← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 8

Thị trưởng Portland, Bob “bạn thân” Anderson đang thông báo về đội đặc nhiệm mới tại cuộc họp báo vào buổi chiều tại văn phòng mới. Đây là nơi Susan được cho là sẽ gặp được đối tượng của mình. Susan ghê tởm những buổi họp báo. Đó là một sự giả tạo, các thông điệp và hầu như không bao giờ tiết lộ bất cứ sự thật nào để có những bài báo tốt. Các thông tin được chuyển tiếp là đúng, phải. Nhưng chúng không bao giờ là sự thật.

Ian khăng khăng đòi lái xe, điều đó cũng tốt cho Susan, vì chiếc Saab méo mó của cô luôn chất đầy những vật dụng không thể thiếu cho cuộc sống của cô, chai nước rỗng, vài chiếc áo khoác cũ, sổ ghi chép và hàng chục cây bút. Cô phát hiện ra rằng những người đi chung xe đôi khi không hiểu được tại sao cô không mấy quan tâm đến việc nhặt mẩu khoai tây chiên lên khỏi sàn, lau bụi cho cái chắn bùn. Parker, người thực sự phụ trách đưa tin buổi họp báo, và là người không thích Ian, vì dựa hoàn toàn trên một lý do rằng Ian đã tốt nghiệp trường báo chí năm 1986, đã đi xe riêng của mình.

Trời vẫn mưa. Bầu trời hoàn toàn trắng xóa và những chân đồi bao quanh thành phố trông như những cái bóng lởm chởm, có màu trắng sữa. Khi họ đi qua cây cầu, Susan đặt bàn tay trên cửa sổ phía cô đang ngồi, nhìn những giọt nước chảy dài trên lớp kính. Nhiều người chuyển đến Portland vì chất lượng cuộc sống và chính trị tiến bộ. Họ mua những chiếc xe đạp, những ngôi nhà cũ lớn bằng gỗ và máy pha cà phê, và sau mùa đông ảm đạm đầu tiên, họ chuyển về Los Angeles. Nhưng Susan thích mưa, thích cách mà những cơn mưa làm biến dạng mọi thứ khi cô nhìn từ sau lớp kính chắn gió, mọi cửa sổ. Cách mà ánh sáng của đèn phanh bị mờ đi xung quanh và phản chiếu ánh sáng trên mặt đường. Tiếng kêu sột soạt của cần gạt nước.

Cô phải hỏi điều này. “Nhiệm vụ lần này”, cô vẫn nhìn ra cửa sổ, gõ gõ ngón tay lên mặt kính cứng và lạnh. “Không liên quan gì đến anh, phải không?

Ian thật sự giật mình. “Chúa ơi! Không, Susan. Howard chỉ định cô. Tôi chỉ đồng ý. Tôi sẽ không bao giờ…” Anh ta bỏ lửng câu nói.

“Vậy thì tốt.” Susan nói. “Bởi vì tôi nghĩ rằng nếu việc này đang gây trở ngại cho mối quan hệ công việc của chúng ta thì tôi sẽ chấm dứt chuyện chết tiệt này.” Cô quay lại và nhìn anh ta với đôi mắt xanh lục cứng rắn. “Anh hiểu điều đó, phải không?”

Anh ta hắng giọng, mặt và cổ đỏ ửng. “Tôi hiểu.”

Cô quay đầu đưa ánh mắt nhìn dòng sông Willamette.

“Anh không thích mưa phải không?”

Anne Boyd và Claire Masland ngồi đối diện nhau trong phòng nghỉ hình chữ nhật của một tòa nhà trước đây từng là ngân hàng. Claire là người phụ nữ da trắng có vóc dáng nhỏ bé nhất mà Anne từng gặp. Sẽ không phải là nói quá nếu mô tả cô ấy là lùn; có lẽ tầm một mét năm sáu. Claire trông rất gầy, mảnh khảnh và trông nhỏ hơn vóc dáng vốn có. Nhưng Anne thích Claire. Cô ấy trông giống một cô bé ở độ tuổi vị thành niên, nhưng lại là một trong những cảnh sát ngoan cường nhất mà Anne từng làm việc cùng. Giống như một trong những chú chó cảnh dễ thương đang ngoạm sâu vào cẳng tay ai đó, khóa hàm nó lại, và không thể gỡ ra mà không có thuốc an thần. Họ đã trở thành bạn bè trong vụ án Mỹ nhân đoạt mạng. Các cảnh sát khác nghĩ rằng đó là vì họ đều là phụ nữ. Và theo một cách nào đó, họ biết điều gì đó về nhau. Bất chấp sự khác biệt về màu da, người nặng kẻ nhẹ, bất chấp tất cả, họ nhận ra rằng, là phụ nữ, cũng đủ khiến họ khác biệt để dẫn họ vào một thế giới đầy bạo lực và thế giới đó vẫn bị đàn ông thống trị. Theo cách nào đó, họ hiểu điều gì tạo nên sự hấp dẫn, đến chết.

“Cô có muốn chúng ta nói lại một lần nữa về vụ này không?”

Claire đã kể lại toàn bộ thông tin đặc biệt về vụ án mà cô biết với Anne hai lần và bây giờ đang ngồi bồn chồn, ánh mắt dừng lại trên lò vi sóng nơi bữa trưa đang được hâm nóng. Cô đã từng đến trường Jefferson, phỏng vấn các bạn của cô bé Kristy và Anne biết rằng cô muốn quay trở lại vụ án này. Những vụ án mất tích đã đủ khó. Những đứa trẻ mất tích càng khiến mọi người làm việc chăm chỉ gấp đôi và cảm thấy tội lỗi gấp đôi.

“Hiện tại tôi nghĩ mình đã có tất cả mọi thứ tôi cần từ cô”, Anne nói. Cô xếp các bản ghi chép mà Claire mang đến bên cạnh những ghi chép mà cô có từ Henry và Martin. Những ghi chép mà cảnh sát tại hiện trường vụ án thường có nhiều thông tin hơn phiên bản họ đưa vào báo cáo, và Anne đã biết từ lâu rằng chi tiết nhỏ nhất có thể tạo nên sự khác biệt giữa một hồ sơ có tính xác thực và sự phỏng đoán nửa vời. “Cô nghĩ gì về Archie sáng nay?”, Anne hỏi, cố giữ giọng bình thường.

Claire nhún vai, mắt vẫn nhìn đồng hồ của lò vi sóng. Những người gầy, Anne nhận xét, dường như không bao giờ ngừng ăn. “Khỏe”, Claire nói. Cô đưa tay lên miệng và xé một mẩu da khô đâm máu.

“Khỏe?”

Đôi mắt xám của Claire đông cứng lại và cô đập tay vào đùi. “Đúng vậy Anne à. Khỏe. Họ yêu cầu cô để mắt đến anh ấy à?”

“Tôi chỉ quan tâm đến anh ấy như một người bạn.” Anne nói. Cô dò xét Claire, quầng thâm dưới mắt, môi chi chít những vết cắn. Sự căng thẳng đang giết dần giết mòn cô.

“Công việc là thứ tốt nhất cho anh ấy”, Claire nói. Lò vi sóng kêu “ting”, Claire vội đẩy ghế ra và đứng dậy. “Bên cạnh đó, Henry nói anh ấy vẫn ổn.”

“Henry quý Archie”, Anne nói.

“Chính xác. Vậy thì Henry phải bảo vệ anh ấy, phải không? Ngoài ra, họ sẽ không yêu cầu Archie quay lại nếu anh ấy không ổn.”

“Cô biết sự thật không phải như vậy.”

“Cô đã bay suốt đêm qua à?” Claire hỏi.

Anne nghiêng người về phía trước. “Cô thấy anh ấy thế nào?”

Claire suy nghĩ một lúc, trán nhăn lại. “Giọng của anh ấy nghe rất khác.”

“Đó là do thứ nước tẩy mà ả ta bắt anh ấy uống. Chắc chắn thứ nước đó sẽ hủy hoại dây thanh quản của anh ấy.”

Claire nhắm mắt và quay đầu lại. “Chúa ơi.”

Anne ngập ngừng. Nhưng cô cảm thấy mình phải nói điều này. “Kẻ sát nhân mới này sẽ trở nên tồi tệ hơn, Claire à. Hắn đang tăng tốc. Cô không có nhiều thời gian.”

Claire quay lại và đến bên lò vi sóng. “Tôi đã ở lại qua đêm với gia đình cô bé Kristy”, cô nói. “Cha cô bé. Bà cô bé. Các cô dì của cô bé.” Cô mở lò vi sóng và lấy ra một lát bánh mì mỏng có thịt, đậu và phô mai lên đĩa giấy. “Nhưng lúc đó, tôi đã không nghĩ về cô bé. Tôi tập trung nghĩ đến cô bé tiếp theo. Cô bé đang an toàn nằm trên giường, sắp biến mất. Sắp bị cưỡng bức. Sắp bị sát hại.” Cô chọc chọc vào lát bánh mì một cách buồn bã với một cái nĩa bằng nhựa trắng. Một chiếc răng của cái nĩa nhựa bị gãy và mắc lại trên đó. Claire lắc đầu, chán ghét. “Lò vi sóng ở đây thật chán”, cô nói.

Trời đang đổ mưa phùn, nên họ đã dựng bục phát biểu và micro dưới cổng mái của một cây ATM. Vào thời điểm Susan và Ian đến, báo chí đã vào vị trí, họ lịch sự ngồi trên những chiếc ghế xếp bằng thép màu xám. Các đầu báo của thành phố Portland, bang Oregon, họ là báo Người đưa tin, ba tờ báo tuần, hàng tá các tờ báo khu vực, một chi nhánh của tờ NPR, đài phát thanh cộng đồng, bốn đài phát thanh thương mại, người cung cấp tin tức cho báo Associated và bốn nhóm tin tức truyền hình địa phương. Vì phạm vi và tính nghiêm trọng của vụ án này, đã có thêm nhiều phóng viên của các đài truyền hình và báo in đến từ thành phố Seattle. Xe tin tức của họ nhìn bóng bẩy hơn một chút so với xe của Portland.

Thị trưởng, trông có vẻ quyết tâm và trịnh trọng, đã cam kết giải quyết nhanh chóng vụ án, vừa nói vừa dùng cử chỉ của đôi tay để thể hiện sự nghiêm túc. “Chúng tôi cam kết đưa mọi nguồn lực sẵn có để tóm lấy con quái vật đang săn lùng các cô gái trẻ trong thành phố chúng ta. Tôi kêu gọi các công dân hãy đề phòng nhưng đừng hoảng sợ. Khi tái lập Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng, tôi rất tin tưởng rằng chúng ta sẽ có một giải pháp cho sự điên rồ này.”

Susan mở sổ ra và viết: Vận động tranh cử. Cô đóng cuốn sổ lại rồi nhìn lên trên, và đó là lúc cô nhìn thấy viên cảnh sát Archie Sheridan. Anh đứng đằng sau ngài Thị trưởng, dựa vào bức tường xi măng của ngân hàng, hai tay đút trong túi áo khoác. Anh không để ý ngài Thị trưởng, mà đưa mắt về phía họ - những nhà báo. Anh nhìn từ người này sang người khác, đánh giá từng người trong số họ. Anh không biểu lộ cảm xúc, chỉ xem thôi. Cô để ý thấy anh trông gầy hơn trong những bức ảnh. Và mái tóc đen của anh dài hơn. Nhưng anh trông không hư hỏng, điên rồ hay loạn trí. Anh trông giống như một người đang chờ đợi điều gì đó xảy ra. Như một hành khách ở sân ga tàu điện ngầm, đang tìm kiếm một thứ ánh sáng từ trong bóng tối. Cô cảm thấy như bị điện giật và nhận ra anh cũng đang nhìn cô. Họ khóa mắt trong giây lát, và cô cảm thấy có gì đó trôi qua giữa họ. Anh nở một nụ cười nhanh với cô. Cô mỉm cười đáp lại. Anh tiếp tục rà soát những người đang ngồi bên dưới. Cơ thể anh vẫn hoàn toàn như trước.

“Và trên lưu ý đó, tôi muốn giới thiệu người bạn tốt của tôi, thanh tra Archie Sheridan”, Thị trưởng thông báo. Archie ngước lên, khẽ giật mình, định thần lại và bước lên bục phát biểu. Anh rút tay khỏi túi và đặt nhẹ tay lên bề mặt bục. Anh chỉnh lại micro, đưa tay vuốt tóc.

“Tôi có cần trả lời câu hỏi nào không?”

Kristy Mathers đã mất tích gần 21 giờ. Archie dành cả ngày để phỏng vấn những người đã nhìn thấy cô lần cuối tại trường Jefferson, bạn bè, giáo viên, bố mẹ. Anh đi bộ trên con đường mà cô bé thường về nhà. Anh gặp gỡ đội cảnh sát tội phạm đã tìm kiếm khu vực này đêm hôm trước và không tìm thấy gì. Anh đã phê duyệt tờ rơi để phân phát tại các trường học và các khu phố xung quanh trường học. Anh đã gặp cảnh sát trưởng và Thị trưởng. Anh đã gặp các đội tuần tra đường cao tốc ở bang Washington, bang Idaho và bang California, thực hiện một cuộc họp qua điện thoại với đội tuần tra biên giới Mỹ và Canada, đã tham khảo ý kiến của công ty an ninh tư nhân về việc bảo vệ các trường trung học của thành phố, và anh cũng trực tiếp xem qua hơn bốn trăm tin nhắn được để lại từ các cuộc gọi đến đường dây nóng. Và còn rất nhiều điều anh có thể làm và sẽ mang lại hiệu quả cao hơn việc xuất hiện tại một cuộc họp báo.

Nhưng anh xác định mình sẽ thể hiện tốt nhất tại đó.

Anh đã từng chủ trì hàng trăm cuộc họp báo trong nhiệm kỳ trước với tư cách là thanh tra chính trong Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng, nhưng đây là lần đầu tiên kể từ sau chuyện của Gretchen. Anh xem xét những gương mặt khán giả đang lo lắng. Nhiều người đã thay đổi trong hai năm, nhưng cũng có những người quen. Anh tìm kiếm trong đám đông phía dưới một người mà anh nghĩ sẽ đưa ra những câu hỏi anh muốn, câu hỏi mà anh cần cho tin tức buổi tối. Bàn tay họ giơ cao nhất có thể, khuôn mặt như bị chèn ép với những quyết tâm. Anh thả lỏng bụng và chọn một phụ nữ trẻ gốc Á đang ngồi hàng ghế đầu với một cuốn sổ tay đã sẵn sàng.

“Thưa Thanh tra, anh có nghĩ rằng mình có đủ khả năng về tinh thần lẫn thể chất để điều hành Đội đặc nhiệm truy bắt Kẻ bóp cổ sau giờ học?”

“Kẻ bóp cổ sau giờ học ư?”

Ngay lập tức, “Đó là cách tờ Người đưa tin gọi kẻ giết người trên trang báo điện tử của họ.”

Archie nhăn mặt. “Đúng vậy.” Cái tên đó không tốn nhiều thời gian. “Tôi chưa bao giờ thấy tốt hơn”, anh dối lòng.

“Anh có bị bất kỳ ảnh hưởng lâu dài nào về mặt thể chất từ việc bị giam cầm trước đây không?”

“Một số vấn đề về dạ dày. Có lẽ ngang tầm với bệnh loét dạ dày của ngài Thị trưởng.” Có một số nụ cười tán thưởng len lỏi trong hàng ghế khán giả.

Anh chọn một cánh tay khác. “Anh nghĩ Luật sư Quận có nên yêu cầu án tử hình cho Gretchen Lowell không?”

Archie thở dài và bật chế độ trả lời tự động. “Trong thỏa thuận tự bào chữa có quy định rằng cô ta phải chịu trách nhiệm cho tất cả những người mà cô ta đã giết, không phải chỉ từ mười một nạn nhân mà chúng tôi có đủ bằng chứng để đưa cô ta ra tòa. Gia đình các nạn nhân cũng xứng đáng được biểu quyết.” Anh cố gắng tỏ ra thoải mái, và có kiểm soát. “Tại sao chúng ta không nói về vụ án hiện tại nhỉ? Kẻ giết người hàng loạt tại thời điểm này, thưa các quý anh chị nhà báo.”

Anh gọi Quentin Parker. “Anh có nghĩ rằng cô bé Kristy Mathers vẫn còn sống không?”

“Chúng tôi hy vọng cô bé vẫn còn sống, đúng thế.”

Một cánh tay khác. “Anh sẽ có bao nhiêu người trong đội đặc nhiệm lần này?”

“Toàn thời gian? Chín điều tra viên, cộng thêm một số nhân viên hỗ trợ. Bảy người trong số họ từng làm việc trong Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng. Ngoài ra, chúng tôi sẽ hợp tác chặt chẽ với các cơ quan khác và tuyển thêm các nhân sự khác khi cần thiết.”

Thị trưởng bước nhẹ nhàng tới bục phát biểu. Archie căng thẳng. Anh vẫn chưa nhận được câu hỏi mà mình muốn. Anh lướt nhìn khán giả một lần nữa. Nào. Một người hãy hỏi nó. Nó rất rõ ràng mà. Nó là điều ai cũng nghĩ đến. Tôi cần một người hỏi về nó. Mắt anh dừng lại ở Susan Ward. Cô đã lãng phí thời gian để bắt đầu câu chuyện. Tham vọng - đó là một dấu hiệu tốt. Archie để ý đến cô ngay lập tức từ đám đông đó. Có gì đó trong cách cô nhìn anh. Và mái tóc hồng. Henry đã đề cập vài thứ về cô. Archie đã nghĩ rằng Henry đang nói đùa. Susan cũng đang liếc nhìn các phóng viên khác. Cô nhìn anh. Anh nhướng mày. Cô ngập ngừng, rồi giơ tay lên.

Anh gọi cô.

“Anh sẽ bắt tên sát nhân này như thế nào?”

Anh hắng giọng, nhìn thẳng vào camera. “Chúng tôi sẽ đi khắp mọi khu phố. Chúng tôi sẽ phỏng vấn mọi nhân chứng. Chúng tôi sẽ tìm ra mọi kết nối với kẻ giết người mà những cô bé này có thể đã có. Chúng tôi sẽ sử dụng mọi phương pháp khoa học có sẵn để tìm ra manh mối về danh tính của kẻ sát nhân.” Anh nghiêng người về phía trước, hy vọng toát ra sự tự tin và uy quyền. “Bọn tao sẽ tóm được mày.” Anh lùi lại từ chiếc bục và đợi một nhịp. “Cảm ơn.”

Cuộc họp báo kết thúc và Ian dẫn Susan vào văn phòng đội đặc nhiệm. Các phóng viên vừa tham dự buổi họp báo đã vội vã viết bài và chỉnh sửa các video của họ. Susan hiểu ngay tại sao họ lại chọn tổ chức họp báo ở bên ngoài. Bên trong văn phòng là một cái chợ tàn. Những chiếc hộp chưa được đóng gói có ở khắp mọi nơi. Quầy giao dịch ngân hàng đã được gỡ bỏ và chỉ còn lại một không gian rộng với một vài văn phòng ở phía sau và Susan đoán là kho cất tiền cũ. Nội thất là của ngân hàng, những chiếc ghế dài màu hoa cà với những tay vịn bằng gỗ sồi, những chiếc bàn làm từ gỗ anh đào với phần cứng bằng đồng sáng bóng, thảm trải sàn bằng nhựa và những chiếc ghế xoay chuyên dụng cho dân văn phòng. Những bóng đèn huỳnh quang kêu ù ù trên đầu. Tấm thảm công nghiệp màu xám, với một lối mòn dẫn đến và dọc theo quầy giao dịch đã bị gỡ bỏ. Các bức tường được trang trí bởi những hình vẽ hoa hồng đã phai màu. Các thám tử và nhân viên hỗ trợ mở các thùng giấy, đóng các tấm bảng trắng lớn vào tường, lắp đặt những chiếc máy tính và biến văn phòng trở thành không gian của một đồn cảnh sát. Susan tự hỏi những người này đã mất bao lâu để sắp đặt hết những thứ này trong khi có thể sử dụng thời gian đó để tìm Kristy Mathers trước khi cô bé bị giết hại. Khuôn mặt họ nhăn nhúm; không có lấy một tiếng nói.

Thị trưởng hoàn thành buổi độc tấu của mình với một nhóm sĩ quan hậu cần và lúc đó Ian bước vào để giới thiệu Susan.

“Thưa ngài Thị trưởng, đây là cô Susan Ward, nhà viết báo sẽ thực hiện các bài viết về đội đặc nhiệm”, Ian nói. Susan nhận thấy Ian đã sử dụng từ “nhà viết báo” mà không phải từ “phóng viên đưa tin”.

Mắt Thị trưởng mở to khi nhìn thấy vẻ ngoài của Susan, nhưng ông ta mỉm cười và bắt tay cô thật chặt, đặt tay còn lại lên bàn tay phía trên của cô. Ông ta cao lớn, mái tóc được tỉa tót tỉ mỉ, bị bạc sớm và kiểu bàn tay luôn ấm áp. Móng tay của ông ta được đánh sáng bóng, ông ta mặc một bộ đồ comple màu xám cũng bóng loáng không kém. Susan nghĩ rằng ông ta trông giống như Robert Young trong Father Knows Best, một chương trình truyền hình mà cô ghê tởm chỉ vì cuộc sống của cô trông rẻ mạt khi bị so sánh. Cô đã đặt cược với chính mình rằng ông ta sẽ là thượng nghị sĩ trong vòng 5 năm. Nếu ông ta đủ giàu.

“Đây là một niềm vinh hạnh cho tôi”, ông ta nói, đôi mắt tràn ngập sự tích cực và hòa nhã của bậc cha mẹ. “Tôi đã nghe nhiều điều tuyệt vời về cô. Tôi mong muốn được đọc các bài viết sắp tới của cô.”

Susan cảm thấy một sự tự ý thức kỳ lạ như đang rửa sạch mình. Cô không thích điều này. “Cảm ơn, thưa ngài”, cô nói.

“Tôi muốn giới thiệu cô với thám tử Archie Sheridan”, ngài Thị trưởng nói. “Cô biết đấy, tôi đã từng công tác trong Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng với anh ta. Những năm trước. Trước đây, thậm chí tôi còn là đội trưởng. Thực ra tôi là người đầu tiên lãnh đạo đội đặc nhiệm này. Archie không có nhiều thâm niên như tôi. Đó là vụ án đầu tiên của anh ta. Tôi là một người khéo ứng xử trong đại cục, vì vậy họ đã giao cho tôi phụ trách. Tôi phụ trách ba năm. Rất cừ khôi. Không có người nào tôi thích làm việc chung hơn Archie Sheridan. Không có ai ngoài anh ta khiến tôi tin tưởng nhiều hơn với cuộc sống của con gái tôi.” Ông ta đợi một lát, và khi thấy Susan không mở cuốn sổ ra, ông ta nói thêm, “Cô có thể viết chúng vào.”

“Ngài không có con gái”, Susan nói.

Thị trưởng hắng giọng. “Tôi ẩn dụ thế thôi. Cô đã có cơ hội xem xét quanh đây chưa?” Ông ta dẫn cô đi sâu hơn vào phía trong ngân hàng, bàn tay đặt vững chãi ngay phía trên lưng cô. “Như cô có thể thấy, chúng tôi vẫn đang thiết lập các thiết bị văn phòng. Khi hoàn thành, chúng tôi sẽ có một đội làm việc: phòng thẩm vấn, phòng hội thảo, hệ thống máy tính hiện đại, vân vân và vân vân.” Họ đến một văn phòng có tấm kính lớn nhìn ra phòng chính. Những tấm rèm Venetian trắng đã được đóng lại. “Đây là văn phòng của quản lý ngân hàng cũ”, ngài Thị trưởng giải thích. “Tuy nhiên, có vẻ như người quản lý ngân hàng hiện tại không có ở đây.” Ông ta quay sang nhìn một người phụ nữ nhỏ nhắn có mái tóc đen với một huy hiệu kẹp ở thắt lưng quần jean, đi ngang qua. Cô ấy đang ăn một nửa chiếc bánh mì kẹp được bọc trong chiếc khăn giấy và đôi môi đang dính tương ớt. “Cảnh sát Masland phải không? Cô có biết thanh tra Sheridan ở đâu không?”

Cô bị gọi lại lúc đang cắn miếng bánh mì, và họ phải đợi cho đến khi cô nhai xong và nuốt xuống. “Trường học. Chỉ mới rời đi. Anh ta đến đó để thực hiện một số cuộc phỏng vấn và thiết lập trạm kiểm soát. Bây giờ tôi cũng chuẩn bị đến đó.”

Sự xúc động hiện lên trên khuôn mặt ngài Thị trưởng. “Thật tiếc cho cô”, ông ta nói với Susan. “Tôi đã nói với anh ấy rằng tôi muốn anh ấy gặp cô.”

“Tôi biết anh ấy rất bận rộn”, Susan nói. “Nhưng cuối cùng thì tôi sẽ phải gặp thôi. Làm sao tôi có thể viết về anh ấy mà không nói chuyện với anh ấy.”

“Hãy đến vào sáng mai lúc 9 giờ sáng. Tôi chắc chắn rằng anh ấy sẽ ở đây.”

Tôi cá là ông sẽ chắc chắn, Susan nghĩ.

Ian và Susan lái xe trở về tòa soạn trong im lặng. Khi họ tiến vào nhà để xe, Ian nuốt nước bọt. “Tôi có thể ghé nhà cô tối nay không?”

Susan kéo một lọn tóc hồng nhạt. “Vợ của anh đang ở đâu?”

Anh ta nhìn tay mình, vẫn nắm chặt vô lăng. “Đang ở thành phố Seattle.”

Susan ngập ngừng. “Hãy đến muộn”, cô nói. Cô cảm thấy tội lỗi, cắn môi và mở cửa xe. “Anh sẽ thấy dễ chịu hơn với việc ngoại tình này nếu chúng ta không dành quá nhiều thời gian cho nhau.”