CHƯƠNG 6
Archie đếm từng viên giảm đau Vicodin. Mười ba viên. Anh đặt hai viên thuốc màu trắng hình bầu dục ở bục sau của bồn vệ sinh và bỏ mười một viên khác vào lọ thuốc bằng đồng, lót những viên thuốc cẩn thận bằng bông để chúng không bị rách. Sau đó, anh đặt lọ thuốc vào túi áo khoác. Mười ba viên Vicodin loại mạnh. Chừng đó chắc sẽ đủ. Anh thở dài và rút lọ thuốc ra lại khỏi túi, lấy thêm năm viên từ một chai thuốc lớn bằng nhựa màu hổ phách, thêm năm viên đó vào lọ thuốc bằng đồng và bỏ lại vào túi. Mười tám viên Vicodin. Mười miligam chất codeine và bảy trăm năm mươi miligam acetaminophen trong mỗi liều. Một liều acetaminophen tối đa mà thận của con người có thể xử lý được là bốn nghìn miligam trong vòng 24 giờ. Anh làm phép tính. Vậy là 5,33 viên thuốc mỗi ngày. Gần như không đủ. Vì vậy, anh chơi trò kiểm soát các thói quen của mình. Anh sẽ cho phép mình uống thêm một viên vào khoảng một vài ngày. Tối đa là hai mươi lăm viên; sau đó anh sẽ tự cai, bẻ đôi viên thuốc, quay trở lại với lời khuyên bốn hoặc năm viên một ngày. Sau đó lại uống theo cách của mình một lần nữa. Đó là một trò chơi. Vua của những ngọn đồi. Mỗi thứ đều có lượt chơi của mình, thay phiên nhau. Thuốc Vicodin là cho cơn đau. Thuốc Xanax cho những cơn đau kèm theo hoảng loạn. Thuốc Zantac cho dạ dày. Thuốc Ambien để ngủ. Tất cả đều cho vào hộp đựng thuốc.
Anh lần những ngón tay theo hàm. Anh chưa bao giờ giỏi việc cạo râu, nhưng gần đây, anh còn trở nên nguy hiểm với việc này. Anh gỡ một mảnh giấy nhỏ gắn vào vết xước do dao cạo. Mảnh giấy rơi ra, những vết thương lập tức chảy máu trở lại. Anh vẩy ít nước lạnh lên mặt, xé một tờ giấy vệ sinh hình vuông khác ra khỏi cuộn, đưa nó lên cằm và nhìn vào gương. Archie chưa bao giờ có khả năng đánh giá ngoại hình của chính mình. Khả năng thiên phú của anh là đánh giá vẻ ngoài của người khác: sự đồng cảm, trí nhớ và một nỗi ám ảnh, nỗi ám ảnh đó đòi hỏi anh phải theo đuổi tất cả mọi kết quả có thể cho đến khi giống như một đốm ghẻ đang lột da, sự thật được phơi bày. Trong sự nghiệp kỳ lạ của anh - một thám tử chuyên điều tra những vụ giết người, rất hiếm khi anh để ý đến cách mà mình xuất hiện trước người khác. Giờ đây anh lại đang đảo mắt để nhìn thật kỹ hình ảnh của mình. Anh có đôi mắt buồn, u tối. Anh có đôi mắt buồn này từ lâu, trước khi anh biết Gretchen Lowell, rất lâu trước khi anh trở thành cảnh sát. Ông nội của anh, một linh mục bị thoái nhiệm, đã trốn khỏi Bắc Ireland, và những thứ đã làm nên đôi mắt của anh là: nhớ nhà dù có bao nhiêu người xung quanh anh đi nữa. Archie luôn có đôi mắt buồn, nhưng dường như trong vài năm qua, các điểm nổi bật khác đã phai dần, vì vậy bây giờ đôi mắt đó càng nổi bật hơn. Anh có chiếc cằm mạnh mẽ từ người mẹ của mình, chiếc mũi bị gãy trong một tai nạn xe hơi, và đôi má lúm khi anh nở một nụ cười nhếch mép. Anh không đẹp. Nhưng anh cũng không phải là người xấu trai nếu ai đó thích những người có vẻ ngoài bình thường, trầm lặng.
Anh mỉm cười với hình ảnh của mình và lập tức co rúm trước hình ảnh đó. Anh đang đùa với ai? Nhưng anh đã cố gắng nỗ lực. Anh đã cố gắng làm thẳng nhúm tóc giữa trán của mái tóc nâu xoăn dày và làm gọn hàng lông mày. Anh mặc một chiếc áo khoác giáo sư, màu nâu kỳ quặc, và một chiếc cà vạt lụa màu nâu bạc được mua bởi cô vợ cũ, người mà anh biết có gu thời trang tốt, vì anh nghe mọi người nhận xét như vậy. Chiếc áo khoác, đã từng vừa vặn hoàn hảo, giờ lại quá rộng ở vai. Nhưng tất của anh thì sạch sẽ. Vẻ bề ngoài của anh, ít nhất đối với anh, trông gần như tạm ổn. Anh cảm thấy mình đã nghỉ ngơi trong hai năm qua. Mới bốn mươi tuổi nhưng trông anh như già thêm năm tuổi vậy. Anh đang vật lộn với những viên thuốc dù biết rằng mình sẽ thua. Anh không thể chịu đựng được việc không thể chạm vào những đứa con của mình. Và anh trông gần như là bình thường. Đúng vậy. Anh có thể chịu đựng tất cả. Anh là cảnh sát, anh tự nhắc nhở chính mình. Mày có thể chém gió một cách hoàn hảo.
Anh gỡ tờ giấy ra khỏi mặt và ném nó vào thùng rác dưới bồn rửa. Sau đó, anh nắm chặt một bên bồn rửa và xem xét hình ảnh phản chiếu của mình. Hầu như không thấy những vết sẹo, thực sự là vậy. Anh mỉm cười. Nhướng cao đôi chân mày. Xin chào! Rất vui khi gặp tất cả mọi người! Vâng! Tôi thấy ổn! Tất cả mọi thứ đều đã tốt hơn! Anh thở dài và để khuôn mặt trở lại với biểu cảm chậm chạp tự nhiên, rồi lơ đãng nhặt hai viên thuốc ra khỏi bục phía sau của bồn vệ sinh và nuốt chúng mà không có nước. Lúc đó là 6 giờ 30 sáng. Hơn 20 giờ đã trôi qua kể từ lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô bé Kristy Mathers.
Những phòng làm việc mới của đội đặc nhiệm hóa ra là ở trong một tòa nhà ngân hàng đã cũ, mà phía thành phố đã cho thuê nhiều tháng trước để làm văn phòng. Tòa nhà bằng xi măng này có một tầng hình chữ nhật với vài cửa sổ lưa thưa, được bao quanh ở mọi phía bởi các bãi đậu xe. Những chiếc xe chạy băng qua một cây ATM vẫn hoạt động.
Archie liếc nhìn đồng hồ: gần 7 giờ.
Khung cảnh những ngôi nhà kề sát nhau về đêm đã trở thành một thứ gì đó giống như những gã hàng xóm mệt mỏi và sợ hãi. Henry đã chở Archie về nhà lúc 3 giờ sáng và đưa cho anh địa chỉ các văn phòng đội đặc nhiệm mới. “Cố ngủ một giấc nhé”, Henry nói. Và cả hai đều cười.
Giờ thì, Archie đang đứng bên kia đường, thọc tay vào túi quần, khảo sát xung quanh. Một chiếc taxi đã đưa anh đến đây - sự thỏa hiệp của anh với những viên thuốc. Anh là một con nghiện, nhưng bản thân anh là người có trách nhiệm. Một nụ cười lướt qua môi anh. Một. Ngân hàng. Chết tiệt. Đã có sẵn ba chiếc xe truyền tin tức đậu xung quanh tòa nhà ngân hàng. Tất cả các tin tức đang được biết, anh đọc khẩu hiệu của một trong những chiếc xe tải. Anh nhận ra không có kênh tin tức nào đến từ trung ương. Nhưng nếu anh đúng, đó chỉ là vấn đề thời gian. Anh nhìn các phóng viên, đang che mình bằng những chiếc áo khoác lố bịch chống nước và ấm áp, họ đang hội ý với những người quay phim để râu. Họ lảo đảo đi về phía trước đầy kỳ vọng mỗi khi có một chiếc xe hơi tiến tới chầm chậm, sau đó lại quay về với điếu thuốc và ly cà phê khi biết rõ danh tính người trong xe. Họ đang đợi anh, anh nhận ra điều đó. Không phải là các cô gái. Không phải là đội đặc nhiệm. Không thể có lấy một mẩu tin, anh chắc cú luôn. Họ muốn anh. Nạn nhân cuối cùng của Mỹ nhân đoạt mạng. Những đốt xương trong các ngón tay anh lạnh toát.
Anh đưa tay vuốt tóc và thấy tóc ướt. Anh đứng dưới cơn mưa rơi chậm đã mười phút rồi. Anh sẽ bắt được cái chết của mình, anh tự nghĩ. Những từ đó không phát lên trong giọng nói của anh, mà là của ả. Du dương. Trêu chọc. Anh sẽ bắt được cái chết của mình, anh yêu. Anh hít một hơi thật sâu, đẩy ả ra, trong giây lát, từ trong tâm trí, và bắt đầu tiến về văn phòng mới của mình.
Đám đông phóng viên vây quanh anh chỉ ngay sau khi đôi giày anh chạm vào nền bê tông ướt của bãi đậu xe. Anh lờ đi những câu hỏi và máy quay, bước nhanh nhất có thể để lọt qua giữa hai hàng người vây lấy mình, đôi vai gù xuống chống lại cơn mưa.
“Anh cảm thấy ra sao khi quay trở lại. Sức khỏe anh thế nào rồi? Anh đã liên lạc lại với Gretchen Lowell chưa?”
Đừng để bị phân tâm, anh tự nhủ. Anh nhét lọ thuốc vào túi, cảm thấy được an ủi từ sự hiện diện của nó. Chỉ cần tiếp tục di chuyển.
Anh đưa huy hiệu cho nhân viên mặc đồng phục ở cửa, và chen qua các phóng viên đang canh giữ ở bên ngoài. Ngân hàng chật ních người dọn dẹp, đập nát các quầy giao dịch cũ, di chuyển đồ đạc. Không khí đặc quánh với bụi của những vách thạch cao bị đập vỡ và tiếng kêu rền rền của các dụng cụ điện. Đôi mắt Archie như bị đốt cháy bởi những hạt bụi khi anh nhìn quanh căn phòng. Henry đang đứng ngay bên trong cánh cửa, đợi anh. Henry là người chỉ rõ tình hình cho Archie khi anh còn làm thám tử và Henry đã trông chừng anh kể từ đó. Henry là một người đàn ông to lớn với cái đầu trọc lóc sáng loáng và bộ ria muối tiêu dày, Henry có thể biến mình thành một hình dáng oai phong khi anh ấy muốn. Nhưng kiểu cười toe toét nhăn nhó và màu mắt xanh lịch thiệp của Henry làm mọi người cảm nhận được bản chất ấm áp trong anh. Henry biết cả hai mặt này, và anh đã sử dụng chúng tùy lúc để có lợi thế cho mình. Hôm nay, anh mặc một chiếc áo cao cổ màu đen, áo khoác da màu đen và quần jean đen. Anh đeo một chiếc thắt lưng da màu đen chạm khắc bằng tay với khóa thắt lưng màu bạc và màu ngọc lam. Đó là bộ quần áo Henry thường mặc với một chút thay đổi.
Henry đang chăm chú phủi bụi trắng khỏi chiếc quần đen khi nhìn thấy Archie. “Đã lọt qua đám nhà báo của thành phố rồi à?” Anh nói đầy thích thú.
Archie là đối tượng chú ý của giới báo chí săn tin, và Henry biết điều đó. “Chuyện đó có là gì.”
“Cậu chắc hẳn có thể đoán trước”, Henry gật gù kiểu đồng tình. “Cậu sẵn sàng cho vụ này chưa?”
“Hơn bao giờ hết.” Archie nhìn xung quanh. “Đây là một ngân hàng.”
“Tôi hy vọng cậu không nhạy cảm với chất a-mi-ăng.”
“Anh có thấy việc này kỳ lạ không?” Archie hỏi.
“Tôi luôn thích ngân hàng”, Henry nói. “Nó gợi nhắc tôi về tiền.”
“Tất cả đều ở đây à?”
“Họ đang hội ý riêng, và chờ cậu trong phòng chứa tiền.”
“Phòng chứa tiền á?”
“Đùa thôi.” Henry nói. “Có một phòng nghỉ. Với một cái lò vi sóng. Và một chiếc tủ lạnh mini.”
“Chắc chắn rồi. Đây là ngân hàng mà. Tâm trạng họ thế nào?”
“Như thể họ chuẩn bị nhìn thấy một con ma vậy”, Henry nói.
Archie vẫy những ngón tay với bạn mình. “Hừ.”
Một bồn rửa, tủ lạnh và mặt bàn, với vài cái tủ chiếm dụng một bức tường của phòng nghỉ. Vài chiếc bàn hình vuông nhỏ được ráp lại thành bàn họp đặc biệt. Bảy thám tử đang ngồi hoặc đứng xung quanh bàn, nhiều người với những cốc cà phê cỡ lớn. Cuộc trò chuyện dừng lại khi Archie bước vào.
“Chào buổi sáng”, Archie nói. Anh nhìn quanh nhóm. Năm người trong số họ từng làm việc với Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng. Hai người mới. “Tôi là Archie Sheridan”, anh nói với giọng mạnh mẽ. Họ đều biết anh là ai. Ngay cả đối với hai người anh chưa từng gặp. Nhưng câu chào đó đã cho Archie một cái gì đấy để bắt đầu.
Những người mới được bổ sung là Mike Flannigan và Jeff Heil, cả hai đều có chiều cao và dáng người trung bình, một người tóc đen, người kia tóc sáng màu. Archie lập tức gọi họ là những chàng trai khỏe mạnh. Những người còn lại là Claire Masland, Martin Ngyun, Greg Fremont, Anne Boyd và Josh Levy. Anh đã từng làm việc với vài vị thám tử này trong nhiều năm, ngày đêm, và ngoại trừ Henry, anh đã không gặp bất kỳ ai trong số họ kể từ khi xuất viện. Anh không muốn nhìn thấy bất cứ ai trong số họ. Bây giờ họ nhìn anh với cái nhìn pha trộn giữa tình cảm và lo lắng. Archie cảm thấy ngại ngùng. Anh luôn cảm thấy tồi tệ với những người biết những gì anh đã trải qua. Vì điều đó làm cho họ cảm thấy khó xử. Anh biết rằng họ thoải mái hay không đều phụ thuộc vào anh để họ có thể làm việc hiệu quả, không phân tâm, không thương hại. Chiến thuật tốt nhất mà anh biết là hành động như thể không có chuyện gì xảy ra, như thể thời gian chưa bao giờ trôi qua. Trở lại làm việc, cứ như vậy. Không có những bài phát biểu sướt mướt. Cho họ thấy rằng anh đang tăng tốc và trong tầm kiểm soát.
“Claire”, anh nói, quay lại đối mặt với cô gái nhỏ nhắn. “Tình hình an ninh tại các trường khác thế nào?”
Những người còn lại của đội chỉ mới được đưa vào sáng hôm đó. Nhưng Claire và Henry đã xử lý vụ việc này ngay từ đầu.
Claire ngồi chớm dậy một chút, ngạc nhiên, nhưng hài lòng khi được hỏi, vì anh biết cô sẽ như thế. “Các hoạt động sau giờ học đã bị hủy bỏ cho đến khi có thông báo mới. Chúng ta có bốn đội đóng quân tại mỗi trường và sáu đơn vị tuần tra xung quanh mỗi trường, từ 5 giờ đến 7 giờ, thời điểm mà có vẻ như hắn ta sẽ tóm các nạn nhân. Các trường học đang tổ chức các buổi hướng dẫn tự vệ trong ngày hôm nay. Gửi thư về nhà cho các bậc phụ huynh đề nghị họ không nên cho con gái mình đi bộ hoặc đi xe đạp đến trường hoặc từ trường học về.”
“Tốt”, anh nói. “Còn việc tìm kiếm và giải cứu thì sao?”
Martin Ngyun nghiêng người về phía trước. Anh ta đội một chiếc mũ Portland Trail Blazers. Archie không chắc chắn mình đã từng nhìn thấy Martin không đội chiếc mũ đó. “Tôi mới nhận được tin cập nhật về việc đó. Không có gì được tìm thấy đêm qua. Chúng ta có gần năm mươi người và mười con chó tìm kiếm từng dãy nhà vào ban ngày trong bán kính hai ki-lô-mét vuông quanh nhà cô bé. Và hàng trăm tình nguyện viên khác, vẫn chưa có gì.”
“Tôi muốn một trạm soát xe gần trường Jefferson ngày hôm nay, từ 5 giờ đến 7 giờ. Dừng tất cả những người lái xe ngang qua, hỏi xem họ có thấy gì không. Nếu hôm nay họ lái xe qua tuyến đường đó, thì khả năng cao họ cũng đã đi qua tuyến đường đó vào hôm qua. Cô bé Lee Robinson có điện thoại di động, đúng không? Tôi muốn xem danh mục cuộc gọi của cô bé và đem tất cả hồ sơ email của các cô bé khác đến bàn của tôi.” Anh quay sang Anne Boyd. Cô gái này là chuyên gia lập hồ sơ thứ ba mà Cục Điều tra Liên bang FBI gửi đến làm việc trong vụ án Mỹ nhân đoạt mạng, là người duy nhất không phải là một kẻ châm chọc những việc không thể vượt qua. Anh luôn thích cô, nhưng anh đã không trả lời những lá thư của cô trong hai năm qua. “Khi nào chúng ta có hồ sơ vụ án?”
Anne đã uống hết một lon coca-cola không đường và đặt cái lon lên bàn tạo nên tiếng leng keng be bé. Cô có kiểu tóc xoăn và dài vào lần cuối Archie nhìn thấy cô. Bây giờ mái tóc đen của cô đã được bện thành hàng ngàn bím tóc nhỏ. Chúng đung đưa khi cô nghiêng đầu. “Hai mươi tư tiếng nữa. Tôi sẽ cố gắng hết sức.”
“Còn bản phác thảo?”
“Là đàn ông, tầm ba mươi đến năm mươi tuổi. Và rõ ràng là…”
“Là gì?”
“Hắn luôn nỗ lực để trả lại các nạn nhân.” Cô nhún vai. “Hắn cảm thấy có lỗi.”
“Vậy thì chúng ta đang tìm kiếm một người đàn ông trong độ tuổi từ ba mươi đến năm mươi, kẻ này đang cảm thấy có lỗi”, Archie tóm tắt. Nghe có vẻ quen? “Nếu hắn cảm thấy có lỗi”, anh đưa ra giả thuyết cho Anne, “thì hắn có thể rất dễ bị tổn thương, phải không?”
“Hắn biết những gì mình đã làm là sai. Anh có thể đe dọa hắn, đúng vậy.”
Archie cúi xuống, tựa cánh tay lên bàn và nhìn đối mặt với cả đội. Họ nhìn anh đầy mong đợi. Anh có thể nói rằng nhiều người trong số họ đã thức cả đêm để làm việc. Mỗi phút trôi qua sẽ lấy mất tinh thần của họ. Họ sẽ ngủ ít hơn, ăn ít hơn và lo lắng nhiều hơn. Là đội của anh. Trách nhiệm của anh. Archie không phải là một người quản lý tốt. Anh biết điều này. Anh coi trọng những người làm việc cho mình hơn là những người mà anh làm việc cho họ. Điều này làm cho anh trở thành một nhà lãnh đạo tốt. Miễn là anh làm việc có kết quả, những người cấp cao hơn sẵn sàng bỏ qua cách anh quản lý. Anh đã làm việc trong Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng được mười năm, làm đội trưởng trong bốn năm trước khi bắt được Gretchen Lowell. Anh đã cảm thấy rìa của chiếc rìu bằng đồng thau trên cổ trong suốt nhiệm kỳ của mình. Anh đã chứng tỏ bản thân và gần như đã bị giết trong quá trình phá án. Và vì điều đó, anh có được sự tin tưởng của mọi người trong căn phòng đó. Điều này làm cho anh ghét tất cả những mệnh lệnh mà mình phải đưa ra. “Trước khi chúng ta tiếp tục, tôi muốn cho mọi người biết rằng một phóng viên từ tòa soạn Người đưa tin, cô Susan Ward, sẽ đi cùng tôi.”
Tất cả đông cứng lại.
“Tôi biết”, Archie thở dài nói. “Điều này không như bình thường. Nhưng tôi phải làm điều đó và mọi người phải tin tôi khi tôi nói rằng tôi có lý do chính đáng. Mức độ hợp tác như thế nào tùy thuộc vào mức độ thoải mái của mọi người.” Nhìn xung quanh phòng, anh tự hỏi họ đang nghĩ gì. Một kẻ ham danh tiếng? Một kẻ đê tiện tham thăng tiến? Hay một cuộc trao đổi độc quyền cho việc che giấu một số thông tin gây thiệt hại? Không đúng lấy một chữ, Archie nghĩ. “Ai có câu hỏi hay thắc mắc gì không?”
Sáu cánh tay giơ lên.