đêm nay rốt cuộc có bao nhiêu người đau lòng muốn chết như chị, một mình khóc dưới những ngọn đèn kia.
Không biết có phải cố ý hay không, ánh đèn trên máy bay dường như tối đi, làm người ta mơ màng muốn ngủ, không ít người đã quấn chăn ngủ rồi. Quách Thần San lại không thể ngủ nổi. Màn hình đen trên máy bay phản chiếu vẻ mặt lo lắng của chị, các cơ trên gò má gần giật. Đó là người đàn ông của tôi, gia đình của tôi.
Giết cô ả...
Tôi phải lấy lại thứ thuộc về mình!
Bầu trời ngoài cửa sổ máy bay không có mây nên càng thêm tối tăm. Tâm trạng tiêu cực bao trùm tâm trí của Quách Thần San, chị siết chặt điện thoại trong vô thức, nhắm mắt lại, mặc cho nỗi hận nảy nở trong lòng.
Về nhà vẫn còn sớm nên Hồ Duệ Diệc quyết định đến siêu thị gần nhà để mua thức ăn. Chị đã mua cà rốt, khoai tây, hành tây và viên cà ri vị hơi cay, còn cả rau mầm và táo. Đây là những món mà chồng chị thích nhất, trước đây chị không biết rau mầm xào rất hợp để làm đồ ăn kèm món cà ri, không ngờ thử xong thì kinh ngạc tột cùng vì độ ngon, từ đó chị mới phát hiện chồng mình có vị giác rất nhạy bén đối với thức ăn.
Không, thực ra không chỉ có vị giác, năm giác quan của chồng chị dường như đều hơn hẳn người thường. Hồ Duệ Diệc cho rằng, điều này có liên quan đến tế bào nghệ thuật phát triển của chồng mình. Tuy cuối cùng anh không đi theo con đường sáng tác nghệ thuật chuyên nghiệp, nhưng làm một thầy giáo mỹ thuật trung học, dùng thời gian rảnh rỗi để chơi đùa với mực màu, chung quy vẫn tốt hơn làm một họa sĩ thu nhập không ổn định.
Trên bàn ăn tối, chồng chị đang vui vẻ kể về những chuyện vụn vặt khi đi tham quan buổi triển lãm tranh của bạn học hồi chiều.
“... Kết quả là có người chọc cậu ta, bảo bố cục bức tranh đó rất giống bức Suối nước nóng Bắc Đầu của Gobara Koto, khiến cậu ta lúng túng ra mặt, ha ha!”
"Gobara Koto à?”
“Một họa sĩ Nhật Bản, từng tổ chức triển lãm mỹ thuật ở Đài Loan, bồi dưỡng rất nhiều họa sĩ Đài Loan. Nãy anh vẫn chưa kể hết. Kết quả là người đó vừa nói xong, lập tức có người đặt ra nghi vấn, ngờ rằng bạn học của anh đạo tranh.”
“Tại sao?”
“Em xem này.” Người chồng vừa nói vừa lấy điện thoại ra, mở một bức tranh có bút pháp và tông màu rất trang nhã, phóng to cho Hồ Duệ Diệc xem. “Tòa nhà có mái màu xám ở phía sau là bảo tàng suối nước nóng Bắc Đầu, lúc đó gọi là nhà tắm công cộng Bắc Đầu. Còn tòa nhà có mái màu đỏ, tường màu trắng ở phía trước chắc là suối nước nóng Lung Nãi.”
Các tòa nhà trong tranh được bao quanh bởi những bụi cây trông giống rừng keo tương tư, hai cô gái mặc kimono cầm ô, dường như chuẩn bị bước lên cầu thang. Trên cầu thang có một cô phục vụ nữ đang gánh nước, trong nhà nghỉ thì có khách đang ngồi tán gẫu với nhau.
“Về góc độ, tranh của bạn học anh giống hệt bức này, nhưng giờ toàn bộ sườn núi đã bị nhà cao tầng bao phủ, không thể nào nhìn thấy bảo tàng suối nước nóng Bắc Đầu và suối nước nóng Lung Nãi cùng một lúc, chứng tỏ bạn học anh đạo tranh thật rồi.”
“Sao anh ta không đến tận nơi vẽ cảnh thật luôn?”
“Chuyện này thực ra cũng khó trách cậu ta được, giờ Bắc Đầu nhiều khách du lịch như thế, muốn vác theo một đống đồ vẽ đến đó, tìm vị trí tốt để yên tĩnh vẽ cảnh thật rất phiền phức.”
“Cho dù như vậy, cũng không thể đạo tranh được.”
“Đúng thế, có điều nói đến bảo tàng suối nước nóng Bắc Đầu, trước đây từng xảy ra một vụ án mạng kinh khủng.”
Nghe đến đây, Hồ Duệ Diệc cuối cùng cũng hiểu ngụ ý của chồng. Hóa ra chồng chị nói mấy chuyện này, ngoài để chia sẻ những điều thú vị thì còn có dụng ý tiếp tục chủ đề tối qua.
“…”
“Vẻ mặt ấy là sao, có liên quan đến Ma thần tử mà em đang nghiên cứu à?”
Chồng chị nói xong, liền lấy điện thoại mở một tấm hình khác, bên trên có những ô vuông ghi rõ địa điểm, tên trạm xe và nhà nghỉ.
“Đây là bản đồ chỉ dẫn của nhà nghỉ suối nước nóng Bắc Đầu vào năm 1935.” Sau đó chồng chị dùng tay phóng to bản đồ, chỉ vào một hồ nước trông như đang bốc khói. “Em nhìn cái này xem, đây là Địa Nhiệt Cốc.”
“Ồ, hóa ra là Địa Nhiệt Cốc.”
“Trước đây Địa Nhiệt Cốc được gọi là Địa Ngục Cốc, không chỉ nhiệt độ cực cao, nước suối còn có tính axit.”
“Có người... chết ở đây sao?”
“Ừ. Vào năm Chiêu Hòa thứ 10, có một cô gái xinh đẹp tên Chiyoko, sau một tuần kết hôn với nhà sư Yasuda Fumihide, được phát hiện đã chết phơi xác ở chỗ suối nước nóng phun trào. Lúc người dân phát hiện ra, thi thể của cô ta chỉ còn lại xương trắng, từ eo trở xuống đã bị ăn mòn hết cả, chứ đừng nói đến tóc và da. Vì nước suối quá nóng, đành phải đứng trên bờ lấy gậy vớt phần xác và xương vụn còn sót lại đặt lên ván, rồi dùng dây sắt kéo lên.
Hồ Duệ Diệc nhìn miếng thịt gà trong bát, chợt cảm thấy hơi buồn nôn.
“Được rồi, đừng kể nữa.”
“Xin lỗi, anh sẽ bỏ qua đoạn này. Tóm lại, lúc đó mọi người đều cho rằng vì vợ chồng bất hòa, nên Chiyoko mới mặc đồ ngủ một mình chạy đến Địa Ngục Cốc tự tử.”
“Nhưng?”
“Nhưng có lời đồn rằng, lúc Chiyoko về nhà ngoại, từng than phiền với mẹ nuôi rằng cô thường xuyên nghe thấy một cô bé nói tiếng bản địa bên tai mình.”
Nghe thấy chồng nói vậy, Hồ Duệ Diệc chợt nhớ đến bài báo về “vụ ma giấu Minako” mà chị tìm được hồi chiều, bèn rút tài liệu đã in từ trong túi ra, chỉ vào hai chữ “tiếng lạ”, hỏi:
“Anh dịch bài báo này hộ em cái.”
“ Nhật nhật tân báo à? Để anh xem...”
Người chồng kéo tài liệu về phía mình, tháo kính ra, gí sát mắt lại gần:
“... Xuất phát từ Ngọc Lý ở Hoa Liên cảng sảnh [*] , men theo đường cổ Bát Thông Quan, qua Bát Thông Quan đến khu cắm trại ở cuối sông Lão Nùng, sáng hôm sau, phát hiện Matsuda Minako mười ba tuổi đã bị mất tích, thế là chia làm hai đội, đội chính leo lên đỉnh theo kế hoạch đã định, và xuống núi theo hướng cửa lên A Lý Sơn, đội còn lại thì tạm nghỉ ở khu lánh nạn trên đường lên núi Tân Cao, tìm Minako ở vùng đầu nguồn sông Lão Nùng và thung lũng sông Trần Hữu Lan. Tìm kiếm như vậy ba ngày, đúng vào lúc sắp bỏ cuộc, có người tộc Bố Nông đưa Minako đến đồn cảnh sát Lạc Lạc, nghe nói cả người Minako ướt sũng, nằm sõng soài trên vách đá của khe suối gần suối nước nóng Lạc Lạc, dưới ngã rẽ của đường mòn. Theo miêu tả của người tộc Bố Nông, chỗ đó là Oung-oung (hẻm núi), phải đuổi ma quỷ đi bằng cách bắn cảnh báo. Sau khi được cứu, Minako liên tục nói mình nghe thấy giọng nói kỳ lạ... Đây là?”
“Đây là một mẩu tin vào năm Chiêu Hòa thứ 8 mà em tìm được. Anh xem, cùng là nghe thấy giọng nói kỳ lạ, nhưng sau khi bị ma giấu thì Minako lại được cứu về mà không rụng một sợi tóc.”
“Ý em là tại sao cô bé Nhật Bản lại không bị người tộc Bố Nông giết hả?”
“Không chỉ vậy, tất cả những người nghe thấy tiếng lạ đều chết, cô bé Minako này mất tích ba ngày trong vùng núi nguy hiểm, chẳng những không có vết thương như bị ngã hoặc rơi, cũng không nhắc đến tình trạng bị đói hay hạ thân nhiệt, mà sau khi tỉnh cô bé lại có thể nói chuyện với mọi người ngay lập tức, như chẳng có gì xảy ra, lẽ nào anh không cảm thấy quái lạ sao?”
“Cũng có thể bài báo không viết rõ? Huống hồ, nghe thấy tiếng lạ chỉ là cách nói của cô bé, không nhất thiết phải liên quan đến những sự kiện Ma thần tử mà chúng ta thảo luận trước đó.”
“Vậy anh hãy xem tiếp cái này.”
Hồ Duệ Diệc đưa hai tờ tài liệu khác cho chồng.
“Ô tô cán chết bé gái?”
“Đây là tin tức năm Chiêu Hòa thứ 9, Lưu Vận Nam đã tông chết một bé gái mười một tuổi ở khu 2, Thái Bình Đinh hồi đó. Rồi còn cái này nữa, bài báo năm Chiêu Hòa thứ 7. Lưu Xảo Xá, con gái mười hai tuổi của Lưu Vận Nam, mất tích hai mươi bảy ngày, sau đó có tìm thấy hay không thì em không biết. Tóm lại, trong ba năm đó, mỗi năm đều có một vụ án liên quan đến trẻ con.”
“Tay Lưu Vận Nam này sống ở khu 2, Thái Bình Định?”
“Chắc là không sai.”
“Nhưng mà, em lấy ba bài báo này, rốt cuộc muốn chứng minh điều gì? Ngoại trừ nạn nhân đều là trẻ con, còn có điểm chung gì khác sao?”
“Chỉ đọc ba bài báo này, em cũng không nghĩ ra có gì liên quan. Nhưng mà, chuyện anh vừa nói...”
“Án mạng Chiyoko năm Chiêu Hòa thứ 10.”
“Đúng, chính từ án mạng này, em mới nghĩ đến chuyện có thể điểm chung không phải là trẻ con, mà là hành vi trước khi chết. Anh xem kỹ chỗ này...” Hồ Duệ Diệc chỉ vào một đoạn trong bài báo về việc Lâm Hoàng Sâm Mai bị ô tô cán chết, đọc từng chữ một: “Nghe nói để xem lễ tế Thành hoàng Hà Hải ở khu Đại Đạo Trình, mấy hôm trước cô bé đã cùng mẹ nuôi lên phía Bắc. Dự định hôm đó về Cơ Long, thế mà lại gặp phải tai nạn thảm khốc này. Người mẹ nuôi từ tiệm xà phòng Kao trên đường Kinh Đinh đuổi tới, tận mắt chứng kiến cảnh này, tay chân bủn rủn.”
Trong thoáng chốc, chồng chị đã phát hiện ra chỗ bất thường, thở hắt ra một hơi.
“Anh hiểu rồi.”
“Mặc dù em không biết đường Kinh Đinh ở đâu, nhưng trước khi chết, Lâm Hoàng Sâm Mai từ một con đường khác lao đến khu 2, Thái Bình Đinh, tốc độ của cô bé quá nhanh, ngay cả người mẹ nuôi cũng không đuổi kịp, chỉ có thể trơ mắt nhìn con gái nuôi bị ô tô tông chết.”
“Quả thật rất bất thường. Hơn nữa họ đã chuẩn bị về nhà ở Cơ Long, thế mà lại đột nhiên xảy ra chuyện này, nói thật... quá là lạ lùng.”
“Lại nói chuyện Minako năm Chiêu Hòa thứ 8. Rõ ràng cô bé và đội leo núi cùng nhau ngủ ngoài trời ở điểm cắm trại sông Lão Nùng, vậy mà tự dưng đêm hôm khuya khoắt lại bỏ đội, một mình chạy vào trong núi sâu. Đây cũng không giống việc một đứa bé dám làm.”
“Sau đó là Chiyoko.”
“Đúng. Anh nghĩ mà xem, cho dù vợ chồng có bất hòa thế nào, thân là phụ nữ, thiết nghĩ tuyệt đối không thể chọn cách chết khốc liệt như vậy. Huống hồ Chiyoko còn xinh đẹp, nhất định rất quý trọng dung mạo của mình. Vả lại, một cô gái trẻ mặc đồ ngủ chạy ra ngoài tự tử... Dù nghĩ thế nào cũng thấy kỳ quặc.”
“Em nói không sai. Hành vi của Chiyoko trước khi chết quả thực hơi bất thường. Nghe nói, Chiyoko lao ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng. Khi đó chồng cô ấy đang tụng kinh ở trong viện Thiết Chân, cũng chính là chùa Phổ Tế bây giờ. Chiyoko quét dọn được nửa chừng thì đột nhiên dừng lại, chạy đến Địa Ngục Cốc trong bộ đồ ngủ... Liệu có phải giọng nói kỳ lạ đó đã mê hoặc bọn họ không?”
“Em cũng muốn biết, có điều, em không biết phải làm thế nào để chứng thực chuyện này... Suy cho cùng chúng ta đều không nghe được giọng nói kỳ lạ đó.”
“Qua những gì em nói, anh chẳng muốn nghe được giọng nói kỳ lạ chút nào.”
* * *
Ngô Sĩ Thịnh mua lương khô dinh dưỡng, dây thừng hướng đạo sinh, găng tay bảo hộ lao động sợi bông và mồi lửa, đồng thời để con dao Thụy Sĩ và chiếc đèn pin duy nhất trong nhà vào trong ba lô. Ba lô này trước đây gã mua để đi lội suối với bạn, có khả năng chống nước. Gã còn chuẩn bị áo mưa và la bàn để đề phòng tình huống ngoài ý muốn.
Vốn dĩ Ngô Sĩ Thịnh cho rằng, chỉ một ngày là leo đến đỉnh ngọn Tây của Ngọc Sơn, nếu có thể hành động cùng những người leo núi khác, chắc chẳng cần chuẩn bị nhiều thứ phiền phức như này, nhưng nhớ đến nội dung tấm bưu thiếp Từ Hán Cường gửi về nhà, gã cảm thấy cẩn thận một chút vẫn tốt hơn.
Ngô Sĩ Thịnh đã tra thông tin trên mạng, “cửa lên núi Ngọc Sơn” mà người ta thường gọi, thực ra là chỉ cửa lên núi từ chỗ yên ngựa Tháp Tháp Gia vào núi. Mọi người thường đỗ xe ở mốc cây số 108,4 của đường 18, sau đó đến báo cáo với trung tâm phục vụ leo núi Bài Vân và tiểu đội Tháp Tháp Gia thuộc đội cảnh sát Ngọc Sơn, trình giấy phép vào vườn quốc gia và giấy phép vào núi. Tiếp đó, lại chuyển sang ngồi xe buýt con thoi, từ bên ngoài Ủy ban Lâm nghiệp thực nghiệm Đại học Quốc gia Đài Loan đến thẳng cửa lên núi Ngọc Sơn.
Phiền một nỗi là, vì Ngọc Sơn có kiểm soát tải trọng sinh thái, số giường của sơn trang Bài Vân cũng có hạn, nên ban quản lý Ngọc Sơn không thể cho phép tất cả những người nộp đơn vào vườn quốc gia, một số người leo núi cũng vì thế mà phải đợi vài tháng. Tuy hạn ngạch số người đi khứ hồi trong ngày của tuyến ngọn Tây đã tăng, nhưng trước khi vào vườn quốc gia từ bảy ngày đến hai tháng, vẫn phải nộp đơn trên trang web của ban quản lý Ngọc Sơn mới được. Ngô Sĩ Thịnh không thể đợi lâu như vậy, đối với gã, trừ khử Minako là việc cấp bách nhất lúc này, nếu chậm một bước, thì có thể gã sẽ giống như lời ông lão Khách Gia nói... Không, chưa biết chừng ngay cả thời gian chuẩn bị hậu sự cũng chẳng có. Hơn nữa, mục đích chuyến đi này của gã là thiêu hủy trái phép các di sản văn hóa của vườn quốc gia, không thể đăng ký tên xong vẫn trắng trợn phóng hỏa được.
Vì vậy gã chỉ còn lại một lựa chọn - một mình xông lên.
Căn cứ theo thông tin trên mạng, từ cửa lên núi Tháp Tháp Gia, qua đình Mạnh Lộc, cửa lên núi Tiền Phong, rừng Bạch Mộc, Vách Đá Lớn, cuối cùng đến sơn trang Bài Vân sẽ cần khoảng bốn tiếng, tiếp theo lại từ sơn trang Bài Vân đi khoảng hai cây số về phía Tây thì có thể leo lên ngọn Tây của Ngọc Sơn. Miếu sơn thân trên đỉnh ngọn Tây chính là “đền thần Tây Sơn” mà đạo cô nói. Nếu nhanh chân thì có thể hoàn thành việc này trong một ngày.
Có một chỗ tương đối nguy hiểm, đó là sau khi Ngô Sĩ Thịnh dừng xe ở bãi đỗ xe Tháp Tháp Gia của Thượng Đông Phố, muốn tránh sự kiểm tra của tiểu đội Tháp Tháp Gia thuộc đội cảnh sát Ngọc Sơn, thì chỉ có thể băng qua rừng rậm rồi mới trà trộn vào với những người leo núi đã qua kiểm tra, cùng nhau đi theo tuyến đường cửa lên núi Tháp Tháp Gia. Theo cách tính này, cả đi lẫn về nhanh nhất cũng phải mất một ngày. Nói cách khác, chập tối nay gã phải khởi hành, lái xe năm tiếng liên tục đến Nam Đầu, tới bãi đỗ xe Tháp Tháp Gia trước nửa đêm, như vậy mới có thể suôn sẻ xuống núi trước khi trời tối vào hôm sau.
Gã đặt chiếc ba lô đã chuẩn bị xong lên ghế đẩu ở cửa, tựa vào thành cầu thang gỗ lạnh lẽo, trong đầu đã lên k?