CHƯƠNG 7
“Cho tôi biết về Archie Sheridan”, Susan nói. Đó là vào giữa buổi chiều và cô tìm được thư mục tài liệu nghiên cứu mà Derek lấy từ cơ sở dữ liệu của Người đưa tin, rồi trao cho cô cùng một cái bánh rán vị táo bọc trong lớp giấy bạc. Có phải anh ta đang cố gắng trở nên vui tính? Hiện tại cô ngồi trên mép bàn của Quentin Parker, với một cuốn sổ trên tay.
Parker là phóng viên mảng phòng chống tội phạm thành phố. Ông ta hói, mập béo và ít nghĩ đến các thể loại bằng cấp báo chí, thấp hơn nhiều so với những người có tấm bằng thạc sĩ nghệ thuật kia. Ông ta thuộc phong cách thời trang hoài cổ. Ông ta hiếu chiến. Ông ta hạ mình. Có thể là một người nghiện rượu. Nhưng ông ta rất thông minh và Susan thích ông ta.
Parker ngả người trên ghế xoay, nắm chặt hai vịn tay ghế với đôi tay rắn chắc, cười toe toét. “Làm gì mà lâu thế?”
“Họ nói với ông về loạt giải thưởng Pulitzer của tôi à?”
Ông ta khịt mũi. “Họ có nói với cô rằng cô nhận được vụ này là nhờ ‘cái đó’ của cô không?”
Cô mỉm cười ngọt ngào. “Cái đó của tôi là người ủng hộ tôi nhất mà không hề mệt mỏi.”
Parker cười ha hả và đánh giá cô một cách thích thú.
“Cô có chắc cô không phải là con gái của tôi không?”
“Con của ông có mái tóc màu hồng không?”
Ông ta lắc đầu, khiến hàm lắc lư. “Bước qua xác của tôi.” Ông ta nhìn quanh phòng tin tức, nhìn vào những dãy người đang nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính hoặc nói chuyện qua điện thoại. “Hãy nhìn nơi này đi”, ông ta nói với giọng cau có buồn bã trước một môi trường ảm đạm và nghiêm túc - tất cả đều trải thảm và những bàn làm việc được ngăn cách thành khoảng trống hình khối. “Hệt như đang làm việc trong một văn phòng tẻ nhạt.”
“Đi thôi”, ông ta nói, gắng sức để đẩy mình đứng dậy và rời khỏi chỗ ngồi. “Tôi sẽ mua cho cô một chiếc bánh mì kẹp trong quán ăn và chúng ta có thể đóng vai là phóng viên.”
Quán cà phê nằm dưới tầng hầm của tòa nhà. Thức ăn ở đây theo tiêu chuẩn chế độ ăn của một công ty: thức ăn thừa dưới cái nóng của đèn điện, một đống xà lách, khoai tây nướng teo rúm. Một dãy những chiếc máy bán hàng tự động bằng thép và thủy tinh có lẽ đã ở trong tòa nhà này suốt ba mươi năm, đựng những quả táo đỏ to bằng quả quýt, những cái bánh mì kẹp hình tam giác, vài lát bánh và những quả chuối hơi nẫu. Parker mua hai cái bánh mì kẹp giăm bông và phô mai từ một cái máy rồi đưa một cái cho Susan.
Vì thức ăn rất tệ, nên chỉ vài người của tòa soạn sử dụng căng tin này, và rất ít người chịu ngồi xuống tận hưởng bầu không khí ở đây, vì vậy Parker và Susan dễ dàng tìm thấy một chiếc bàn nhựa màu be còn trống.
Mùi thuốc lá nồng nặc bám trên người Parker như mùi cơ thể. Ông ta luôn có mùi như vừa mới thoát khỏi làn khói, mặc dù Susan chưa bao giờ thấy ông ta rời khỏi bàn làm việc. Parker cắn một miếng bánh mì lớn và dùng mu bàn tay lau một ít nước xốt mayonnaise dính trên cằm.
“Được rồi, bắt đầu đi”, ông ta nói.
Susan mở sổ tay ra và cười rạng rỡ. “Susan Ward”, cô mếu máo. “Người đưa tin. Ông có phiền nếu tôi hỏi ông một vài câu hỏi không?”
“Không có gì. Cứ tiếp tục.”
“Thám tử Archie Sheridan. Anh ta đã tham gia vào Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng ngay từ đầu, phải không? Anh ta và các cộng sự đã điều tra nạn nhân đầu tiên?”
Parker gật đầu, cằm ông ta như nhân lên thành nhiều cái. “Phải. Anh ta đang làm công việc của một cảnh sát điều tra vụ án giết người được vài tuần. Cộng sự của anh ta là Henry Sobol. Đó là vụ án đầu tiên của Sheridan. Cô có thể tưởng tượng chuyện quái này không? Là vụ án đầu tay và anh ta đã tìm ra kẻ giết người hàng loạt? May mắn gớm. Tất nhiên, họ không biết điều đó. Đó chỉ là một ả điếm đã chết. Một người chạy bộ đã tìm thấy cô ta ở công viên Forest. Khỏa thân. Bị tra tấn. Có những vết thương như vết xoắn. Những vết xoắn không được quan tâm nhiều so với những gì xảy ra sau đó nhưng những vết xoắn cũng đủ gây chú ý. Đối với một vụ gái điếm. Đó là vào năm 1994. Tháng Năm.”
Susan ghi chép vào sổ. “Sau đó, họ tìm thấy các thi thể khác trong mùa hè đó, phải không? Ở bang Idaho và Washington?”
“Đúng. Có một đứa trẻ ở thành phố Boise. Cậu bé mười tuổi. Mất tích, sau đó họ tìm thấy cậu bé đã chết trong một con mương. Một ông già ở thành phố Olympia được tìm thấy bị sát hại ở sân sau. Sau đó, có một cô hầu bàn ở thành phố Salem. Ai đó đã ném xác cô ta ra khỏi chiếc ô tô đang di chuyển trên xa lộ, khiến bốn xe va chạm và giao thông bị tắc nghẽn trong nhiều giờ. Người dân đã rất tức giận.”
“Và Sheridan đã tìm được chứng cứ nhờ ký hiệu để lại, đúng không? Dấu hiệu trên thân xác?”
“Đúng vậy. Đó là từ chúng tôi gọi trong các bài báo. ‘Dấu hiệu trên thân xác’.” Ông ta chồm người về phía trước, người vắt hẳn qua bên kia. “Cô có biết con dao X-Acto là gì không? Nó giống một cây bút nhưng có lưỡi dao cạo ở đầu?”
Susan gật đầu.
“Tất cả nạn nhân đều bị cứa với một con dao như thế. Từng người. Những vết thương được gây ra rất rõ ràng trong lúc những nạn nhân tội nghiệp kia vẫn còn sống.”
“Cụ thể là bằng cách nào?”
“Cô ta đã chạm khắc lên tác phẩm của mình. Khắc một trái tim lên mỗi nạn nhân. Có rất nhiều tổn thương khác trên người nạn nhân, vì vậy rất khó phát hiện ra trái tim đó, kiểu như một cái cây trong rừng vậy. Nhưng cuối cùng cũng có người nhìn ra. Sheridan là người nhìn ra nó sớm hơn những người khác. Đó là vụ án đầu tiên của anh ta, cô biết đấy, ả điếm đã chết. Đó không phải là một ưu tiên lớn cho đội đặc nhiệm, tôi đảm bảo với cô như vậy. Ý tôi là, họ thậm chí không thể tìm thấy bất kỳ gia đình nào xác nhận thi thể. Cô ta đã bỏ trốn khỏi gia đình nhận nuôi mình. Nhưng anh ta đã không để mọi chuyện chấm dứt ở đó. Và khi cơ quan cấp cao nhận ra rằng họ có một kẻ giết người hàng loạt cần xử lý, người đang tra tấn và giết hại một cách ngẫu nhiên những công dân đang đóng thuế cho họ, họ lập ra đội đặc nhiệm đó còn nhanh hơn cô nói câu ‘tin tức buổi tối’.” Nói xong, Parker cắn một miếng bánh mì, nhai trệu trạo hai lần và tiếp tục nói. “Cô phải hiểu rằng ả đã khiến các cảnh sát điều tra bối rối. Đó là điều mà chúng ta nên hiểu về những kẻ giết người hàng loạt. Nhưng Gretchen Lowell thì không giống như vậy. Dấu vết của ả để lại khắp nơi. Ả lặp đi lặp lại những tổn thương trên cơ thể nạn nhân. Ả cứa, chạm trổ trên thân hình họ, thỉnh thoảng ả còn đốt họ. Nhưng ả còn có những hành động điên loạn đến khốn nạn khác. Thỉnh thoảng, ả bắt họ uống nước cống. Thỉnh thoảng mổ xẻ cơ thể họ. Ngoài ra, ả có đồng phạm. Và ả là một người phụ nữ.” Parker nuốt một miếng đầy thức ăn và đặt chiếc bánh mì kẹp lên bàn. “Cô không ăn à”, ông nói.
Susan dừng viết và liếc nhìn đầy hoài nghi vào chiếc bánh mì kẹp trong túi ni lông của mình. Cô cảm thấy hơi buồn nôn và chiếc bánh mì nằm đó như một thứ gì đó đã chết từ lâu. Cô nhìn Parker. Ông ta nhướng mày đầy mong đợi. Cô mở chiếc bánh mì kẹp và cắn một miếng nhỏ ở một góc. Đó là thịt xông khói, nhưng lại có vị như cá. Parker có vẻ hài lòng. Cô đặt chiếc bánh mì xuống và tiếp tục với những câu hỏi. “Vậy thì, hãy nói cho tôi biết về các đồng phạm. Họ đều là đàn ông, phải không?”
“Những người bạn tình tội nghiệp. Cảnh sát nghĩ rằng ả tìm những đồng phạm chủ yếu thông qua quảng cáo cá nhân trên báo, hoặc các trang hẹn hò trên internet. Ả sử dụng những thông tin giả để đăng ký trên các trang mạng, sau đó thả mồi câu rồi tìm kiếm mục tiêu của mình. Có thể thấy rõ ràng ả có một sở trường chọn ra những người đàn ông dễ dàng bị thao túng. Ả đã cô lập họ khỏi bạn bè của họ. Ả tìm điểm yếu của họ, và đàn áp cho đến khi họ kiệt sức.” Ông cười gượng và một chút bơ mayonne chảy ra từ khóe miệng. “Ả có rất nhiều điểm chung với vợ tôi, thật đấy.”
“Tôi có một cậu bạn từng hẹn hò với vợ anh ta, qua một trang quảng cáo cá nhân, giờ thì bỏ nhau rồi. Cô vợ kia đã rút hết tài khoản ngân hàng của hai vợ chồng và chuyển đến Canada vào ngày mà cậu bạn tôi vẫn đang cật lực làm việc kiếm tiền.”
“Vậy đó”, Parker nói, mỉm cười và chấm khăn giấy lên miệng. “Những mối quan hệ như vậy thường không có kết quả tốt, đúng không?”
“Ông nghĩ gì về đội đặc nhiệm? Cách họ làm việc với nhau như thế nào? Ông đã viết rất nhiều bài báo về mảng này.”
Parker xua tay bất đắc dĩ. “Có rất nhiều chuyện chính trị tào lao. Rất nhiều áp lực từ các gia đình, từ các phương tiện truyền thông lẫn các chính trị gia. Tôi chưa từng nhận nhiều vết đâm từ sau lưng đến thế kể từ khi những cô con gái của tôi còn nhỏ. Cục Điều tra Liên bang đã gửi ba người lập hồ sơ khác nhau. Và đội đặc nhiệm đã trải qua ba đội trưởng trước khi đưa vụ này cho Sheridan. Những cảnh sát cũng sẽ kiệt sức với vụ này sau một vài năm. Ý tôi là, họ đã theo dõi các manh mối mỗi ngày, cuối cùng cũng không thể đi đến kết luận quan trọng nào. Cơ sở dữ liệu của họ có tới khoảng mười ngàn manh mối riêng lẻ. Hồ sơ mà Cục Điều tra Liên bang đưa cho họ, tất cả đều sai. Một năm có tới bốn mươi tám cảnh sát điều tra vụ án này, và rồi một năm trôi qua với những thi thể của các nạn nhân, thế là người dân bắt đầu tức giận về việc cảnh sát làm việc không hiệu quả và tiền thuế họ nộp bị lãng phí như thế nào, và rồi, năm tiếp theo đội đặc nhiệm bị cắt giảm xuống còn ba cảnh sát. Một thi thể khác lại được phát hiện, và số lượng nạn nhân lại càng tăng. Sheridan là cảnh sát duy nhất trong đội đặc nhiệm trong suốt mười năm. Anh ta là người duy nhất không bao giờ yêu cầu chuyển đơn vị công tác.”
Cô ngừng viết vào cuốn sổ. “Ông biết anh ta đúng không?”
“Chắc chắn rồi.”
“Ông biết anh ta theo cách ‘Hãy để tôi hỏi anh một vài câu hỏi trong khi anh đang né tránh tôi khỏi hành lang này’, hay theo cách ‘chúng ta vừa uống vừa nói về chuyện này nhỉ?”‘
“Cái đầu tiên. Anh ta đã có vợ và hai con. Anh ta rất yêu thương họ. Cô vợ là người yêu từ thời đại học. Tôi đã gặp cô ấy một lần. Đó là một quý cô rất tốt bụng. Theo như tôi biết, anh ta đã cùng lúc có được ả sát nhân kia và cả gia đình mình nhưng không thể dung hòa.”
“Anh nghĩ gì về anh ta?”
“Một gã cớm tốt. Thông minh. Anh ta có thể đã mất rất nhiều công sức cho điều đó. Sheridan có bằng thạc sĩ ngành tội phạm học hoặc một số văn bằng khác tương tự. Một con mọt sách. Nhưng các đồng nghiệp lại rất thích anh ta. Công tâm. Có nghị lực. Và…”, Parker vừa nói thêm vừa vẫy tay trong không trung, “Anh ta hơi lạc lõng.”
“Ý ông là gì?” Cô đặt cây bút xuống cạnh miếng bánh mì kẹp.
Parker nhún vai. “Cứ cho rằng anh ta đã rất tập trung. Nhưng suy cho cùng, anh ta đã phá một vụ án trong mười năm.”
“Ông có biết anh ta đã ở đâu trong hai năm vừa rồi không?”
“Ở đây, theo như tôi biết”, Parker nói. “Với một thể trạng ốm yếu tàn tật. Ả kia đã đánh số trên người anh ta. Anh ta đã nằm viện một tháng. Sau đó khỏe lại. Nhưng tôi nghe nói anh ta đã làm việc với bên công tố về một thỏa thuận với ả kia, vậy thì anh ta đã không hoàn toàn biến mất khỏi mặt đất này.”
“Ả ta đã phạm tội với năm vụ giết người ở thành phố Oregon, sáu người ở Washington và Idaho, bắt cóc rồi cố ý giết người, và khai ra hai mươi thi thể nữa, phải không?”
“Để đổi lấy sự sống, đúng vậy. Nhiều người nghĩ ả này chắc phải điên khùng lắm.”
“Còn ông thì nghĩ gì?” Susan hỏi.
“Tôi muốn có một phiên tòa. Tôi thích những màn diễn đầy cảm xúc trên tòa án, và tôi sẵn sàng trả hàng nghìn đô la để xem Archie Sheridan làm nhân chứng.”
Susan cắn môi. “Tại sao ả lại săn lùng anh ta? Thật vô lý.”
“Anh ta là đội trưởng đội đặc nhiệm. Hình ảnh của anh ta có trên báo mọi lúc. Ả cảm thấy mình cần phải xuất hiện trước anh ta. Ả đã đi thẳng vào văn phòng anh ta, đề nghị giúp đỡ với chuyên môn tâm lý học dởm của mình. Có thể việc đó giống như một sự thách thức. Nhưng sự thật thì ả chỉ là kẻ lừa bịp.” Parker cắn miếng bánh sandwich cuối cùng như một dấu chấm than.
“Tại sao họ lại gọi ả là Mỹ nhân đoạt mạng?” Susan hỏi.
“Cái tên đó là của tôi”, ông tự hào nói. “Tôi đã nhờ bên giám định pháp y đến kiểm tra ả điếm đã chết của Sheridan, mô tả lại tình trạng thi thể. Cô ta đã bị hủy hoại khá tệ. Người bên giám định huýt sáo và nói, ‘Là một người đẹp.’ Lần khám nghiệm tử thi thú vị nhất của nhân viên này trong cả năm qua. Vụ gần đây nhất của anh ta là ở thành phố Newport. Nơi mà các tử thi đều chết đuối và tự tử. Anh ta bị kích thích. Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng Gretchen Lowell hóa ra cũng là một người đẹp.”
Susan vẫn không hiểu. Đây là người phụ nữ có bản năng sinh tồn mạnh mẽ. Ả đã ở trong một cuộc chiến giết chóc kéo dài mười năm. Ít nhất là vậy. Bắt cóc viên cảnh sát đang truy lùng mình không phải là điều ả quan tâm nhất. “Ông nghĩ gì về những giả thuyết như là vì ả muốn bị chặn lại? Bị bắt? Tự tử vì cảnh sát?”
“Nhảm nhí.” Parker nói. “Gretchen Lowell là một kẻ tâm thần. Ả không giống chúng ta. Ả làm gì cũng không cần lý do. Ả thích giết người. Ả đã nói vậy khi ở trong tù. Ả đã bắt cóc Archie Sheridan, đánh thuốc mê, tra tấn anh ta trong mười ngày và đáng lẽ đã giết anh ta nếu như anh ta không thuyết phục được ả.”
“Thuyết phục không giết anh ta. Chỉ vậy thôi ư?”
“Chính ả đã gọi 911. Nếu ả chưa từng được đào tạo kỹ năng y khoa thì chắc hẳn anh ta đã chết. Một trong những nhân viên cấp cứu nói với tôi rằng ả đã giữ được mạng sống của anh ta được gần ba mươi phút, thực hiện hô hấp nhân tạo, trước khi họ đến đó.”
“Ả đã cứu mạng anh ta.”
“Đúng vậy.”
“Chúa ơi, ả chắc hẳn là một kẻ điên.”
Đôi môi Parker bóng nhờn. “Tôi cho là vậy.”