← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5

Sảnh của Người đưa tin mở cửa lúc 7 giờ 30 phút. Vì vậy, Susan phải sử dụng lối vào của khu vực chất hàng ở phía nam của tòa nhà. Cô đang vội vàng sau giấc ngủ dài bốn tiếng. Cô đã dành một giờ để lên mạng vào sáng hôm đó, cố gắng tìm kiếm thông tin về cô gái bị mất tích gần đây nhất, bỏ qua việc tắm rửa, vì vậy tóc cô vẫn còn mùi thuốc lá và bia. Cô buộc tóc lại, mặc quần đen và áo sơ mi dài tay màu đen. Sau đó cô xỏ một đôi giày thể thao. Không có chút thời gian nào hoàn toàn vô ích.

Cô đưa thẻ báo chí về phía nhân viên bảo vệ trực đêm, một anh chàng người Mỹ gốc Phi múp míp, cậu ta vừa đọc xong cuốn The Two Towers và mới bắt đầu đọc The Return of the King.

“Cuốn sách hay chứ?” Cô hỏi.

Cậu ta nhún vai và bấm nút cho cô xuống tầng hầm mà gần như không liếc nhìn cô dù chỉ một lần. Có ba thang máy trong tòa soạn Người đưa tin. Một trong số chúng từng làm việc đúng một lần. Cô nhấn nút lên tầng năm.

Tòa soạn Người đưa tin đặt tại trung tâm thành phố Portland. Là một khu trung tâm xinh đẹp, đầy những tòa nhà lớn có từ thời Portland còn là cảng vận chuyển lớn nhất vùng Tây Bắc. Các đường phố trải dài với những hàng cây, thân thiện với những người đi xe đạp, có rất nhiều công viên và khu nghệ thuật công cộng ở từng khu phố. Những nhân viên văn phòng nghỉ giải lao ngay bên cạnh những người vô gia cư đang ngồi chơi cờ ở Quảng trường Tiền phong, những nhạc sĩ đường phố thu hút những người mua sắm, và Portland vẫn là Portland, dường như vẫn luôn có ai đó phản đối điều gì đó ở đây. Giữa tất cả sự thanh lịch và nhộn nhịp này là tòa soạn Người đưa tin, một tòa nhà xây bằng những viên gạch to, cao tám tầng, mà những công dân tốt của Portland cho rằng đó là một tòa nhà không ưa nhìn khi nó được xây dựng vào năm 1920 và kể từ đó, tòa nhà này được đánh giá như vậy. Tất cả vẻ đẹp nội thất của tòa nhà đã bị rút ruột trong cuộc cải tạo phi lý vào những năm 1970, đó chắc chắn là thập kỷ tồi tệ nhất để cải tạo bất cứ thứ gì. Thảm công nghiệp màu xám, tường trắng, trần thấp, đèn huỳnh quang. Chỉ còn lại những câu chuyện về Người đưa tin được đóng khung xếp dọc các sảnh và những bàn làm việc bừa bộn bất thường của nhân viên, cũng có khả năng nơi đây từng là đại lý bán bảo hiểm. Khi cô nghĩ đến việc làm việc trong tòa soạn, cô đã tưởng tượng về những đám đông nhộn nhịp, về màu sắc và những người đồng nghiệp nhanh miệng. Người đưa tin không có âm thanh và ra vẻ hình thức. Nếu bạn hắt hơi, mọi người đều quay lại nhìn.

Tòa soạn này độc lập, nói cách khác, nó là một trong số ít các tờ nhật báo lớn trong nước không phải là một phần của doanh nghiệp liên doanh nào. Một gia đình đại tư bản buôn gỗ đã sở hữu nó từ những năm 1960, gia đình này đã mua giấy từ một gia đình khác cũng là vua trong giới buôn gỗ. Các nhà tư bản buôn gỗ này đã đưa vào một nhà xuất bản mới, một cựu giám đốc quan hệ công chúng từ New York tên là Howard Jenkins, để điều hành nơi này vài năm trước, và kể từ đó, tờ báo này đã giành được ba giải thưởng Pulitzers. Susan nghĩ đó là một điều tốt, bởi vì, việc in báo là giữ cho tương lai, sẽ đến lúc, trở thành một nhà buôn gỗ cũng không còn kiếm được nhiều tiền nữa.

Tầng thứ năm của tòa nhà yên tĩnh đến nỗi Susan có thể nghe thấy tiếng bình nước lạnh chạy ù ù. Cô nhìn qua căn phòng chính, nơi những dãy các bài viết treo thấp chứa các tin tức và nhân viên tiêu biểu của Người đưa tin. Một vài biên tập viên ngồi gù lưng trên những chiếc bàn, nhấp nháy đôi mắt buồn bã trước màn hình máy tính. Susan phát hiện ra Nedda Carson, trợ lý biên tập tin tức, đi dọc hành lang với chiếc cốc du lịch cỡ lớn mà cô ấy hay cầm trên tay.

“Họ ở trong đó”, Nedda nói, hất đầu về phía một phòng họp nhỏ.

“Cảm ơn”, Susan nói. Cô có thể nhìn thấy Ian Harper qua tấm kính bên cạnh cửa. Anh ta là một trong những người được thuê đầu tiên của Jenkins, không tính đến New York Times thì anh là một trong những ngôi sao trong nghề biên tập. Cô bước tới và gõ cửa kính. Anh ta ngước lên và vẫy cô vào. Căn phòng nhỏ được sơn màu trắng, với một chiếc bàn hội nghị, bốn cái ghế và một tấm áp phích khuyến khích nhân viên của Người đưa tin tái chế. Ian đang ngồi trên thành ghế. Anh ta luôn ngồi như thế. Susan nghĩ rằng đó là vì việc ngồi cao hơn những người khác khiến anh ta cảm thấy mình có quyền lực. Nhưng có thể nó chỉ giúp thoải mái hơn. Biên tập viên tin tức, Clay Lo, ngồi đối diện với Ian, đầu nhiều ngấn thịt của anh ta kê hẳn trên một bàn tay, cặp kính xộc xệch. Trong thoáng chốc, Susan nghĩ rằng anh ta đang ngủ.

“Chúa ơi”, Susan nói. “Đừng nói với tôi là các anh đã ở đây cả đêm chứ.”

“Chúng tôi đã có một cuộc họp biên tập lúc 5 giờ.” Anh chỉ vào ghế. “Cô ngồi đi.” Ian mặc quần jean đen, giày Converse đen và áo khoác màu đen khoác bên ngoài cái áo phông phai màu in hình John Lennon trước Tượng Nữ thần Tự do. Hầu hết những chiếc áo phông của Ian như muốn ám chỉ rằng anh ta đến từ New York.

Clay ngước lên gật đầu với cô, đôi mắt lờ đờ. Một tách cà phê lấy từ dưới tầng được đặt ngay trước mặt anh ta. Nó giống vết cặn bẩn trên đáy cái bình đun nước. Susan có thể thấy vết cà phê quanh miệng cái ly Styrofoam.

Cô ngồi xuống, rút sổ tay phóng viên ra và lấy bút ra khỏi ví, đặt chúng lên bàn, rồi nói, “Có chuyện gì mới ư?”

Ian thở dài và chạm tay lên hai bên đầu mình. Đó là một cử chỉ thể hiện sự cẩn trọng, nhưng Susan biết Ian làm điều đó để kiểm tra xem tóc anh có còn gọn gàng được búi lại thành kiểu đuôi ngựa ngắn hay không.

“Kristy Mathers”, Ian vuốt ve hai bên thái dương. “Học sinh trung học. Sống với bố cô bé. Người cha là tài xế taxi. Ông ta không biết con gái mình mất tích cho đến khi về đến nhà tối qua. Cô bé được nhìn thấy lần cuối khi đi học về.”

Susan biết tất cả những điều này từ tin tức buổi sáng. “Trường Trung học Jefferson”, cô nói.

“Vâng”, Ian nói. Anh ta cầm một chiếc cốc Người đưa tin lên, giữ nó trong một phút, rồi đặt trở lại bàn mà không uống ngụm nào. “Ba nữ sinh. Ba trường cấp ba. Họ đã cử một đội cảnh sát tại mỗi trường để canh gác.”

“Có chắc là cô bé không đi gặp bạn trai hoặc đi đến những cửa hàng giảm giá ở Hot Topic hay không?” Susan hỏi.

Ian lắc đầu. “Đáng lẽ cô bé ấy đi trông trẻ cho một người hàng xóm. Nhưng cô ấy không đến, cũng không có cuộc gọi nào. Bố mẹ cô bé rất nghiêm túc. Cô có biết gì về Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng không?”

Cánh tay Susan nổi da gà khi nghe nhắc đến kẻ giết người hàng loạt khét tiếng. Cô nhìn từ Ian đến Clay rồi quay lại nhìn Ian. “Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng phải làm gì với vụ này vậy?” Cô hỏi.

“Cô biết gì về đội đặc nhiệm?” Ian hỏi ngược lại.

“Gretchen Lowell đã giết nhiều người”, Susan nói. “Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng đã cố gắng trong suốt mười năm để bắt cô ta. Sau đó, cô ta đã bắt cóc thanh tra chính trong đội đặc nhiệm. Đã hơn hai năm. Mọi người đều nghĩ vị thanh tra kia đã chết. Thời điểm đó, tôi đang trở về nhà trong dịp lễ Phục sinh từ trường tại chức khi vụ việc xảy ra. Cô ta tự thú. Như vậy đấy. Anh ta thì suýt chết. Còn cô ta vào tù. Tôi quay lại trường tại chức.” Cô quay sang Clay. “Mặc dù vậy, họ vẫn cố gán những vụ giết người cho cô ta, đúng không? Tôi nghĩ rằng họ đã khiến cô ta khai ra thứ gì đó như thể có hai mươi nạn nhân nữa trong năm đầu tiên sau khi cô ta bị bắt. Mỗi tháng hoặc hai tháng, cô ta lại khai ra một người mới. Cô ta là một trong những chuyên gia về tâm thần học có tiếng.” Cô cười khúc khích. “Có tiếng, nhưng trong sự đáng sợ, tàn bạo, xảo quyệt, và không tốt.”

Clay khoanh tay trên bàn, nhìn Susan đầy ẩn ý. “Chúng tôi đã gây khó khăn cho phía cảnh sát một chút.”

Susan gật đầu. “Tôi nhớ chứ. Họ đã nhận được vô số bài báo tiêu cực. Có rất nhiều thất vọng và sợ hãi. Một số bài xã luận khắc nghiệt. Nhưng cuối cùng, họ vẫn là những anh hùng. Có cuốn sách như vậy, đúng không nhỉ? Và cũng giống như hàng ngàn câu chuyện thú vị về Archie Sheridan, một vị cảnh sát anh hùng.”

“Anh ta đã trở lại.” Ian nói.

Susan nghiêng người về phía trước. “Không thể nào. Tôi nghĩ anh ta đang dưỡng thương.”

“Đúng là anh ta đã quay lại. Họ đã nói chuyện để anh ta trở lại dẫn dắt đội đặc nhiệm mới. Thị trưởng nghĩ rằng anh ta có thể bắt được gã này.”

“Giống như anh ta bắt được Gretchen Lowell hả?”

“Nhưng không có thêm phần ‘suýt mất mạng’.”

“Hoặc những bài bình luận ác ý kia?”

“Đó chính là chỗ để cô tham gia”, Ian nói. “Lần trước chúng ta đã không có quyền tham gia. Họ nghĩ rằng nếu họ cho chúng ta tham gia quá trình điều tra, chúng ta sẽ ít có khuynh hướng chỉ trích và châm biếm họ. Vì vậy, họ đã cho phép chúng ta viết về hồ sơ của Sheridan.”

“Tại sao lại là tôi?” Susan ngờ vực hỏi.

Ian nhún vai. “Họ yêu cầu cụ thể phải là cô. Cô không ở đó trong vụ án trước. Và cô là một nhà văn. Bằng thạc sĩ nghệ thuật làm họ bớt lo lắng hơn là bằng cấp của trường luật.” Ian vuốt hai bên đầu lần nữa, lần này anh ta tìm thấy một lọn tóc nhỏ đi lạc và đặt nó lại vị trí cũ. “Họ không muốn một phóng viên. Họ không muốn đào bới thông tin. Họ muốn sự quan tâm của người dân. Ngoài ra, cô đã từng học ở trường Trung học Cleveland.”

“Mười năm trước”, Susan nói.

“Đó là nơi mà cô bé đầu tiên mất tích”, Ian nói. “Màu sắc của nó. Thêm vào đó, cô còn là một nhà văn có trí tưởng tượng tuyệt vời. Cô làm rất tốt ở những chuỗi bài viết chuyên đề. Sở trường của cô phù hợp với vụ này. Jenkins tin chắc đây là cơ hội để chúng ta có Pulitzer thứ hai.”

“Tôi chỉ viết những bài tiểu luận nhỏ, kỳ quặc về những nạn nhân bị bỏng hoặc những vụ giải cứu thú cưng.”

“Cô vẫn luôn muốn làm một vụ nào đó nghiêm túc còn gì”, Ian nói.

Cô có nên nói với họ không? Susan gõ bút vào quyển sổ trong một phút rồi cẩn thận đặt bút xuống bàn. “Thực ra tôi cũng đang điều tra về vụ Thượng nghị sĩ Castle.”

Mọi thứ trở nên tĩnh lặng hoàn toàn. Rồi Clay từ từ ngồi dậy. Anh ta liếc nhìn Ian đang ngồi trên lưng ghế, tay chống lên đầu gối, lưng thẳng. “Đó chỉ là những tin đồn”, Ian nói. “Đó là tất cả. Molly Palmer gặp rất nhiều vấn đề về tâm lý. Không có gì ở đó. Đó chỉ là một chiến dịch bôi nhọ. Tin tôi đi. Nó không xứng đáng với thời gian của cô. Và nó cũng không phải nhiệm vụ của cô.”

“Cô bé đó mới học trung học sao?”, Susan nói.

Ian cầm cốc lên nhưng không nhấp môi. “Cô từng nói chuyện với cô bé chưa?”

Susan buông người xuống chiếc ghế. “Tôi không thể tìm thấy cô bé ấy.”

Ian khịt khịt mũi và đặt chiếc cốc trở lại bàn. “Và đó là vì cô bé không muốn được tìm thấy. Cô bé ấy cũng từng ra vào trại cải tạo, rồi trại cai nghiện. Cô nghĩ rằng tôi đã không nhìn vào vụ này khi đến thị trấn đúng không? Cô bé gây náo loạn. Cô bé đang học cấp ba, đã nói dối với một vài người bạn và những lời nói dối ngày càng tăng lên. Hết.” Anh ta cau mày. “Vậy thì cô có còn muốn thực hiện giấc mơ viết về Đội đặc nhiệm truy tìm kẻ giết người hàng loạt không, hay là tôi nên đưa vụ này cho Derek?”

Susan nhăn mặt. Derek Rogers vào làm việc cùng lúc với cô, và anh ta được đào tạo để che giấu những tội ác. Cô khoanh tay và xem xét đây có thể là cơ hội khá hấp dẫn để không phải viết câu chuyện khác về một chú chó cảnh sát. Nhưng cô vẫn còn do dự.

Vụ này rất quan trọng. Đó là sự sống và cái chết. Và cô sẽ không bao giờ thừa nhận nó với bất cứ ai trong căn phòng đó, cô rất nghiêm túc với vụ này. Thứ cô muốn là một câu chuyện. Cô chỉ không muốn mình trở thành kẻ phá rối mà thôi.

“Chúng tôi đang cân nhắc bốn phần việc”, Ian tiếp tục. “Chúng ta sẽ viết từng câu chuyện từ điểm khởi đầu. Cô đi theo Archie Sheridan, viết về những gì cô nhìn thấy. Đó là nhiệm vụ duy nhất của cô. Nếu cô muốn.”

Đơn giản vậy. “Bởi vì tôi là con gái, đúng không?”

“Là một bông hoa mỏng manh”, Ian nói.

Ian đã giành giải thưởng Pulitzer khi làm việc cho tờ Times. Anh ta đã để Susan cầm huy chương một lần. Bây giờ, cô gần như có thể cảm nhận được sức nặng của chiếc huy chương trên tay mình. “Được thôi”, cô nói, nhịp tim của cô nhanh dần. “Tôi muốn vụ này.”

Ian mỉm cười. Anh ta trông rất đẹp trai khi cười, và anh ta biết điều đó. “Tốt.”

“Vậy thì?” Susan nói, cô đóng cuốn sổ lại, chuẩn bị đứng dậy. “Tôi nên tìm anh ta ở đâu?”

“Tôi sẽ đưa cô đến đó lúc 3 giờ”, Ian nói. “Có một cuộc họp báo lúc đó.”

Susan sững người. Giờ đây, khi đã cam kết, cô cảm thấy mình gần như đang chết dần để bắt đầu. “Nhưng tôi cần thấy anh ta lúc đang làm việc.”

“Anh ta muốn có một chút thời gian để sắp xếp công việc.” Biểu hiện của Ian cho thấy anh không muốn dành nhiều thời gian để thảo luận thêm.

Nửa ngày. Đó là khoảng thời gian của trường hợp một người mất tích. “Vậy tôi phải làm gì cho đến lúc đó?” Susan hỏi.

“Hoàn thành tất cả các công việc khác của cô”, Ian nói. “Và tìm hiểu mọi thứ cô có thể.” Anh ta cầm chiếc điện thoại nhuộm màu giấy báo ở trên bàn và bấm số. “Derek?” Anh nói. “Cậu có thể vào đây không?”

Chỉ mất chưa tới một giây để Derek Rogers xuất hiện ở cửa phòng họp. Derek bằng tuổi Susan, mà ở độ tuổi đó, cô có nhiều khoảnh khắc chiêm nghiệm hơn, cô thừa nhận mình đã thể hiện bản năng cạnh tranh của bản thân. Derek đã học đại học ở trường Nam Dakota với học bổng bóng đá và lựa chọn ngành báo chí thể thao, sau một chấn thương buộc anh ta rời đội bóng. Bây giờ anh ta làm việc ở hai mảng khác là mảng tin tội phạm và mảng tin về thành phố tại tòa soạn Người đưa tin. Trông Derek vẫn như một chú hề, hàm vuông và sạch sẽ, với cách đi hơi cúi người, như một gã cao bồi. Susan đoán rằng anh ta sấy tóc kiểu. Nhưng hôm nay Dereck mặc áo vest, và đôi mắt trông có vẻ đăm chiêu. Susan đoán rằng có lẽ anh ta có một cuộc sống thú vị hơn là cô nghĩ. Derek mỉm cười, cố gắng để bắt gặp ánh mắt cô. Derek vẫn luôn làm thế. Susan vẫn lảng tránh.

Derek mang theo một chiếc máy chiếu, laptop và hộp bánh rán. Anh ta thả nhẹ những chiếc bánh trên bàn và mở hộp bánh. Một mùi thơm ngọt ngào tràn ngập căn phòng. “Bánh Krispy Kreme.” Derek nói. “Tôi đã lái xe đến tận Beaverton.”

Một cô bé bị mất tích và Derek thì đi mua bánh rán. Chất thật. Susan liếc nhìn Clay. Nhưng anh ta không bắt đầu một bài giảng nào về bản chất của tình huống. Anh ta lấy hai cái bánh rán và cắn ngập miệng. “Bánh ăn ngon hơn khi chúng còn mới”, anh ta tuyên bố.

Ian lấy một chiếc bánh nhân táo. “Cô không muốn ăn sao?” Ian hỏi Susan.

Susan muốn chứ. Nhưng cô không muốn làm cho Derek trở thành người được mang ơn. “Tôi ổn”, cô nói.

Derek loay hoay với các thiết bị. “Tôi sẽ cài đặt chúng”, anh ta nói. Derek mở laptop và bật máy chiếu, một hình vuông màu xuất hiện trên bức tường trắng. Susan nhìn theo trang tiêu đề PowerPoint nhưng không tập trung. Trên một trang nền tối màu, một phông chữ Halloween ghi: Kẻ giết các nữ sinh.

“Kẻ giết các nữ sinh?” Clay hoài nghi. Những vệt trắng của bánh rán bám vào khóe miệng anh ta. Giọng anh ta ngọt vì đường.

Derek ngượng ngùng liếc xuống. “Tôi đã suy nghĩ rất nhiều để có một cái tên.”

“Rõ ràng quá”, Clay nói. “Chúng ta cần một cái gì đó gắt gỏng hơn.”

“Vậy thì Kẻ bóp cổ vùng Willamette?” Derek nói.

Ian nhún vai. “Khá hơn một chút rồi đó.”

“Nghe tệ quá, hắn ta không ăn thịt họ”, anh ta nói với giọng khô khan. “Vậy thì chúng ta có thể đưa ra một cái gì đó thực sự thông minh.”

“Vậy cô bé thứ ba đã bị mất tích trong bao lâu rồi?” Susan hỏi.

Derek đằng hắng giọng. “Đúng rồi. Tôi xin lỗi.” Anh ta đối mặt với mọi người một cách hống hách, nắm đấm tay chống lên bàn. “Hãy bắt đầu với Lee Robinson, trường Trung học Cleveland. Cô bé biến mất vào tháng Mười. Cô bé có một buổi tập hát hợp xướng jazz sau giờ học. Buổi học kết thúc, cô bé rời phòng tập hát và nói với một số người bạn rằng mình sẽ đi bộ về nhà. Cô bé sống cách đó mười dãy nhà.”

Susan lật mở cuốn sổ tay. “Có phải lúc đó trời tối không?” Cô hỏi.

“Không hẳn”, Derek nói. “Nhưng gần như vậy. Lee chưa về đến nhà. Đến lúc cô bé muộn một tiếng cho bữa tối, mẹ cô bé bắt đầu gọi cho bạn bè của cô bé. Sau đó, lúc 9 giờ 30, bà ấy gọi cảnh sát. Họ vẫn chưa nghĩ đến điều tệ nhất.”

Derek nhấn một nút trên chiếc laptop và trang tiêu đề biến mất vào hình ảnh một câu chuyện tin tức của Người đưa tin. “Đây là câu chuyện đầu tiên chúng ta thực hiện, trên trang nhất của Metro, ngày 29 tháng 10, 48 giờ sau khi Lee mất tích.” Susan cảm thấy hàng triệu nỗi buồn khi nhìn thấy bức ảnh cô nữ sinh: mái tóc màu nâu thẳng, niềng răng, áo len chui đầu của dàn hợp xướng nhạc jazz, những đốm mụn, mắt xanh da trời, cùng đôi môi căng bóng. Derek tiếp tục, “Cảnh sát yêu cầu bất cứ ai có thông tin gì thì hãy gọi đến đường dây nóng. Họ đã nhận được một nghìn cuộc gọi. Kết quả vẫn là con số 0.”

“Cô có chắc là không muốn ăn miếng bánh táo nào không?” Ian hỏi Susan.

“Tôi chắc”, Susan nói.

Derek nhấn bàn phím lần nữa. Câu chuyện chuyển sang một slide khác, hình ảnh của một trang nhất. “Câu chuyện đầu tiên của tháng Mười một là tin tức trên trang nhất. ‘Cô gái mất tích’.” Hình ảnh của cô bé tại trường học lại xuất hiện cùng với hình ảnh của cha mẹ và anh trai của Lee đứng đợi gần nhà.

“Sau đó, còn có hai câu chuyện nữa, nhưng rất ít thông tin mới”, Derek nói. Một slide khác. Slide này được ghi ngày 7 tháng 11, một tiêu đề khác trên trang nhất: Cô bé mất tích được tìm thấy đã chết. “Một nhân viên tìm kiếm và cứu hộ tìm thấy cô trong bùn trên bờ của đảo Ross. Cô bé đã bị cưỡng bức và siết cổ đến chết. Phòng Pháp y cho rằng cô bé đã ở trong bùn trong khoảng một tuần.”

Luôn có một câu chuyện mỗi ngày trong tuần tới: tin đồn, dẫn dắt, hàng xóm nhớ cô bé Lee đáng yêu như thế nào, bạn cùng lớp cảnh giác, các dịch vụ nhà thờ, tăng tiền khen thưởng cho những người cung cấp thông tin liên quan đến kẻ giết người.

“Vào ngày 2 tháng 2, Dana Stamp đã kết thúc buổi tập luyện cùng đội nhảy của trường phổ thông Lincoln”, Derek nói. “Cô bé tắm gội, tạm biệt bạn bè và đi về phía xe của mình trong bãi đậu xe dành cho học sinh. Cô bé đã không thể về đến nhà. Mẹ cô bé, một người mua bán bất động sản, đang giới thiệu cho khách một ngôi nhà ở phía đông và đã không về nhà cho đến 9 giờ tối. Bà ấy gọi cảnh sát ngay trước nửa đêm.” Slide tiếp theo. Dòng chữ Một cô gái khác mất tích nổi bật trên trang nhất của số báo Người đưa tin ngày 3 tháng 2.

Một bức ảnh khác của trường. Susan ngồi chồm người về phía trước một chút và xem kỹ cô bé trên màn hình. Sự tương đồng ở đây là nổi bật. Dana không niềng răng và không mụn, vì vậy thoạt nhìn, cô ấy có vẻ xinh hơn Lee, nhưng khi nhìn kỹ hơn, chúng có thể có liên quan. Dana là cô gái mà Lee sẽ trở thành, một khi bỏ niềng răng ra và mụn biến mất. Hai cô bé có khuôn mặt trái xoan giống nhau, đôi mắt dài, mũi nhỏ và mái tóc nâu. Cả hai đều gầy, với bộ ngực mới nhú. Dana mỉm cười trong bức ảnh. Lee thì không.

Susan đã theo dõi câu chuyện. Sống ở Portland thì không thể không biết về những tin tức này. Khi ngày trôi qua mà không có bất kỳ manh mối nào về nơi ở của Dana, họ đã nhập lại thành một cô gái: Dana và Lee. Một câu thần chú nghiêm trọng lặp đi lặp lại bởi các kênh tin tức địa phương, câu chuyện mở đầu, bất kể phần tin tiếp theo là chuyện gì đang xảy ra trên toàn quốc hay quốc tế. Cảnh sát sẽ chỉ công khai rằng họ đang xem xét khả năng hai trường hợp này có thể có liên quan với nhau, nhưng trong tâm trí mọi người, không còn nghi ngờ gì nữa. Hình ảnh trường học của họ luôn xuất hiện cạnh nhau. Họ được gọi là “những cô bé học sinh”.

Derek hào hứng nhìn từ người này sang người khác. “Một người chèo thuyền kayak đã tìm thấy thi thể bị che khuất một phần bởi bụi cây trên bờ Esplanade vào ngày 14 tháng 2. Ngày lễ tình nhân? Cô bé đã bị cưỡng bức và siết cổ đến chết.”

Slide đó biến mất; bài báo tiếp theo, ngày 8 tháng 3: Cô gái thứ ba biến mất; thành phố triệu tập lại Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng.

Derek tóm tắt, “Hôm qua, Kristy Mathers đã rời trường lúc 6 giờ 15 phút, sau buổi diễn tập một vở kịch. Cô bé được cho là đi về nhà ngay bằng xe đạp. Cha cô ấy là tài xế taxi, đi làm về muộn. Ông ta có ghé nhà khoảng 7 giờ tối, sau khi không thể liên lạc với cô bé qua điện thoại. Cha cô bé đã gọi cảnh sát lúc 7 giờ 30 tối. Cô bé vẫn đang mất tích.”

Susan nhìn chằm chằm vào bức ảnh. Cô bé mũm mĩm hơn Dana và Lee, nhưng có mái tóc nâu và đôi mắt to tròn. Susan liếc nhìn chiếc đồng hồ tròn màu trắng đang ngân nga trên bức tường phía xa trên cánh cửa. Kim phút màu đen nhảy về phía trước. Đã gần 6 giờ 30. Kristy Mathers đã mất tích hơn mười hai tiếng. Một cơn ớn lạnh nơi xương sống khi Susan nhận ra rằng có lẽ sẽ không có cuộc hội ngộ hạnh phúc nào ở cuối câu chuyện này.

Ian quay sang Susan. “Đối tượng của cô là Archie Sheridan. Không phải các cô gái. Các cô gái là…”, Ian đưa tay lên vuốt mái tóc đuôi ngụa, “phông nền. Cô phải viết điều này cho đúng, nó sẽ tạo nên sự nghiệp cho cô.”

Derek có vẻ bối rối. “Ý anh là gì? Anh nói rằng đây là câu chuyện của tôi. Tôi đã thức dậy lúc nửa đêm để làm bài thuyết trình này.”

“Kế hoạch đã thay đổi”, Ian nói. Anh ta cho Derek thấy một trong những nụ cười đẹp nhất của mình. “Mặc dù vậy, PowerPoint anh làm đẹp lắm.”

Trán của Derek đông cứng lại.

“Thư giãn nào”, Ian thở dài nói. “Anh có thể cập nhật thông tin cho trang web. Chúng tôi đang thiết lập một blog.”

Hai đốm đỏ hoàn hảo xuất hiện trên má Derek, và Susan có thể thấy quai hàm anh ta siết chặt. Anh ta nhìn từ Ian đến Clay. Clay bận rộn với một chiếc bánh rán khác. Derek nhìn chằm chằm Susan. Cô nhún vai và nở nụ cười nửa miệng. Cô có đủ khả năng làm điều này.

“Được thôi”, Derek gật đầu cam chịu. Anh ta tắt laptop và bắt đầu cuộn sợi dây quanh tay. Rồi Derek dừng lại, thắt nút sợi dây quanh nắm tay. Anh ta nói, “Kẻ bóp cổ sau giờ học.” Tất cả đều nhìn anh ta. Anh cười toe toét, hài lòng với chính mình. “Cái tên của vụ án. Tôi vừa nghĩ ra nó.”

Ian nhìn Clay, cau mày dò hỏi.

Không, Susan nghĩ. Đừng để gã đần này đặt tên. Không phải Derek mặt vuông.

Clay gật đầu vài lần. “Kẻ bóp cổ sau giờ học.” Anh ta cười khúc khích. “Nghe hơi ủy mị. Nhưng tôi thích nó.” Tiếng cười của Clay nhạt dần và anh ta ngồi lặng im hoàn toàn trong một lúc. Sau đó anh ta đằng hắng cổ họng. “Ai đó nên viết một bài sơ lược về tiểu sử”, anh ta nói nhẹ nhàng. “Chỉ là để đề phòng.”

Clay cầm ly cà phê đã nguội lạnh và buồn rũ rượi nhìn chằm chằm vào nó. Derek nhìn vào tay của mình. Ian thì mải nghĩ đến cái đuôi ngựa. Susan liếc nhìn đồng hồ. Kim đồng hồ vẫn đang nhảy từng phút. Âm thanh nó tạo ra vang vọng trong căn phòng nhỏ, đột nhiên căn phòng tĩnh lặng.