Chương 5 Minako
Một chiếc taxi bóng loáng đỗ trước cửa hàng McDonald's trên đường Văn Tâm.
Quách Thần San bước xuống xe, kéo vali, cảm thấy cơ thể mệt mỏi lạ thường.
Vào đêm đoạn tuyệt đó, chị đã khóc suốt đêm trong một khách sạn ở Bắc Kinh, chỉ ngủ được một tiếng vào sáng sớm hôm sau rồi tỉnh ngay. Điện thoại có hai mươi sáu cuộc gọi nhỡ của chồng, nhưng chị không muốn gọi lại, mà đặt vé về Đài Loan.
Hóa ra... cuộc hôn nhân của chúng ta chỉ còn giá trị bằng hai mươi sáu cuộc điện thoại...
Quách Thần San không khỏi nhớ lại, trước đây lúc còn là người yêu, chị từng cãi nhau một trận đến mức tưởng chừng chia tay với chồng. Lúc đó Quách Thần San cố tình cắt liên lạc, chồng chị đã gọi hàng trăm cuộc điện thoại, còn ngồi cả ngày trong quán cà phê gần nơi chị trọ, để nắm đúng thời điểm chị ra ngoài, quỳ xuống xin lỗi chị.
Nếu thật sự muốn níu kéo chị quay lại, hẳn là sẽ giống lần trước, canh ở sân bay đợi chị...
Nhưng không. Chồng chị không còn là người đàn ông toàn tâm toàn ý, trao hết cho chị như trước nữa. Quách Thần San lên máy bay mà không một chút trở ngại, trở về Đài Loan.
Quách Thần San đi qua giếng trời, đột nhiên nảy sinh cảm giác chán ghét kinh khủng đối với tòa nhà này. Chị đứng lặng cạnh hồ nước sau giếng trời, chăm chú nhìn vào công trình màu đen nằm trong khe hở giữa các tòa nhà cao tầng. Chị luôn cảm thấy thứ đó rất xui xẻo, không sao diễn tả nổi, giờ thì cuối cùng đã hiểu ra tại sao.
Hóa ra đó là bia mộ của mình à...
Đó là địa điểm mới của tòa nghị chính hội đồng thành phố, từ góc nhìn của chị, có thể trông thấy mặt bên phủ kính màu đen. Tuy nó do Công ty kiến trúc nổi tiếng của Thụy Sĩ thiết kế, cũng rất được người dân thành phố khen ngợi, nhưng vào giây phút này, trong mắt Quách Thần San, nó đã biến thành một huyệt mộ u ám đủ để nuốt chửng chị.
Lúc mới chuyển đến, sao chị không nhận ra điều này cơ chứ? Chỉ lo thưởng thức đại sảnh trần cao, phòng tiếp tân và phòng nghe nhìn sang trọng bị những căn phòng xa xỉ như phòng trà, phòng thử rượu, phòng học nấu ăn, trung tâm thẩm mỹ, KTV, phòng mạt chược, phòng thể dục, thậm chí cả phòng tắm spa ẩn khuất, mê hoặc đến mức hoa cả mắt, mà không biết rằng sau chưa đầy một năm sống như mơ, người trong nhà đã tứ tán khắp nơi, chỉ còn mình chị vẫn ở lại tòa lâu đài vật chất bất di bất dịch này, đợi chết.
Những suy nghĩ cực kỳ tiêu cực từng bước chiếm cứ đầu óc của Quách Thần San, dường như chị đang tìm lối ra trong một mê cung không có ánh sáng, cuối cùng lại bất ngờ va phải một căn phòng bí mật bị chôn sâu bên rìa ý thức. Bên trong có một giọng nói quen thuộc dẫn dắt hành động của Quách Thần San, sau đó chị mở nó ra.
Trả thù.
Chị nên đoạt lại những gì thuộc về chị...
Quách Thần San nghe thấy giọng đó nói như vậy.
Đó là... giọng ai?
Sau ba lượt vắt óc suy nghĩ, cuối cùng Quách Thần San cũng nhớ ra mình đã nghe thấy giọng nói đó ở đâu.
Thật là một bất ngờ đẹp đẽ.
Dù đã ba năm trôi qua nhưng tình cảnh hôm đó vẫn sống động như một thước phim chiếu lại. Một nhóm quý bà đang ngồi trên ghế ngoài trời của quán rượu nào đó, ánh mặt trời xuyên qua chiếc ô che nắng khổng lồ trên đầu họ, rọi vào ly thủy tinh trang trí hình bán đảo Cape Cod, làm cho chất lỏng màu đỏ máu trong ly càng thêm trong suốt.
Giọng nói đó đến từ góc chéo đối diện với Quách Thần San. Một người phụ nữ toàn thân mặc đồ Burberry, tay phải cầm ly rượu, tay trái nhẹ nhàng vuốt ve đứa bé sơ sinh trong lòng. Quách Thần San nghe cô ta nói về bí quyết có con của mình, cánh môi mở ra khép vào, lỗ mũi phập phồng theo giọng điệu, vẻ mặt đắc ý làm người khác khó quên. Nhưng Quách Thần San có thể hiểu được tâm trạng của cô ta. Nếu cô không có đứa con đang ôm trong lòng thì dưới áp lực của dòng họ, chồng cô đã có tình mới từ lâu rồi.
Hóa ra là Hồng Lô Địa à...
Người phụ nữ đó đã xin Chú Sinh nương nương tại Nam Sơn Phúc Đức cung ở Hồng Lô Địa, được một đứa con trai, nhưng lập tức có người đặt ra nghi vấn, bảo rằng đó không phải là miếu âm [*] sao? Cô ta nghe xong liền mỉm cười đáp: “Nếu đúng là như vậy, còn cầu được cục cưng này sao!” Sau đó mới có một người phụ nữ khác giải thích rằng, Phúc Đức cũng không thể là miếu âm, chỉ vì ở bên cạnh “hộp đêm (bãi tha ma)”, nên mới đồn đại vậy thôi.
Chủ đề vừa mở, lập tức có người chia sẻ bí quyết hồi xuân và giữ chồng, bảo là cũng tìm pháp sư ở Hồng Lô Địa, vô cùng kinh nghiệm, không chỉ khiến chồng hồi tâm chuyển ý bỏ bồ nhí, mà còn chẳng cần đến thẩm mỹ viện để chỉnh hình vi phẫu và dưỡng nhan nữa.
Lúc đó Quách Thần San chỉ nghe như chuyện cười, cũng không bao giờ cho rằng mình cần tiếp xúc với những thứ tà ma ngoại đạo đó. Chị hoàn toàn không ngờ mới có ba năm mà mình đã rơi vào tình cảnh này.
Chị lấy điện thoại ra, tìm số của Lâm Thục Mỹ rồi bấm gọi.
"A lô?”
“Thục Mỹ phải không? Tớ là Thần San đây.”
“Ừ, Có việc gì thế?”
“Giờ cậu có rảnh không, tìm một người hộ tớ với.”
“Giờ tớ đang chuẩn bị đi chơi bóng quần với chồng, cậu cần gấp lắm à?”
“Gấp lắm.”
“Cậu vẫn khỏe đấy chứ? Nghe giọng có vẻ...”
“Không khỏe. Cho nên xin cậu đấy.”
“Cậu muốn tìm ai?”
“Tớ quên mất tên của cô ấy rồi, chồng cô ấy làm bên sơn hóa học đó.”
“Sơn hóa học? Cậu nhớ tên công ty không?”
Quách Thần San nhớ tên của công ty sơn đó có chữ “thần”, vì có liên quan đến tên của mình, nhưng tên đây đủ là gì thì đã quên sạch bách.
“Thần gì đó... tớ quên rồi.”
“Là Thần Vũ phải không? Cậu muốn tìm Tú Cầm?”
“Đúng, đúng, chính là Tú Cầm. Cậu có số của cô ấy không?”
“Tớ có, tớ nhắn cho cậu ngay đây.”
Sau khi cúp máy, chưa đến mười giây, Lâm Thục Mỹ đã gửi một số điện thoại đến. Quách Thần San ấn giữ vào chuỗi số đó, điện thoại hiện ra một thanh tùy chọn, bao gồm quay số, gọi FaceTime, gửi tin nhắn, thêm thông tin liên lạc và sao chép.
Quách Thần San do dự một chút, cuối cùng vẫn ấn quay số.
* * *
Sau khi ô tô tiến vào Đông Phố, có thể thấy nhiều vách núi sạt lở, việc này làm Hô Duệ Diệc nhớ đến tình cảnh thảm khốc năm xưa. Nhưng càng đến gần phố suối nước nóng, càng có nhiều cửa hàng và khách sạn đặc sắc trong khu vui chơi, không còn là cảnh núi rừng đơn điệu nữa.
Hồ Duệ Diệc xuống xe, rảo bước đi vào khách sạn suối nước nóng đã đặt trước. Chồng Hồ Duệ Diệc đỗ xe xong, xách vali đi vào thì vừa đúng lúc chị hoàn tất thủ tục nhận phòng. Hai người họ để vali cỡ lớn ở phòng, chỉ mang theo ba lô nhẹ nhàng tiện dụng ra ngoài.
Muốn đến suối nước nóng Lạc Lạc Cốc, thông thường đều đi qua đường cổ Bát Thông Quan. Hồ Duệ Diệc và chồng men theo ngõ Khai Cao đi thẳng về phía Nam, trên bức tường dọc đường, thỉnh thoảng xuất hiện những hình vẽ graffiti cầu vồng và tô tem của tộc Bố Nông. Sau khi xuyên qua một đường hầm thì đi lên dốc theo biển chỉ dẫn, bản đồ chỉ đường bằng gỗ cho họ biết nơi đây là điểm bắt đầu của đường cổ - cửa lên núi Đông Phố.
Bên cạnh bậc thang leo lên trên có một cột đá lớn khắc tô tem của tộc Bố Nông, trên mặt đất còn khắc cả lời giới thiệu về lịch sử của con đường cổ. Họ đi qua vô số bậc đá lát bằng đá phiến sét, tiến vào phạm vi của rừng ma trúc.
Trên mặt đường có rất nhiều lá khô, sau khi dính nước mưa thì trở nên trơn trượt. Hồ Duệ Diệc vừa mới nghe nhân viên lễ tân khách sạn nói rằng, chiều hôm qua có một trận mưa lớn bất ngờ trút xuống, vì vậy nhân viên nhắc Hồ Duệ Diệc nhất định phải cầm theo áo mưa.
Đang đi, mặt đường bỗng trở nên vô cùng gập ghềnh, còn có nhiều khẩu hiệu cảnh báo đá rơi. Hóa ra chỗ này là vách đá Phụ Tử, do đứt gãy sông Sa Lý Tiên kéo trượt, tạo thành các khối đá vỡ vụn trên đường núi. May mà đoạn đường đi bộ còn lại vẫn khá dễ đi, rất nhanh sau đó, họ đã đến ngã rẽ đầu tiên - ngã ba suối nước nóng Lạc Lạc Cốc.
Biển chỉ đường ở ngã ba bảo họ đi thẳng sẽ đến thác Vân Long, sau khi qua thác Vân Long, muốn đi tiếp thì phải nộp đơn mới được. Có điều, Hồ Duệ Diệc cũng không có tâm trạng để thưởng thức phong cảnh con đường cổ, bèn rẽ phải luôn, con đường đi bộ bắt đầu dốc xuống rất nhanh, chênh lệch khoảng 300 mét, vì có một số nơi thậm chí dốc đến bảy mươi độ, lại thêm hiện tượng sạt lở do gió bão, lũ bùn gây nên, khá nguy hiểm.
Họ men theo con đường đất đá cao và dốc, chầm chậm bước trên lối nhỏ hình chữ S, sau vài chục phút, đã có thể nhìn thấy nơi giao nhau giữa sông Trần Hữu Lan và sông Lạc Lạc.
Chật vật mãi mới xuống đến điểm cuối, rốt cuộc cũng nhìn thấy hẻm núi tráng lệ do sông Trần Hữu Lan như một chiếc rìu tạo thành. Họ men theo bờ phải của sông Trần Hữu Lan, đi qua bệ cáp thép bỏ hoang, nghi là cáp treo Lưu Lung thời kỳ đầu.
“Nghe nói sơn trang Cổ Đạo ngày trước ở gần đây đấy!”
Chồng chị luôn thích nghiên cứu sâu về lịch sử và sự biến đổi của địa vật, nhìn thấy di tích Lưu Lung, không kìm được mà hồ hởi thông báo.
Sơn trang Cổ Đạo còn được gọi là nhà nghỉ Ngô Kết. Ngay từ thời nhà Thanh, tổ tiên của Ngô Kết đã khai hoang ở Lạc Lạc Cốc, đến đời Ngô Kết thì dựng giường ghép lớn cao hai tầng ở khe suối, để tiếp đón khách du lịch với chi phí ăn ở rẻ. Hồi đó, du khách còn ngồi cáp treo Lưu Lung bắc qua sông Trần Hữu Lan đi tham quan thạch nhũ, nên nhà nghỉ rất được những người leo núi hoan nghênh, trong ngoài khắp nơi đều là cờ và câu chữ lưu niệm của các đoàn leo núi.
Có điều, sau khi ban quản lý Ngọc Sơn được thành lập, cảnh sát vườn quốc gia và cảnh sát hình sự phân cục Tín Nghĩa cho rằng Ngô Kết tự ý kinh doanh, còn mắc máy phát điện cỡ nhỏ, lợi dụng dòng nước xiết của khe suối ngọn Bắc để phát điện, có nghi vấn trốn thuế và khai hoang quá mức, nên đưa Ngô Kết đi xử theo pháp luật. Sơn trang Cổ Đạo cũng vì vậy mà tiêu tan.
Họ dựa theo chỉ dẫn trên đá, đi ngược dòng lên tận thượng du, cẩn thận trèo qua những tảng đá khổng lồ giữa lòng suối. Ở những chỗ nước sâu hơn, còn phải lội trong nước suối lạnh buốt ngập đến đầu gối.
“Đến rồi!”
Hồ Duệ Diệc mừng rỡ ngoảnh lại nhìn chồng. Trên vách đá bên trái hiện rõ chỗ nước chảy ra, mùi lưu huỳnh thoang thoảng bay đến.
“Đây là suối nước nóng ạ?”
“Đúng rồi. Em không nhìn thấy chỗ nào cũng bốc khói sao? Ha ha.”
Hồ Duệ Diệc tìm một vách đá có hoa văn nhiều màu sắc, cởi giày và tất, ngồi trên một tảng đá lớn, ngâm chân xuống nước suối nóng.
“Dễ chịu quá!”
Chồng chị cũng tìm một tảng đá lớn để ngồi. Mặc cho quần áo bị ướt, anh nằm thẳng xuống nước.
Có điều, vì là hẻm núi do dòng sông chảy qua tạo thành nên hai bên bờ có không ít những vách đứng khó trèo. Hồ Duệ Diệc không kìm được bắt đầu tưởng tượng đến cảnh năm xưa Minako bị mắc kẹt trên đó - người tộc Bố Nông nhìn thấy, chắc là cũng rất nhức đầu đây.
“Đúng rồi, em bảo muốn đến đây là vì bài báo về Minako... Nhưng em nói phá giải lời nguyền... rốt cuộc là có ý gì?”
“Em nghi ngờ Minako cố ý rời đội, chạy đến đây.”
“Cố ý rời đội? Lý do là gì?”
“Em đoán là do cô bé đã tiếp xúc với thứ gì đó khiến cô bé cảm thấy không sạch sẽ... Không chừng là tiếp xúc với cái chết hoặc đám tang của ai đó, tóm lại, cô bé không thể trực tiếp lên đỉnh núi, vì ở đó có đền thần.”
“Ừm... Nhưng việc này có liên quan gì đến nguyền rủa?”
“Không phải các Thần xã đều có Thủ thủy xá để người thăm viếng rửa sạch dơ bẩn sao? Em nghĩ, Minako làm thế là để loại bỏ dơ bẩn của mình, nhưng kèm theo đó lại trừ bỏ được lời nguyền của giọng nói.”
“Ý của em là... thanh tẩy”
“Thanh tẩy? Là sao?”
“Em nhắc đến Thủ thủy xá, anh còn tưởng em biết cơ. Thủ thủy xá trong Thần xã chính là nơi để thanh tẩy, dùng nước rửa sạch cơ thể mình, loại bỏ dơ bẩn. Trước đây anh có đọc qua cuốn Cổ sự ký , nếu nhớ không nhầm, Izanagi [*] vì tiếp xúc với những thứ chết chóc ô uế khi xuống Hoàng Tuyền [*] , nên đã tiến hành nghi lễ thanh tẩy nước Tsukushi và Hyuga [*] .”
“Em không biết điều này... Ý của anh là, thật sự Minako đã... tiến hành thanh tẩy ở suối nước nóng này sao?”
“Thanh tẩy có rất nhiều hình thức, ngoài Thủ thủy xá, còn có Thủy hành, Lung hành, Thủy cấu ly và Hàn cấu ly... Chắc em từng xem các cảnh tu hành dưới thác nước trong phim rồi chứ? Đó chính là Lung hành, là thanh tẩy.”
“Vậy suối nước nóng cũng có tác dụng này ạ?”
“Tất nhiên là có, văn hóa nhà tắm và suối nước nóng của người Nhật Bản có liên quan đến lễ thanh tẩy. Trước đây suối nước nóng không phổ biến như bây giờ, thông thường người dân chỉ có thể lấy cớ thăm viếng thì mới được ngâm suối nước nóng”
“Cho nên...” Hồ Duệ Diệc không khỏi trầm ngâm một lúc. “Minako thật sự là vì việc này...”
“Ấy, vợ này, sao em lại để tâm đến chuyện này như thế?”
“…”
“Có liên quan đến sự việc bệnh viện em phải không? Là cô Tư Tư đó à?”
“Ừm.”
“Ồ, anh hiểu rồi. Em lo rằng cô ta sẽ chết.”
“Anh nói giọng đó là có ý gì?”
“Không có gì. Chỉ là anh hơi ngạc nhiên, em lại đi tin những lời thần quỷ đó.”
"Em...”
“Trước đây em còn không tin cả bói toán cơ mà. Lần này có gì khác sao?”
“Khác?”
Bị chồng hỏi như vậy, Hồ Duệ Diệc mới phát hiện quả thật mình chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề này.
Tại sao lần này mình... lại tin trên đời có ma quỷ tồn tại?
“Em nghĩ, chắc là vì em tin họ.”
“Tin... ai?”
“Em ở phòng bệnh tâm thần đã rất nhiều năm, những bệnh nhân đó là những người không biết nói dối. Vì vậy em mới cảm thấy giọng nói đó nhất định là thật.”
“Điều đáng nói là họ lại có vấn đề về tâm thần, nên có thể là ảo giác chăng? Không phải có triệu chứng gọi là... ảo giác thính giác gì đó sao? Chắc bác sĩ cũng chẩn đoán như vậy phải không?”
“Không phải ảo giác thính giác. Em cực kỳ chắc chắn đó không phải là ảo giác thính giác.”
“Em đã nói vậy thì anh cũng cảm thấy rất có khả năng. Luôn có những người có thể thông linh, nhìn thấy ma quỷ. Nghe thấy giọng nói của ma quỷ, sau đó bị mê hoặc thần trí... Hình như cũng không huyền bí cho lắm. Em muốn đi chỗ khác xem không?”
Hồ Duệ Diệc cũng cảm thấy ngâm thế đủ rồi, bèn theo chồng lên đường đi du ngoạn khu vực thác Vân Long, để gió tự hong khô quần áo và giày tất ướt. Họ dạo chơi đến gần giữa trưa, mới nhằm hướng khách sạn quay về.
Hồ Duệ Diệc và chồng tìm được một quán ăn có phục vụ các món ăn của người bản địa ở gần Khách sạn, vì không phải ngày nghỉ, lại đã quá giờ dùng bữa, nên trong quán chỉ có hai người họ.
Lúc sắp ăn xong, Hồ Duệ Diệc phát hiện có một bà cụ chắc là người Bố Nông ngồi ở cửa quán, trông về núi rừng đằng xa, không biết trong lòng đang nghĩ gì.
“Bà ấy đã chín mươi mốt tuổi rồi, chắc hai người không nhìn ra đâu nhỉ?”
Người đàn ông trung niên vừa nãy bưng đồ ăn ra, chắc là chủ quán, thân mật bắt chuyện với họ. Nghe chủ quán nói vậy, Hồ Duệ Diệc thật sự hơi ngạc nhiên. Xét theo tuổi bình quân của người bản địa thì bà cụ coi như là cực thọ rồi.
“Anh là?”
“À, tôi là con của bà ấy.”
Hồ Duệ Diệc mừng húm. Cuối cùng cũng nghe được giọng nói khoáng đạt độc nhất của người bản địa.
“Mẹ của anh khỏe thật đấy.”
“Đúng thế, trước đây bà thường đi đường núi, nhờ thế mà sức khỏe tốt lắm.”
“Thường đi đường núi?”
“Ừ, từ thời thuộc Nhật, trước khi chuyển đến đây, hudasmumu (cụ) của tôi từng làm cảnh đinh của đồn cảnh sát Nhật Bản, thường hay chạy qua chạy lại giữa Thủy Lý và Quan Cao. Mẹ tôi cứ thế chạy theo... Đường sá ở đây, kể cả đường cổ Bát Thông Quan, cứ hỏi bà ấy là chuẩn!”
Hồ Duệ Diệc không lạ gì kế hoạch di cư tập thể của chính phủ Nhật Bản lúc bấy giờ. Sau sự kiện Vụ Xã, để kiểm soát các dân tộc bản địa của Đài Loan, người Nhật đã thi hành chính sách cưỡng chế di cư tập thể. Năm Chiêu Hòa thứ 9, ban quản lý thổ dân của cục Cảnh vụ vạch ra “kế hoạch mười năm di dời thổ dân”, vì từng xảy ra “sự kiện thổ dân xã Quận Đại tẩu thoát”, nên khu thổ dân của quận Tân Cao, cũng tức xã Tín Nghĩa hiện nay, là một trong những vùng thực hiện việc di cư tập thể triệt để nhất. Không ít thị tộc và bộ lạc của xã Quận Đại đã bị ép phải rời khỏi nơi ở của tổ tiên, chuyển đến khu vực mà nay là thôn Đông Phố và thôn La Na. Việc chuyển đến đây” mà chủ quán nói, có lẽ chính là một phần trong kế hoạch di cư tập thể.
“Cảnh đinh?”
“Thực ra chính là tạp vụ, làm chân sai vặt đi mua đổ hoặc gửi thư giúp họ. Cô cũng biết đấy, hồi đó chúng tôi toàn bị kêu đi làm những việc như sửa đường sá này, thồ hàng lên núi này, chúng tôi nhiều kinh nghiệm nhất đấy.”
Tuy giọng điệu khá nhẹ nhàng, nhưng Hồ Duệ Diệc vẫn có thể nghe ra chủ quán hơi bất mãn trước cách xã hội đối xử với người bản địa.
“Mẹ tôi ngồi rỗi cũng chán lắm, nếu hai người thích thì có thể nói chuyện với bà. Tôi đi rửa bát cái đã.”
“Được rồi.”
Chồng chị thanh toán xong, muốn về khách sạn tắm rửa nghỉ ngơi trước, để chị ở lại quán ăn một mình. Chị tự ý tìm một chiếc ghế đẩu ở cửa, ngồi xuống trước mặt bà cụ. Mặt bà tuy có nếp nhăn, nhưng chắc vì nước da ngăm đen nên trông lại trẻ. Chỉ từ những nếp nhăn hằn rõ trên da mu bàn tay mới nhìn ra được bà đã cao tuổi.
Bà cụ để ý thấy Hồ Duệ Diệc, bèn tủm tỉm cười, hai nếp nhăn khóe miệng làm Hô Duệ Diệc liên tưởng đến khe suối mà chị khảo sát hồi sáng.
“Con chào dì ạ.”
“Chào con.”
Đây là lần thứ hai Hồ Duệ Diệc bị bà cụ làm kinh ngạc. Cụ già người bản địa ở độ tuổi này mà lại nói tiếng phổ thông chuẩn như vậy, hơn nữa đầu óc vẫn khá minh mẫn, không thua lớp trẻ ở đồng bằng chút nào.
“Dì à, dì khỏe thật đấy, vừa nãy con trai dì nói dì đã chín mươi mấy tuổi rồi. Con có quen mấy cô bạn người Bố Nông, còn trẻ mà còn không khỏe bằng dì!”
“Thật à... Con quen ai vậy?”
Hô Duệ Diệc suy nghĩ một chút, quyết định không nhắc đến Buni.
“Con quen Aping.”
Aping là tên tiếng bản địa của Tư Tư.
“Còn cái tên đằng sau?”
Hồ Duệ Diệc đoán bà cụ nói đến tên thị tộc. Nhưng chị không biết trên thị tộc của Tư Tư.
“Con không biết.”
“Islituan? Tansikian? Manquqou?”
Bà cụ liên tục đưa ra ba từ mà Hồ Duệ Diệc nghe không hiểu, nhưng vừa nhìn thấy vẻ mặt của Hồ Duệ Diệc là bà hiểu ngay, dù có hỏi tiếp thì Hồ Duệ Diệc cũng chẳng rõ.
“Không sao, con đến đây chơi à?”
Hồ Duệ Diệc bị bà cụ hỏi một câu như vậy, bỗng nhiên hơi bí từ.
Có thể coi là đến chơi không?
Có lẽ giống một cuộc điều tra cá nhân hơn!
Nhưng Hồ Duệ Diệc nghĩ lại, cảm thấy trả lời như vậy thật quá xa rời thực tế, không khéo bà cụ còn cho rằng chị là cảnh sát.
“Vâng ạ, con đến tắm suối nước nóng.
“Vậy, con có đi dah-dah-han không?”
Hồ Duệ Diệc biết “dah-dah” trong tiếng Bố Nông có nghĩa là động vật dùng lưỡi liếm thức ăn, vì động vật thích đến Lạc Lạc Cốc liếm khoáng chất của suối nước nóng nên cũng có nghĩa là suối nước nóng. Nơi bà cụ nói chính là suối nước nóng ở Lạc Lạc Cốc.
“Có ạ, hồi sáng con có đi ngâm một lúc, rất dễ chịu ạ!”
“Bây giờ không thể đi ra phía sau thác Vân Long được rồi, đáng tiếc!... Sau khi vượt qua núi, có rất nhiều cây cà chua thân gỗ ngon! Trước đây già thường hay đi!”
Hồ Duệ Diệc đoán, nơi bà cụ nói chắc là khu rừng phía sau đường rừng Quận Đại. Chỗ đó vì gặp thiên tai như gió bão và động đất, vách núi bị sụp hết cả, chỉ có một con đường ruột dê nhỏ có dây thừng hỗ trợ để đi qua. Chắc là để tránh xảy ra nguy hiểm cho người leo núi, ban quản lý Ngọc Sơn đành áp dụng biện pháp quản chế.
“À thế ạ. Có điều con không khỏe như dì, chắc không trèo nổi đâu.”
“Không đâu, rất nhiều người đang đốt lửa sưởi ấm ở Wulitu (Sơn Tỳ Bà Địa) mà! Còn có sơn ốc Lạc Lạc, trước đây già từng đi qua, lúc đó nó vẫn còn là đồn cảnh sát của người Nhật Bản!”
Đồn cảnh sát Lạc Lạc.
Hồi đó Minako đã được người tộc Bố Nông đưa đến đồn cảnh sát Lạc Lạc từ một ngã ba phía trên nối với đường vượt đèo Bát Thông Quan. Thời gian đầu cảnh sát của đồn Lạc Lạc thường đi tắt theo ngã ba này xuống tắm suối nước nóng, song giờ con đường đã đổ nát vì mưa gió nên đi lại khó khăn. Nhưng đồn cảnh sát lại được cải tạo thành sơn ốc Lạc Lạc, đã qua vài lần tu sửa, két nước cũng được thay mới, coi như là lán lánh nạn cho người leo núi nghỉ lại khi lên núi.
Nghe bà cụ nói đến sơn ốc Lạc Lạc, Hồ Duệ Diệc chợt nảy ra ý nghĩ kỳ lạ, với cái tuổi chín mươi mốt của bà cụ thì năm Chiêu Hòa thứ 8 bà tầm bảy, tám tuổi, không chừng đã nghe tin đồn Minako bị ma giấu.
“Dì ơi, dì đã từng nghe đến một người tên là Minako chưa?”
Bà cụ nhíu mày.
"Minako...?”
Bà cụ từ trầm tư, ngờ vực, hoài nghi, rồi lại đến kinh ngạc, vẻ mặt biến đổi phức tạp cho thấy bà đã mò được cái tên ướt át này từ nơi sâu nhất trong ký ức.
“Minaku. Ý con là Minaku phải không?”
Tuy Hồ Duệ Diệc cảm thấy âm nghe hơi khác, nhưng chị lập tức hiểu ra, có thể là do cách phát âm từng âm tiết của cái tên tiếng Nhật “Minako” này trong tiếng Bố Nông có sự sai khác.
“Vâng. Một Cô bé người Nhật Bản, năm Chiêu Hòa thứ 8 leo núi Tân Cao, sau đó mất tích.”
“…”
Bà cụ đột nhiên quay ngoắt đi, vẻ mặt sa sầm.
“Dì à? Dì sao vậy? Không khỏe ạ?”
Nhìn thấy bà cụ mặt cắt không còn giọt máu, Hồ Duệ Diệc lo lắng hỏi. Nhưng bà cụ chẳng đáp lại mà quay ngoắt vào trong nhà, còn không cả chào tạm biệt, bỏ lại Hồ Duệ Diệc ngồi ở của một mình.
Nhưng bà cụ càng tỏ vẻ thần bí thì Hồ Duệ Diệc càng cảm thấy bà cụ đang che giấu bí mật gì đó. Thế là chị chẳng màng lễ phép, xộc thẳng vào trong quán ăn, đuổi theo bà cụ.
“Dì ơi!... Dì ơi! Dì sao vậy? Con đã nói điều gì... không nên nói hay sao?”
Bà cụ dừng bước chân loạng choạng, tay chống eo, nhìn Hồ Duệ Diệc với vẻ ưu tư. Qua một lúc lâu, bà cụ mới mở miệng nói:
“Cô đừng hỏi nữa!”
Hồ Duệ Diệc khựng lại trước giọng điệu gay gắt của bà cụ. Nhưng sau khi nghĩ đến trạng thái tinh thần ngày càng tồi tệ của Tư Tư, chị lập tức, thu hết can đảm nói ra mối lo của mình.
“Dì à... nếu dì biết gì đó thì nhất định phải cho con biết! Aping... Cô ấy liên tục nói là mình sắp bị Minaku giết...”
Bà cụ trợn mắt, mí mắt chảy xệ đột nhiên mở ra, để lộ lòng trắng màu vàng sẫm ở bên dưới. Hô Duệ Diệc thấy vậy, càng tin là bà cụ biết chuyện về Minako.
Bà cụ chậm rãi bước tới bàn ăn, kéo lấy một cái ghế đầu nhựa từ bên dưới, tì khuỷu tay lên bàn, chống đầu.
“Minaku... Cô ta vẫn còn sống à?”
"Dạ?”
“Lúc đó, sau khi hahanup (thợ săn) phát hiện và cứu cô ta, tumuku (thủ trưởng) và taini-uni (trưởng lão các hộ) palihansiap (mở cuộc họp) vào buổi tối, họp xong họ bảo rằng cứ đưa cô ta đến hasisiu (đồn cảnh sát), giao cho tamu-ungan (cảnh sát) là được, và đuổi bọn uvaaz (trẻ con) chúng ta đi chỗ khác, nói cô ta là hanitu (ma quỷ)...”
Bà cụ bắt đầu nói chêm một loạt các từ Bố Nông vào giữa câu, nhất thời Hồ Duệ Diệc không thể hiểu được. Nhưng từ ngữ cảnh của câu nói có thể lờ mờ luận ra ý của bà cụ. Mà từ cuối cùng thì chị hiểu. Nói tóm lại, Minako là ma, nên lúc đó bà cụ bị đuổi khỏi hiện trường, không được phép tiếp cận Minako.
“Hóa ra Minaku đúng là hanitu ...”
“Nhưng Baisu không nghe lời, lén chạy đến taluhan (lán) để xem Minaku, kết quả là ba hôm sau, anh ấy bảo là nghe thấy tiếng của latuk , rồi chạy vào trong núi và không bao giờ trở lại...”
" Latuk ?”
“Ừ. Latuk .”
Hồ Duệ Diệc lấy điện thoại ra, tra “lato”, “lado”, đều không tìm thấy kết quả nào có liên quan, cuối cùng mới nghĩ ra hậu tố này hơi ngắn, có âm gốc lưỡi rõ ràng, có thể là âm bật của phụ âm “k”, thế là lại gõ “tiếng latok ” vào thanh tìm kiếm.
Trang web hiện ra kết quả “cung cầm”. Hồ Duệ Diệc nhấn vào, phát hiện đây là một loại nhạc cụ của tộc Bố Nông, lấy trúc làm cung, lấy dây thép mảnh làm dây đàn. Khi chơi, ngậm một đầu của cây đàn trong miệng, tay trái giữ cung tay phải gảy dây, sẽ phát ra tiếng nhạc du dương...
“Nhưng con không hiểu... Tại sao cô ta... Tại sao lại bảo Minaku là hanitu ?”
“Minaku không có hanitu (linh hồn)... Cô ta không có ihdian (đau khổ), cũng không có kainaskalan (vui sướng)... Cô ta không phải là bunun (người)...”
“Dì, hanitu là gì ạ?”
“Chúng tôi có hai hanitu , một cái ở đây, một cái ở đây.” Bà cụ lần lượt vỗ vào vai trái và vai phải của mình. “Bên này là makwan hanitu , bên này là mashia hanitu . Makwan hanitu khiến người ta trở nên xấu xa, giận dữ, tham lam, đánh người; còn mashia hanitu làm người ta trở nên tốt đẹp, biết giúp đỡ người khác, yêu thương người khác. Nhưng Minaku... không có cả hai.”
“Tại sao? Cô ta đã làm gì?”
Bà cụ lắc đầu.
“Vì tama (bố cô ta đã lấy hanitu của cô ta đi rồi...”
“Lấy hanitu đi?... Baisu cũng vậy ạ? Bị Minaku lấy đi rồi?”
“ Taini-uni nói đó là matisnanulu (chiêm bao). Sau khi ngủ hanitu sẽ rời khỏi cơ thể đi chơi khắp nơi, biến thành những việc mà ta thấy trong mơ... Sau khi Baisu ngủ, hanitu đã biến mất.”
Hồ Duệ Diệc lần đầu tiên nghe thấy từ matisnanulu này, xét từ ngữ cảnh, chị đoán Baisu mắc chứng tương tự như mộng du, rồi không bao giờ trở lại. Từ biểu cảm của bà cụ, Hồ Duệ Diệc có thể cảm nhận rõ nỗi đau thương của bà.
Chị thẫn thờ đứng dưới chân cầu thang, đưa mắt nhìn theo bà cụ bước từng bước lên trên.
Giữa cầu thang mờ tối, bóng dáng vẫn còn khỏe mạnh chuyển sang cầu thang đối diện, biến mất khỏi tầm mắt của Hồ Duệ Diệc. Vẻ mặt chị thẫn thờ, như đang nhìn theo truyền thống đi xa dần, chỉ còn lại truyền thuyết.
Th*ank yo*u fo*r your reading.
Mặt trời chói lọi trên không, cả vách đá nóng rực vì nắng chiếu. Lúc Ngô Sĩ Thịnh tỉnh dậy, quần áo đã gần khô. Chỉ là hôm qua dầm mưa suốt cả chiều, thân nhiệt hơi bị hạ, đến giờ đầu vẫn còn ngâm ngẩm đau, cổ họng cũng rất khó chịu.
Gã thử leo lên vách đá gần như dựng đứng một lần nữa, nhưng không có chốt đá hoặc rìu leo núi trợ giúp, có mỗi dây thừng thì cũng vô dụng.
Chỉ cần tìm được một nơi có sóng là ổn rồi...
Ngô Sĩ Thịnh kiểm tra dung lượng pin của điện thoại, vẫn còn hơn năm mươi phần trăm, vả lại không bị rơi vỡ, mọi thứ vẫn hoạt động bình thường, coi như là may mắn trong bất hạnh. Gã cầm điện thoại chạy lung tung, tìm nơi có nguồn tín hiệu mạnh hơn.
Vô tình, gã đã đi về phía Bắc gần 500 mét, phía trước xuất hiện một dòng suối.
Là suối!
Ngô Sĩ Thịnh hết sức phấn khởi. Gã nghĩ rằng chỉ cần có suối, gần đây nhất định sẽ có nhà dân, hoặc ít nhất sẽ gặp được du khách đi ngược dòng. Vì vậy gã quyết định xuôi dòng đi xuống dưới.
Nhưng Ngô Sĩ Thịnh đã đánh giá sai tình hình, cũng quên mất hôm nay không phải ngày nghỉ, dọc đường chẳng gặp được du khách nào, trái lại còn nhiều lần giẫm cả xuống suối vì mắt cá chân đơ cứng, làm quần áo khó khăn lắm mới hong khô được lại ướt sũng cả.
Chẳng mấy chốc, sau khi đi chừng 2 cây số đường thủy, gã đến một ngã ba.
Gã thoáng do dự, lấy la bàn ra, cuối cùng quyết định đi về phía Đông. Vì ngọn Tây Ngọc Sơn chắc là nằm ở phía Tây con suối, nên nếu đi về phía Tây, thể phải leo một đoạn đường núi nữa, không chừng thực chất là một thác nước, chẳng thể nào leo lên được.
Nhưng Ngô Sĩ Thịnh đã đặt cược sai hướng hoàn toàn.
Càng đi, địa hình càng dốc dần, Ngô Sĩ Thịnh cũng cảm thấy có thể mình đã chọn sai đường, nhưng gã thừa nhận sai lầm của mình quá muộn, đến nỗi lúc muốn quay đầu thì đã vin cành cây nhảy qua mấy thác nước, chẳng thể nào mạo hiểm tuột xuống được nữa.
Cứ như vậy, Ngô Sĩ Thịnh chỉ có thể chọn cách tiếp tục đi lên, hy vọng phía bên kia núi là thôn làng.
Sắc trời tối dần, Ngô Sĩ Thịnh càng thêm căng thẳng, đầu chỉ nghĩ đến việc ngộ nhỡ lạc đường trong núi thì phải làm thế nào. Gã bị tiếng chim kêu và tiếng lá cây lạo xạo do thú vật di chuyển dọa mấy lần, lại càng hoảng loạn.
Nhìn bầu trời màu cam sẫm qua khe hở của tán lá, gã hiểu rõ rằng mình đã sai, đêm nay chắc chắn phải nghỉ lại trong núi, dù trên đường đã ăn lương khô dinh dưỡng, nhưng bụng vẫn đói không chịu nổi. Với lại nghe nói trong núi có gấu, vũ khí duy nhất gã có trong tay chỉ là một con dao Thụy Sĩ, gã lo đến mức sắp khóc, hoàn toàn không tin mình có thể sống qua đêm nay.
Gã thu nhặt những cành cây khô trong rừng, dựa lưng vào một vách đá rồi châm lửa. Lúc lau bật lửa gã mới nhận ra đã rất lâu rồi mình không hút thuốc, điều bất ngờ là, ngay cả bây giờ gã cũng không thèm hút thuốc chút nào.
Có lửa... Chắc những con vật đó không dám lại gần chứ?
Còn một chuyện nữa khiến Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy ngạc nhiên với chính mình, đó là chưa bao giờ gã tha thiết muốn sống như bây giờ.
Tuy rất đói bụng nhưng gã cho rằng, dù thế nào đi nữa, cũng vẫn phải để dành lương thực cho hai đến ba ngày, nên đành tu ừng ực nước suối lấy hồi sáng để dạ dày căng phồng lên, tạo cảm giác no giả.
Dần dần, Ngô Sĩ Thịnh bắt đầu quen với bầu không khí trong núi.
Tiếng côn trùng rả rích rất quy luật, gió núi thỉnh thoảng thổi mạnh, còn cả không khí lạnh đến thấu xương, đều là những thứ gã không thể cảm nhận được khi lái taxi trong thành phố.
Gã chăm chú nhìn đống lửa không ngừng bập bùng biến dạng, dao động theo gió, há to miệng hít vào mùi gỗ cháy, bỗng nhiên có cảm giác an tâm, như thể Quách Tương Oánh và con gái đều đang ở bên cạnh gã, cả nhà cùng ngắm lửa trại, tận hưởng cảm giác nhàn nhã không phải làm gì cả.
Trong lúc ngẩn ngơ, gã chợt cảm thấy có ánh mắt nào đó đang nhìn về phía mình qua đống lửa cháy rừng rực. Gã lập tức ngẩng đầu.
Một cô gái mặc kimono màu nâu.
Mặt của cô ta trắng bệch, đôi mắt đen tuyền, từ trong đôi mắt đen đó, Ngô Sĩ Thịnh không nhìn thấy bất kỳ cảm xúc nào khác ngoài sự hư vô.
“... Cô là?”
"Minako.”
Hả?
Minako?!
Ngô Sĩ Thịnh sợ đến mức lập tức bò lùi lại vài bước. Nhưng Minako không có vẻ định truy đuổi.
Cô ta giống như... một khối không khí...
“Cô đến để... giết tôi sao?”
Lần này Minako không trả lời câu hỏi của Ngô Sĩ Thịnh. Hai người giữ nguyên tư thế, vây quanh đống lửa giữ ấm.
Cô ta là Minako thật sao?
Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy cô gái mặc kimono phía đối diện chỉ là một cô bé vô hại, gã không hiểu tại sao Quách Tương Oánh lại sợ hãi như thế.
Hơn nữa, không rõ cơ thể cảm nhận được điều gì mà Ngô Sĩ Thịnh lại cảm thấy, thật tốt khi có cô ta ở bên. Gã lại bỏ thêm nhiều cành khô vào đống lửa, ngọn lửa gặp gió thổi càng bùng cháy mạnh hơn.
Dần dần, Ngô Sĩ Thịnh nhắm mắt lại. Gã duỗi tay chân, rũ bỏ mệt mỏi của cơ thể, chìm vào cõi mộng.
Mãi đến sáng hôm sau, Ngô Sĩ Thịnh mới sực tỉnh vì gió ban mai mát lạnh táp vào mặt.
Đống lửa đã tắt, Minako biến mất tăm. Gã ăn một miếng lương khô, rồi rảo bước trong nắng mai nhàn nhạt. Thế núi bắt đầu thay đổi, con đường đá dưới chân gần như biến thành một con đường núi dốc xuống dưới, rồi dần dần bằng phẳng trở lại. Ngô Sĩ Thịnh vượt qua một biển báo đề “sạt lở cấm đi qua”, phía trước là một vùng lòng chảo rất sâu, còn có không ít thân cây bị gió quật đổ nằm chắn ngang chính giữa. Một số đoạn đường sạt lở đến độ phải bám sát vào vách đá chầm chậm nhích từng bước một như lúc trèo lên ngọn Tây.
Sau khi vượt qua vách đá, Ngô Sĩ Thịnh đến một khe suối sạt lở, gần đó có bảng chỉ đường. Gã có cảm giác, nhất định có thể tìm thấy những người leo núi ở quanh đây, giúp gã rời khỏi ngọn núi này.
Gã ngồi nghỉ trên bậc thềm gỗ mục nát, sau đó gắng sức đi một mạch xuyên qua cây cầu sắt nguy hiểm màu đỏ. Mặt dưới của cầu đã bị khoét rỗng, dường như có thể sập bất cứ lúc nào. Nhưng Ngô Sĩ Thịnh rất may mắn. Sau khi vượt qua cây cầu nguy hiểm một cách suôn sẻ, gã đến một bãi hoang trơ sỏi đá, phía trước là thảo nguyên rộng lớn. Gã phát hiện ra một con lạch ở cạnh thêm cầu thang đá trên thảo nguyên, lập tức bổ sung thêm nước.
Lúc này mặt trời đã lên rất cao. Ngô Sĩ Thịnh rút điện thoại ra, thấy pin chỉ còn chưa đầy một phần ba. Đáng lẽ phải ra khỏi vùng núi rồi, nhưng vẫn không tìm thấy nơi có thể liên lạc, cũng chẳng gặp được khách leo núi, gã không khỏi có chút nản lòng.
Ngô Sĩ Thịnh đánh tiếp tục đi, men theo bậc thang đá xuống suối, đi về phía trụ cầu bậc đá ở thượng du. Trên bậc đá cũng có rất nhiều cành rơi cây đổ, không dễ đi lại. Sau khi qua suối, gã đi lên trên theo một lối mòn do giảm đạp mà thành, lối mòn trở nên rộng hơn, cùng với đó Ngô Sĩ Thịnh càng cảm thấy mình đang đi đúng đường.
Tuy vậy, bước vào một rừng tiễn trúc vừa thấp vừa rậm rạp lại là một con đường xuống dốc.
Bỗng nhiên, Ngô Sĩ Thịnh nhác thấy bóng một người đàn ông ở trong rừng thông, liền vội vã đuổi theo. Bóng người chui qua một khe hở do cưa cây mà ra, biến mất gần một lò nung bằng đất trông như đang đốt than củi.
Lạ thật... sao mới chớp mắt một cái đã không thấy rồi...
Nơi đây rừng cây rậm rạp chắn mất ánh sáng bên ngoài nên vô cùng âm u. Ngô Sĩ Thịnh gập hông chui ra khỏi rừng rậm, tiễn trúc và đỗ quyên mục chi chít khắp nơi, gã đành phải luồn qua rãnh mà chui.
Tiếng dòng nước chảy bắt đầu rõ ràng dần. Ngô Sĩ Thịnh rảo bước nhanh hơn, quả nhiên phát hiện trên mặt đất có mảnh bát vỡ, ba hòn đá và một cái bếp đơn giản do tôn xếp thành.
Nhất định là của người đó để lại!
Ngô Sĩ Thịnh suy đoán, người đàn ông đó cắm trại ngủ ngoài trời ở đây, vừa nãy nhất định là người đó tiểu tiện xong, lên đường đi đến mục tiêu tiếp theo. Gã vừa nghĩ vừa nhảy qua con lạch, lên dốc đuổi theo.
Lại có mảnh bát vỡ?
Tuy hơi nghi ngờ, nhưng Ngô Sĩ Thịnh đoán có thể người đàn ông đó bất cẩn làm vỡ. Sau khi sang phía bên kia ngọn núi, con dốc trở nên thoai thoải, ngoài ra lại phát hiện thêm một lò nung than củi nữa ở ngã ba.
Làm sao bây giờ... phải chọn bên nào?
Lần này Ngô Sĩ Thịnh không muốn chọn bên phải nữa. Gã đi lên dốc bên trái, gạt những bụi tiễn trúc mọc lộn xộn và những thân cây đổ, lối mòn bắt đầu lẫn lộn khó nhận rõ, cũng không thể theo dấu đường đi của người đàn ông nọ. Gã nhìn thấy một tảng đá lớn phẳng dẹt, bèn quyết định đi theo hướng đó, tạm thời dùng đá nhỏ đánh dấu trên thân cây dọc đường.
Đó là?
Phía trước xuất hiện một chiếc thang sắt phế thải. Khu vực này có rất nhiều thông hai lá và tiễn trúc, chỉ có đoạn gần thang sắt trông có vẻ đi tiếp được. Sau khi lên dốc, Ngô Sĩ Thịnh nhìn thấy một đường bờ bao bằng đá và vách đá cao chót vót, có thể thấy những rãnh đất trũng dài giống như chiến hào ở khắp nơi. Lúc này, Ngô Sĩ Thịnh lại nhìn thấy bóng người vụt qua, liền vội vàng hét lớn.
“Này! Chờ tôi với!”
Nhưng bóng người đó không ngoảnh đầu. Ngô Sĩ Thịnh lập tức vắt chân lên cổ chạy.
Gã nắm lấy cành đỗ quyên, gồng hết sức lực trèo lên con dốc cao đầy sỏi đá, một con dốc do những phiến đá lớn xếp thành hiện ra.
Khắp nơi đều là dấu vết của người, nhưng sao lại chẳng gặp được một ai!
Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy rất chán nản. Gã trèo qua bờ bao và đá vụn, nhảy lên một bậc đá, suýt nữa vấp phải cành đỗ quyên từ trong khe đá đâm ra. Lại đi thêm một đoạn dốc nữa, bỗng có một mùi thối rữa bay đến.
Thối quá!
Ngô Sĩ Thịnh bịt mũi và miệng, nhưng mùi thối thực sự quá nồng nặc, khiến gã liên tục nôn ra nước chua.
Vốn dĩ gã muốn đi quách cho xong, nhưng nghĩ thế nào cũng cảm thấy bất thường, đành lần theo mùi đến bên một rãnh nước bằng đá phiến dài khoảng 2 mét. Một người đàn ông mặc áo khoác xanh nước biển nằm sõng soài giữa hai phiến đá, nước xác vàng đậm đặc sệt đọng trong rãnh nước, chầm chậm chảy xuôi dòng.
Ngô Sĩ Thịnh không nhịn nổi nữa, nôn đầy ra đất. Dịch vị trắng nhạt bốc mùi chua lòm, hòa trộn với mùi chua của xác chết thối rữa, càng khiến gã khó mà chịu nổi.
Ngô Sĩ Thịnh muốn rời khỏi đây càng sớm càng tốt, nhưng gã đã nhìn thấy chiếc ba lô leo núi ở trên lưng xác chết. Gã tự an nhủ, nếu không thử kiểm tra xem có đồ ăn trong đó hay không thì tối đói bụng chắc chắn sẽ hối hận.
Thế là gã đeo găng tay bồng, cẩn thận kéo khóa ba lô, sau đó lấy từng thứ một bên trong ra.
Ngoài lương thực, còn có bản đồ, bếp ga, dụng cụ nấu nướng, đèn đeo đầu, đài, máy ảnh và túi ngủ. Tuy dùng đồ của người chết có hơi áy náy, nhưng dưới sự đe dọa của cái đói và sự sống còn, Ngô Sĩ Thịnh vẫn lấy. Gã vái ba vái về phía xác chết, sau đó chạy như bay rời khỏi hiện trường.
Tại sao lại chết ở một nơi như thế?
Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy rất khó hiểu. Rõ ràng thức ăn đầy đủ, nhìn cũng không có dấu vết gì giống như bị dã thú tấn công, thế mà lại chết như vậy. Huống hồ, một người đàn ông to lớn nằm ngã trong con mương rộng chỉ khoảng 25 xen ti mét, không chỉ địa điểm kỳ lạ, mà kể cả bất cẩn ngã vào, chắc cũng không đến mức bị ba lô đề cho không bò dậy được chứ?
Ngô Sĩ Thịnh ăn cá ngừ đóng hộp vừa đoạt được, đồng thời suy nghĩ về những việc này.
Có lẽ nào mình cũng...
Tận mắt chứng kiến cái chết, Ngô Sĩ Thịnh không khỏi nghĩ đến việc mình có thể sẽ gặp phải thảm cảnh tương tự. Gã lấy bản đồ ra, nói gì thì cũng phải tìm được một con đường ra khỏi núi. Hôm qua là do điện thoại mất sóng, không có bản đồ để tham chiếu nên mới lạc đường; giờ có bản đồ rồi, nhất định có thể ra khỏi đây.
Đây là một tấm bản đồ đường đi theo chiều dọc của quần thể núi Ngọc Sơn với tỷ lệ xích là 1:25000, phía dưới còn có biểu đồ chênh lệch độ cao của ngọn chính, ngọn Nam, ngọn Đông Ngọc Sơn và núi Nam Ngọc Sơn. Nhìn bản đồ, Ngô Sĩ Thịnh nhận định rằng, sau khi rơi xuống ngọn Tây, chắc chắn gã đã đi một mạch theo hướng ngọn Bắc thì mới không gặp được thôn xóm và khu dân cư nào cả.
Trên bản đồ, gã nhanh chóng tìm ra vị trí ngờ là thảo nguyên ban nãy, tức đại thảo nguyên Bát Thông Quan; sau đó, từ dòng suối đã băng qua, gã đoán chắc mình đã đến bờ Nam của chi lưu sống Lão Nùng, chỉ cần đi thêm một đoạn về phía Đông nữa là có thể đến được Sơn ốc Ba Nại Y Khắc. Bình thường đó là nơi cắm trại của khách leo núi, nhất định có thể tìm được người đưa gã ra khỏi núi.
Ngô Sĩ Thịnh luồn dưới các bậc đá tránh đất đá sạt lở, sau đó cẩn thận đi xuống dốc. Gã trèo qua một thân cây thông hai lá to lớn, đi hình zigzag men theo lối đi hiện lên rõ rệt, và đi xuống qua vô số bậc đá. Sau khi băng qua lạch nước, gã đến một vách đá có nước chảy. Từ trên cao nhất nhìn xuống, có thể bao quát cả lòng sông Lão Nùng.
Sau khi vượt qua một vũng bùn và một con suối ngắn, dựa theo phương hướng trên bản đồ, Ngô Sĩ Thịnh đi về phía sườn dốc ở hướng thượng nguồn, tiến vào rừng thông, vì mặt đất cực kỳ trơn trượt nên lại tốn không ít thể lực.
Trời lại tối nữa rồi.
Ngô Sĩ Thịnh nhìn đồng hồ trên điện thoại, mới nhận ra đã sắp đến thời điểm mặt trời xuống núi. Gã vội vàng tăng tốc, cuối cùng cũng đến được mé Đông lên núi của Bát Thông Quan, chịu trăm đắng nghìn cay vượt qua sống núi, tìm thấy sơn ốc Ba Nại Y Khắc.
Hả?
Sau khi tận mắt nhìn thấy sơn ốc Ba Nại Y Khắc, Ngô Sĩ Thịnh không khỏi thất vọng.
Đây mà cũng coi là sơn ốc ư?
Sơn ốc Ba Nại Y Khắc trước mặt chỉ là một căn nhà tôn tồi tàn cũ kỹ, tường ngoài được quét sơn màu vàng lạc đà, còn có hình graffiti. Không có cửa, lối ra vào mở toang, nhìn là biết không có ai ở bên trong.
Đi qua sạn đạo ở trên con lạch, Ngô Sĩ Thịnh thò đầu vào trong sơn ốc.
Quả nhiên không có ai.
Trong nhà vô cùng bẩn thỉu và bừa bộn, hơn nữa mùi thối bốc lên nồng nặc, không khéo còn có du khách đại tiểu tiện trực tiếp lên sàn. Ván gỗ, can xăng, cục gỗ và vải bạt xanh trắng vương vãi khắp nơi, trên tường chỗ nào cũng có dấu vết vá víu, ánh nắng xuyên qua mái nhà thủng lỗ chỗ...
Rốt cuộc đây là sơn ốc kiểu gì vậy?
Ngô Sĩ Thịnh phải chịu trăm đắng nghìn cay mới tìm được sơn ốc, nhưng lại không thể ở nổi. Sơn ốc trong tưởng tượng của gã là một căn nhà gỗ nhỏ trong rừng, Có điện và nước máy, có thể nằm trên chiếc giường màu rắng để nghỉ ngơi.
Gay go hơn là, ở đây vẫn không có sóng, mà pin chỉ còn mười ba phần trăm, đã chuyển sang cảnh báo màu đỏ.
“Mẹ kiếp! Đệch!”
Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy mình bị đùa bỡn, không nhịn nổi chửi đổng.
Tối nay phải qua đêm ở một nơi như thế này sao...? Niềm an ủi duy nhất của gã là đêm nay cuối cùng cũng có túi ngủ để giữ ấm. Tuy gã không phải dạng người sợ lạnh, nhưng chỉ dựa vào một chiếc áo khoác mỏng tá túc trong núi, gió lạnh thổi cả đêm thì vẫn khá chật vật đối với một cơ thể đã bước sang tuổi trung niên.
Hình như hôm nay còn lạnh hơn hôm qua...
Bản đồ đường cổ Bát Thông Quan (đoạn từ Đông Phố đến Đại Thủy Quật)
Bầu trời đã biến thành màu tím gần như mực, một bức màn mây ti mỏng giăng kín cả đường chân trời, tầng mây dường như dày dần rồi sà xuống, tạo thành hình dạng giống như thấu kính, xung quanh mặt trăng bắt đầu có quầng rồi tối sẫm dần, trông có vẻ như mưa núi sắp ập xuống. Ngô Sĩ Thịnh nghĩ bụng chắc không thể mạo hiểm đi tiếp trong núi nữa rồi.
Sơn ốc dù rách nát đến đâu thì chung quy vẫn có thể che gió. Ngô Sĩ Thịnh đá cục gỗ và can xăng ra, để chừa một khoảng trống, sau đó trải túi ngủ, chắp tay vái túi ngủ ba vái, rồi vội vàng chui vào trong. Gã chỉ muốn nhanh chóng đánh một giấc đến sáng trong chiếc túi ngủ ấm áp. Không biết đã bao nhiêu lần gã tự nhủ, ngày mai nhất định phải xuống núi.
8 giờ tối là lúc mưa to nhất, nước mưa ào ạt trút từ lỗ thủng trên mái xuống, như vòi nước xả thẳng vào nhà. Ngô Sĩ Thịnh bị tiếng gió thổi quật tấm chắn đánh thức, tỉnh dậy gã mới phát hiện nửa dưới túi ngủ đã ngâm trong nước đọng, chân buốt đến mức sắp mất cảm giác, chỉ có thể lờ mờ cảm thấy đau nhói râm ran.
Ngô Sĩ Thịnh vội vàng chui ra khỏi túi ngủ, cởi giày tất, sau đó mới giật mình nhận ra ngón chân đã hơi bị bỏng lạnh, sưng lên như xúc xích, còn lốm đốm những mảng màu xanh tím đáng sợ.
Chạm nhẹ một cái, cảm giác đau buốt truyền đến làm gã sợ đến mức vội vàng vắt kiệt đôi tất, sau đó đi vào, hy vọng hơi ấm của tất sẽ giúp ngón chân hồi phục. Nhưng khi định xỏ giày lại thì bị vướng ngón chân sưng tấy, gã đành nghiến răng, gắng gượng nhét chân vào trong giày.
Hự! Hự!
Ngô Sĩ Thịnh đau đến mức không kìm nổi tiếng kêu, vừa nằm rên rỉ, vừa đợi cơ thể quen dần với cơn đau.
Cuối cùng cơn đau cũng dần qua đi, đúng vào lúc gã buông lơi cảnh giác, chuẩn bị thở phào một hơi thì...
Gã nhìn thấy Minako trong bộ kimono màu nâu đứng ở cửa sơn ốc, nhìn gã chằm chằm.
Lần này, Ngô Sĩ Thịnh rất chắc chắn rằng “thứ” đang đứng trước mặt mình không phải là người, vì nước mưa rơi lên người cô ta không hề bị bắn ra.
Vả lại, lần này Minako không cho người ta cảm giác vô hại giống như lần trước. Gã dường như có thể nhìn thấy một quầng sáng đen tà ác rừng rực sau lưng Minako này. Cảm giác đè nén kinh khủng khiến Ngô Sĩ Thịnh không dám thở mạnh.
Đó là?!
Gã thấy đầu Minako bắt đầu chuyển động.
Không, không chỉ vậy! Cơ thể của cô ta cũng chuyển động đồng bộ!
Vừa rồi là... Hóa ra vừa rồi là phía sau lưng của cô ta! Bây giờ mới là chính diện!
Bây giờ đầu và thân của Minako đều xoay lại một trăm tám mươi độ, ngược hoàn toàn so với ban nãy. Cô ta nhoài về phía trước, hai chân hai tay vặn vẹo như côn trùng, nhanh chóng bò qua chỗ Ngô Sĩ Thịnh.
Cô ta có khuôn mặt trắng bệch dị thường, cằm hướng lên trên, khoang miệng sâu hoắm há ra, đôi mắt không thấy đồng tử nhìn trừng trừng từ dưới lên trên, mái tóc đen nhánh quét trên mặt đất phát ra tiếng sột soạt chói tai.
Ngô Sĩ Thịnh đành phải mặc kệ cái chân bị bỏng lạnh, bật dậy nhảy lùi mấy bước.
Nhưng sơn ốc chỉ có một lối ra vào. Ngô Sĩ Thịnh chỉ còn cách đối đầu với Minako có thân hình giống như bọ xít, qua cột nước đang trút thẳng từ lỗ thủng trên mái nhà xuống.
Bỗng nhiên, gã nhớ ra nguyên nhân khiến Minako không thể lại gần mình.
Lá bùa đó!
Gã thò tay vào túi áo khoác, sờ tờ giấy thô ráp, tạm thở phào một hơi.
May mà gã mang theo bên mình, nếu để trong ba lô, e rằng giờ đã bị con quái vật đó giết rồi!
Ngô Sĩ Thịnh ép sát vào vách, miếng gỗ chắp vá trên vách tường sơn ốc cào rách áo khoác của gã. Khi gã di chuyển, Minako cũng vặn vẹo thân thể theo, đờ đẫn dán mắt vào gã.
Giờ đây cửa đã ở ngay trước mắt, không có bất cứ chướng ngại vật nào cản trở gã.
Sau đó, chỉ cần nắm bắt thời cơ, chạy thẳng một mạch. Ngô Sĩ Thịnh bật người giống như lò xo, vươn tay trái vơ lấy ba lô gần cửa, chạy vọt ra khỏi sơn ốc. Trong khoảnh khắc gắng sức, ngón chân lập tức truyền lên một cơn đau như xé, nhưng gã mặc kệ, liều mạng chạy qua sạn đạo trên con lạch.
Bên ngoài sấm sét đì đùng, mưa lớn xối lên người gã, làm gã ướt đẫm toàn thân chỉ trong vài giây. Gã chui vào trong rừng rậm, lê bước chạy tán loạn khắp nơi, sau đó vấp chân một cái, ngã lên một bình đài có bờ bao, lòng bàn tay bị cành cây nhỏ đâm vào.
“A! Đệch!”
Ngô Sĩ Thịnh chửi thề trong đau đớn. Thấy lòng bàn tay hơi rỉ máu, gã không cả dám nhổ cành cây ra.
"A! A... A! A!”
Gã vừa ra sức thở dốc, vừa bước qua bờ bao tiếp tục đi về phía trước.
Mẹ kiếp! Tiếp theo phải làm thế nào đây!
Ngô Sĩ Thịnh nhớ lại lời đạo cô đó nói, dưới sự bảo vệ của bùa chú, tạm thời Minako không giết được gã, nhưng pháp lực hộ thân này chỉ duy trì được một tuần, nay đã lạc đường trong núi ba ngày, trừ thêm một ngày chuẩn bị lên núi nữa, cũng tức là, nếu không có cách nào ra khỏi ngọn núi này sau ba ngày, gã sẽ bị Minako giết chết, dần dần thối rữa trong núi hoang đèo vắng giống người đàn ông kia.
Trong tay không có đèn pin, rừng cây và cơn mưa cũng che khuất mọi nguồn sáng. Gió dữ cuốn lá rụng và cành khô trên mặt đất bay qua bay lại, những cành cây trường vĩ trông như cánh tay quỷ múa tán loạn trên không trung. Ngô Sĩ Thịnh co ro rúc vào giữa một thân cây và tấm bia đá tránh gió mưa, toàn thân không ngừng run rẩy.
Đột nhiên, một chai rượu bị gió thổi tới, va vào bia đá, phát ra tiếng “choang” giòn tan, khiến Ngô Sĩ Thịnh sợ giật nẩy mình. Gã lấy lại bình tĩnh rất nhanh, nhưng ngay sau đó lại phát hiện trên hòn “đá” mà gã dựa lưng có lỗ hổng. Cầm lên xem, hóa ra là đầu lâu một con nai!
“Cái đệch!”
Cánh tay Ngô Sĩ Thịnh rụt phắt lại trong chớp mắt, chiếc đầu lâu bay ra.
Đây là chỗ quái quỷ gì vậy?
Ngực gã phập phồng dữ dội, xương sườn đau như muốn nứt ra. Sau cơn kinh hãi vừa rồi, gã có vẻ bị đau sốc hông.
Mẹ kiếp... Mẹ kiếp!
Ngô Sĩ Thịnh đút tay vào túi áo khoác để giữ ấm, sau đó mới phát hiện lá bùa đã bị ướt. Hơn nữa...
Rách rồi?!
Một luồng điện từ háng xộc lên, nước tiểu phun ra không kiềm chế nổi.
Rách rồi... Rách rồi...
Gã không dám lấy lá bùa ra để tận mắt xác nhận sự thực là nó đã bị rách, nhưng đồng thời gã cũng thừa biết, lá bùa hộ thân đã mất tác dụng rồi.
Gần như cùng lúc đó, Ngô Sĩ Thịnh liếc thấy một khối sương mù lớn màu trắng đục tuôn ra từ cánh rừng bên phải.
Sương mù càng lúc càng gần, dường như có hình thể và đường nét. Đến khi chỉ còn cách chưa đầy mười mét, những hình thể đó không còn là khối khí liên kết chặt chẽ với nhau nữa, mà là từng cơ thể độc lập...
Đó là... tay?
Cơ thể được hình thành từ sương mù trắng, trên người dường như còn mặc đồng phục, trông giống một đám lính bị mất đầu. Chỉ thấy họ giơ tay, như thể đang dán con mắt không tồn tại vào ống ngắm của khẩu súng trong tay, điên cuồng bắn quét một khối sương mù khác ở đằng trước.
Khối sương mù kia di chuyển còn nhanh hơn, kín đáo hơn. Ngô Sĩ Thịnh chớp mắt cật lực vài lần để xác nhận là mình không nhìn lầm. Sương mù bắt đầu tản ra khắp nơi thành vài luồng khí, lẩn trốn rất nhanh trong rừng cây, rồi xuyên phá đội hình địch bằng tốc độ mà mắt người không thể theo kịp. Những người lính bắt đầu ngã xuống từng người một, Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy mình bắt đầu nghe thấy tiếng than khóc...
Đó là?
Vì có xem phim nên Ngô Sĩ Thịnh cũng biết về sự kiện Vụ Xã, dường như một trận chiến đẫm máu tương tự đang được trình diễn trước mắt gã. Không lâu sau, những người lính không đầu bị tiêu di?