← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

Henry, Archie và Susan lái xe đến trường trung học Cleveland trong một chiếc xe tuần tra không có thiết bị gắn của xe cảnh sát, Henry ngồi sau tay lái, Archie ngồi ở ghế khách và Susan viết những dòng chữ nguệch ngoạc phía sau. Họ đậu xe trên con đường phía trước ngôi trường ba tầng bằng gạch và ra khỏi xe. Henry vẫy tay với một vài cảnh sát ngồi trong một chiếc xe tuần tra trước trường. Một trong số họ vẫy lại.

Thời tiết ban ngày đã thay đổi. Sương mù buổi sáng ngột ngạt đã nhường chỗ cho bầu trời trong xanh và mặt trời nhỏ bé nhưng rực rỡ. Nhiệt độ tầm hai mươi lăm độ. Trong ánh nắng buổi sáng rực rỡ này, trường trung học Cleveland trông thật tuyệt vời và hoàn hảo. Trong khi trường trung học Jefferson giống như một học viện, thì trường Cleveland có kiểu kiến trúc sang trọng, được hoàn thiện với những cột trụ, những cánh cửa trước hình vòm và một sân cỏ phía trước. Nhưng nó vẫn khiến Susan nghĩ đến một nhà tù.

“Chúng ta đi lối này.”

Susan liếc lên. Archie và Henry bước xuống vỉa hè, Archie đang nhìn qua vai cô. Cô vẫn đứng đối diện với ngôi trường, lạc vào ký ức của chính mình.

“Xin lỗi”, cô nói. “Tôi đã từng học ở đây.”

Archie nhướng mày. “Cô đã học tại Cleveland?”

“Cách đây mười năm. Vâng.” Cô đã bắt kịp họ. “Tôi vẫn đang cố quên đi.”

“Đừng nói với tôi cô là một nữ hoàng dạ hội chứ?” Henry hỏi.

“Không hề.” Susan nói. Cô từng là một cô bé gây nhiều rắc rối, cuồng loạn suốt mười lăm phần trăm khoảng thời gian đó. Cô không biết những bậc cha mẹ đã làm thế nào. “Anh có con không?”

“Một đứa”, Henry nói. “Thằng bé lớn lên cùng mẹ nó. Ở Alaska.”

“Đó có phải nơi anh sinh ra?”

“Không phải”, anh nói. “Đó là nơi tôi kết thúc thì đúng hơn.”

Archie cười toe toét. “Đó là những năm bảy mươi. Vào cái thời mà cậu ta có một chiếc xe cắm trại. Và nhiều tóc.”

Susan cười và viết nguệch ngoạc một câu trong cuốn sổ tay. Khuôn mặt vui vẻ của Henry trở nên nghiêm túc. “Không phải chứ”, anh nói, nhìn vào giữa Susan và Archie. “Cuộc sống của tôi không nằm trong bài phóng sự của cô. Chấm hết.”

Susan gấp cuốn sổ lại.

“Henry không muốn bị phỏng vấn.” Archie nói.

“Tôi hiểu rồi”, Susan nói.

Họ tiếp tục bước đi, rẽ vào một góc đường rồi đi dọc theo sườn của ngôi trường. Susan có thể nhìn thấy, các cửa sổ lớn được thay thế bằng kính kể từ khi cô còn là học sinh, nơi mà những đứa trẻ ngồi nhìn chằm chằm, với nhiều trạng thái khác nhau, ở phía trước căn phòng. Chúa ơi, cô đã từng rất chán ghét trường trung học. “Cô bé Lee Robinson cũng ghét ngôi trường này, đúng không?”

“Tại sao cô lại nói thế?” Archie hỏi khi đang ngước nhìn ngôi trường.

“Tôi đã thấy ảnh của cô bé. Tôi nhớ cảm giác của việc trở thành một cô gái như vậy là thế nào.”

“Đó chính là cánh cửa”, Henry chỉ về phía những cánh cửa bằng kim loại ở bên hông tòa nhà. “Buổi diễn tập của ban nhạc diễn ra ở tầng một. Cô bé đã bước ra từ đó.”

Archie đứng chống tay lên hông, nhìn ra cửa. Susan có thể đoán chắc rằng có một khẩu súng trong bao da kẹp vào thắt lưng của anh. Anh nhìn chằm chằm vào trường và quay chầm chậm trên gót chân, quan sát hết tất cả mọi chi tiết. Rồi anh gật đầu. “Được.”

Henry dẫn họ xuống vỉa hè. “Cô bé đã đi theo con đường này.” Susan đi theo Archie, người đang theo gót Henry. Họ bước đi trong im lặng. Susan bước vòng qua một vũng nước lấp lánh trong ánh nắng. Đã vài tuần kể từ khi mặt trời vắng mặt. Dưới lớp mây che phủ bầu trời, thế giới trông thật chật chội, chiếu sáng rực rỡ. Không có những đám mây, mọi màu sắc đều trở nên lấp lánh. Các tán cây lá kim đậm hơn, xanh hơn; những chồi lá tươi sáng trên những cây mận xanh tươi, hứa hẹn một mùa xuân và những nhành hoa hồng, những lễ hội dọc bờ sông. Ngay cả trên vỉa hè xám xịt, oằn mình ở dưới những rễ cây xù xì được trồng cả trăm năm trước, trông cũng có vẻ sinh động hơn.

Susan bước vòng quanh một vũng nước khác và nheo mắt nhìn bầu trời. Mặt trời vào tháng Ba ở thành phố Portland bang Oregon, gần như không ai chú ý. Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ ảm đạm, u ám. Và lấp đầy bởi những cơn mưa.

Khi họ đến giữa đường đi xuống tòa nhà thứ năm, Henry dừng lại.

“Chính là nó”, anh nói. “Đây là nơi mà những chú chó bị mất dấu khi đang đánh hơi.”

“Vậy thì, cô bé đã lên xe ô tô?”

“Có lẽ”, Henry nói. “Hoặc xe đạp. Hoặc lên một chiếc xe máy. Hoặc cô bé lên một chiếc xe buýt. Cũng có thể cơn mưa cuốn trôi mùi của cô bé. Cũng có thể những chú chó không đánh hơi vào ngày hôm đó.”

Một lần nữa, Archie quay chầm chậm nhìn xung quanh. Sau vài phút, anh quay sang Henry. “Anh nghĩ sao?”

“Tôi nghĩ rằng lúc đó hắn ta đang đi bộ.” Henry chỉ tay vào một hàng rào nguyệt quế dày bọc xung quanh một ngôi nhà ngay phía sau, nơi mà những con chó đã đánh mất mùi của cô bé Lee Robinson. “Tôi nghĩ rằng hắn rình cô bé từ đằng sau hàng rào đó.”

“Như vậy rất mạo hiểm”, Archie nghi ngờ nói. Anh bước tới phía sau hàng rào. “Chuyện này còn phụ thuộc vào độ dày của tán lá?”

“Nó hoàn toàn xanh rì.”

Archie suy xét. “Ý anh là hắn đợi cô bé từ đằng sau hàng rào”, anh nói, đưa tay lần dọc theo những tán lá dày của bụi cây. Hắn xuất hiẹn. Rồi sao? Mời gọi cô bé vào một chiếc xe gần đó?”

“Một người đàn ông đột ngột nhảy ra từ phía sau bụi cây và cô bé leo lên xe của hắn? Không thể nào, kể cả khi tôi chỉ là một nữ sinh”, Susan nói.

“Không”, Henry nói. “Hắn không nhảy ra.”

Archie gật đầu và suy nghĩ. “Hắn thấy cô bé. Hắn đi ra từ phía bên kia hàng rào. Ở đây.” Anh đi dọc theo hàng rào hướng đến đầu còn lại, gần đến góc hàng rào. “Sau đó, hắn làm như thể vừa rẽ vào góc”, anh tái hiện lại cảnh đó. “Kiểu tình cờ gặp cô bé.”

“Hắn quen biết cô bé”, Henry nói.

“Hắn biết cô bé”, Archie đồng ý. Họ im lặng một lúc. “Hoặc là”, Archie nhún vai, “có thể hắn bật ra và cầm dao dọa đâm vào cổ cô bé, rồi buộc cô bé phải vào sau xe.”

“Cũng có thể là như vậy”, Henry nói.

“Anh có nghĩ chúng ta nên tìm thử xem có dấu vết nào trên lá không?”

“Trời mưa suốt bốn ngày qua, đã quá muộn.”

Archie xoay lại nhìn Susan. “Cô có từng đi bộ từ trường về nhà không?”

‘Chỉ hai năm đầu tiên. Cho đến khi tôi có một chiếc xe hơi.”

“Để xem”, Archie trầm ngâm, nhìn vào hàng rào. “Đó là khoảng thời gian cô đi bộ, đúng không? Hai năm đầu tiên.” Anh lắc đầu. “Cô có thích Cleveland không?”

“Tôi đã nói với anh, tôi ghét Cleveland”, Susan nói.

“Không. Cô chỉ nói cô ghét trường trung học. Cô ghét trường trung học ở bất cứ nơi đâu, hoặc có điều gì đó đặc biệt về Cleveland?”

Susan rên rỉ. “Tôi không biết. Có một số điều tôi thích. Tôi đã ở trong câu lạc bộ kịch. Và, nếu anh muốn biết, tôi cũng đã từng ở trong đội tham gia cuộc thi Kiến thức. Nhưng chỉ kéo dài hết năm nhất, trước khi tôi trở thành kẻ lập dị.”

“Giáo viên dạy kịch vẫn còn dạy ở đây”, Henry nói. “Reston.”

“Vâng”, Susan nói. “Tôi biết ông ấy.”

“Cô có bao giờ ghé ngang qua?” Henry hỏi. “Để chào nhau một câu?”

“Ghé thăm những giáo viên cũ của tôi ư?” Susan hoài nghi. “Tôi có cuộc sống của mình, cảm ơn.” Sau đó, một ý nghĩ khủng khiếp xuất hiện trong đầu cô. “Ông ấy không thuộc diện tình nghi chứ?”

Henry lắc đầu. “Không phải, trừ khi ông ta có chín cô cậu học sinh nói dối giúp mình. Ông ta đang tổng duyệt cho vở kịch ở trường, vào buổi tối cô bé bị bắt. Vì vậy, cô không cần phải lo. Vậy còn giáo viên Vật lý, Dan McCallum? Cô đã từng học giáo viên này chưa?”

Susan mở miệng trả lời nhưng bị gián đoạn bởi tiếng chuông điện thoại của Archie. Anh rút điện thoại ra khỏi túi áo khoác, mở ra, quay lại và bước đi vài bước. “Tôi nghe đây”, anh nói. Anh lắng nghe một phút. Henry và Susan nhìn anh chăm chú. Susan cảm thấy không thể rời mắt khỏi anh. Cô không chắc nếu đó là do ngôn ngữ cơ thể của Archie hay là sự tích điện trong không khí, hoặc có thể chỉ là tâm trí cô muốn như vậy, nhưng cô biết chắc chắn rằng có gì đó đã thay đổi. Archie gật đầu vài lần. “Được. Chúng tôi sẽ tiếp tục lên đường.” Anh ngắt điện thoại, cẩn thận đặt nó vào túi và từ từ quay về phía họ.

“Họ đã tìm thấy cô bé?” Henry hỏi với khuôn mặt đăm chiêu.

Archie gật đầu.

“Ở đâu?”

“Đảo Sauvie.”

Henry đảo mắt về phía Susan. “Anh có muốn chở cô ấy trở lại ngân hàng?”

Susan nhìn chằm chằm vào Archie, mong muốn anh để cô đi cùng. Cô ấy có thể đi cùng. Cô ấy có thể đi cùng. Cô ấy có thể đi cùng. Cô khao khát đôi môi anh bật ra những lời đó. Hiện trường vụ án đầu tiên của cô. Là người đầu tiên. Điều này sẽ là một dẫn dắt tuyệt vời cho câu chuyện đầu tiên. Nhìn thấy nạn nhân của một vụ giết người, cảm giác sẽ thế nào? Mùi hôi thối của một thi thể. Đội điều tra khám nghiệm hiện trường. Những dãy băng keo màu vàng khoanh vùng hiện trường. Cô mỉm cười, lại cảm thấy tiếng ngân nga quen thuộc trong bụng. Sau đó cô nhận ra mình đang cười và nhanh chóng xóa niềm vui đó khỏi khuôn mặt mình. Nhưng Archie đã nhìn thấy nó.

Cô nhìn anh, đôi mắt van nài, nhưng khuôn mặt anh không biểu hiện gì.

Anh bắt đầu đi về phía xe. Chết tiệt. Cô đã phá hoại nó. Ngày đầu tiên của cô với anh và anh lại nghĩ cô là một người tham lam.

“Cô có thể đi cùng”, anh vẫn bước đi và nói. Anh quay lại và liếc nhìn về phía Susan. “Tuy nhiên, đừng mong đợi rằng cô bé vẫn còn giống như trong ảnh.”