CHƯƠNG 16
“Các anh biết đấy, thực sự có hàng tấn xác chết trên đảo Sauvie”, Susan nói từ hàng ghế sau. Nhiều gã đồng tính nam thường khỏa thân đến bãi biển, đã chết vì AIDS và tro cốt của họ nằm rải rác ở đó. Các bãi biển ở phía trên? Trên đường lằn mà thủy triều để lại? Tất cả chỉ còn lại xương và tro cốt.” Cô nhăn mặt vẻ ghê tởm. “Những người tắm nắng bôi dầu lên người và nằm xuống, kết cục da họ đã dính những mảnh vụn của xác chết.” Cô ngừng lại. “Tôi đã viết một câu chuyện về việc này. Có lẽ anh đã từng đọc nó?”
Không ai trả lời. Cô nhận ra Henry đã không còn để ý đến cô từ khoảng mười dặm trước. Archie thì nghe điện thoại.
Cô khoanh tay và cố gắng không nói gì thêm. Đối với một người viết báo thì bị bỏ lơ là chuyện bình thường. Những sự thật vô dụng. Và đúng là cô đã thực hiện rất nhiều câu chuyện về đảo Sauvie: nông dân trồng các thực phẩm sạch, mê cung cánh đồng ngô, bãi biển khỏa thân, câu lạc bộ xe đạp, tổ chim đại bàng, cánh đồng u-pick. Độc giả của tờ Người đưa tin yêu tất cả những tin tào lao đó. Do đó, Susan biết nhiều về hòn đảo hơn hầu hết những người sống trên đó. Hòn đảo rộng khoảng 9.600 héc-ta. Người ta còn gọi đây là một hòn đảo nông nghiệp nằm cạnh Columbia, con kênh Multnomah bị ô nhiễm và cách trung tâm Portland khoảng hai mươi phút lái xe. Để bảo tồn hòn đảo hoang dã tự nhiên, chính quyền đã dành 4.800 héc-ta làm Khu động vật hoang dã. Chính ở đó, cách xa các trang trại khiến hòn đảo trông như một lát cắt của bang Iowa, đó là nơi thi thể cô bé được tìm thấy. Susan chưa bao giờ thích nơi này. Nó có quá nhiều không gian trống trải.
Con đường chuyển sang đường sỏi. “Tôi nghe đây”, Archie nói vào điện thoại. “Khi nào?… Ở đâu?… Vâng.” Nghe không có gì giật gân để ghi chú. “Không… chúng tôi vẫn chưa biết… Tôi sẽ tìm hiểu.” Những viên sỏi khiến chiếc xe đi chậm và phun bụi bẩn khắp xe, những mảnh đá nhỏ thỉnh thoảng bắn mạnh vào kính chắn gió và bật ngược ra. Archie vẫn còn nghe điện thoại. “Cô đến chưa? Khoảng năm phút nữa.” Mỗi lần anh tắt điện thoại, nó lại reo lên. Susan để ánh mắt mình rơi xuống lề đường, một bức tường dày được tạo thành từ những bụi cây dâu đen, đằng sau là những cây sồi loại thường mọc ven sông. Nhanh như một cái chớp mắt. Cuối cùng, Susan có thể thấy một nhóm xe cảnh sát, một chiếc bán tải cũ và một chiếc xe cứu thương đậu dọc bên đường phía trước. Một chiếc xe của Sở cảnh sát đang chặn đường và một cảnh sát trẻ tuổi đang dừng các xe qua lại. Susan cúi đầu nhìn thêm, cuốn sổ mở trên đùi. Henry dừng lại và đưa phù hiệu về phía viên cảnh sát kia. Viên cảnh sát gật đầu và vẫy họ qua.
Henry để xe đậu bên cạnh một chiếc xe tuần tra của cảnh sát, chỉ với một chuyển động nhẹ, anh và Archie đã ra khỏi xe, để Susan chạy theo sau họ, cô ước rằng mình đã đi đôi giày phù hợp hơn. Cô thò tay vào ví và lôi ra một thỏi son. Không có gì kịch tính. Chỉ cần một chút màu sắc tự nhiên. Cô thoa một ít lên môi khi bước đi và ngay lập tức cảm thấy mình như một kẻ ngốc. Ngoài xe tuần tra của cảnh sát, một người đàn ông trẻ râu ria mặc áo choàng bằng vải bông đang đứng với một cảnh sát tuần tra. Anh ta đi chân trần. Susan mỉm cười. Nhìn anh khiến trong đầu cô lóe lên một dấu hiệu của cộng đồng giới tính thứ ba.
Con đường đến bãi biển đã bị giẫm đạp theo thời gian, xuyên qua một khoảng trống tự nhiên trong bụi cây mâm xôi và con đường cắt chéo qua đám cỏ chết cao cao dẫn xuống bãi cát bên dưới. Cát lỏng và Archie phải cẩn thận với từng bước chân. Tất cả là xương và tro. Phía trước là dòng sông Columbia, nước lặng và tối màu, phía bên kia là bang Washington. Anh có thể thấy một nhóm cảnh sát tuần tra của bang đứng dưới bãi biển khoảng bốn mét, trên vùng đất ướt.
Claire Masland đang đợi họ trên bãi biển. Cô mặc quần jean và áo phông màu đỏ, cô cởi chiếc áo khoác North Face loại không thấm nước ra và buộc nó quanh eo. Archie chưa bao giờ hỏi cô, nhưng anh tưởng tượng rằng có thể cô đang đi leo núi và cắm trại. Thậm chí có thể là trượt tuyết. Chết tiệt, cô ấy có lẽ đã đi trượt tuyết cũng nên. Huy hiệu của cô kẹp vào thắt lưng. Vết loang mồ hôi hiện lên dưới nách. Cô sải từng bước cùng nhịp với họ khi họ tiếp tục về phía thi thể.
“Một người theo phong trào khỏa thân tìm thấy nạn nhân vào khoảng 10 giờ”, cô nói. “Anh ta phải quay lại xe và về nhà, rồi mới có thể gọi cho chúng tôi, vì vậy chúng tôi nhận tin lúc 10 giờ 28 phút.”
“Cô bé trông giống những người khác?”
“Giống hệt.”
Tâm trí Archie như đang chạy đua. Việc này thật vô lý. Việc tăng tốc quá nhanh này. Hắn thường thích giam cầm những nạn nhân. Tại sao hắn lại không muốn giữ cô bé lâu hơn? Có phải hắn nghĩ cần phải chôn cô bé ngay? “Hắn hoảng sợ”, Archie kết luận. “Chúng ta đã làm hắn sợ.”
“Vậy là hắn đã xem tin tức buổi tối”, Henry nói.
Họ đã kích động hắn. Họ kích động khiến hắn nhanh chóng thủ tiêu nạn nhân. Bây giờ thì sao? Hắn sẽ bắt một cô bé khác. Hắn phải bắt một cô bé khác. Archie cảm thấy như có axit trào lên cổ họng. Anh thò tay vào túi, lấy ra một viên thuốc kháng axit và bực bội nhai nó. Họ đã hối thúc hắn. Và bây giờ hắn phải giết một cô bé khác.
“Có ai ở đây?” Archie hỏi.
“Có Greg. Josh. Martin. Anne đang đến, sau anh 10 phút.”
“Tốt”, Archie nói. “Tôi muốn nói chuyện với cô ấy.”
Anh ngừng lại và cả đoàn ngừng theo anh. Họ cách hiện trường tầm mười hai mét. Anh lắng nghe.
“Có chuyện gì vậy?” Claire hỏi.
“Trực thăng của bọn nhà báo”, Archie ngước lên nhìn, mặt anh nhăn nhó, khi hai chiếc trực thăng thổi qua hàng cây. “Tốt hơn là nên dựng lều lên.” Claire gật đầu và vội vã trở lại con đường. Archie quay sang Susan. Cô đang viết vào cuốn sổ tay, lật các trang giấy liên tục trong khi lấp đầy chúng bằng những quan sát khó hiểu. Archie có thể cảm nhận được sự phấn khích của cô và anh nhớ cảm giác khi anh và Henry trả lời vụ án Mỹ nhân đoạt mạng đầu tiên. Bây giờ thì không còn như thế nữa.
“Susan”, anh nói. Cô đang chăm chú ghi chép cho xong một điều gì đó trong cuốn sổ tay và cô đưa ngón tay lên ra hiệu rằng cô sẽ đến ngay bên anh trong một giây tới.
“Hãy nhìn tôi”, Archie nói. Cô ngước lên, đôi mắt xanh lục to tròn. Đột nhiên, anh cảm thấy mình cần bảo vệ cô gái có mái tóc màu hồng kỳ lạ này, người giả vờ cứng rắn hơn anh nghĩ, đồng thời, tính tự phụ của cô cũng thật dễ thương. Anh giữ ánh mắt nhìn cô một lúc, cho đến khi cô tập trung vào anh. “Bất cứ điều gì cô nghĩ rằng cô sẽ thấy ở phía đằng kia”, anh nói, và ra hiệu về phía cô bé Kristy Mathers đang nằm trong bùn, “Sẽ tồi tệ hơn cô nghĩ.”
Susan gật đầu. “Tôi biết.”
“Cô đã bao giờ đến gần một thi thể?” Archie hỏi.
Cô gật đầu thêm một cái. “Cha tôi. Ông ấy đã chết khi tôi còn là một học sinh. Bị ung thư.”
“Nó sẽ khác hơn như thế”, Archie nói nhẹ nhàng.
“Tôi có thể chịu được.” Cô ngẩng đầu lên và hít hà không khí. “Anh có ngửi thấy không?” Cô hỏi, “Mùi thuốc tẩy Clorox?”
Archie và Henry nhìn nhau. Sau đó Henry rút hai đôi găng tay cao su ra khỏi túi áo khoác và đưa một đôi cho Archie. Archie một lần nữa nhìn ra mặt biển êm đềm lấp lánh dưới ánh mặt trời cuối buổi sáng, hít một hơi thật sâu và thở ra.
“Đừng thở bằng mũi”, anh nói với Susan. “Và đừng cản đường tôi.”
Ngồi xổm bên cạnh cơ thể của Kristy, Archie cảm thấy hoàn toàn tỉnh táo. Đầu anh minh mẫn. Bụng anh thư thái. Anh đã có sự tập trung. Anh nhận ra rằng mình thực sự đã đi được vài phút mà không nghĩ về Gretchen Lowell. Anh đã bỏ lỡ điều này.
Cô bé bị hại chết, sau đó bị ngâm vào thuốc tẩy, giống như những nạn nhân khác. Cô bé nằm cách mép nước 1,5 mét, nằm ngửa, đầu nghiêng sang một bên, một cánh tay sưng phù mắc kẹt sau lưng, da và tóc phủ đầy cát, như thể cô bé đã bị sóng cuốn vài mét. Cánh tay còn lại bị uốn cong một cách tinh vi ở khuỷu tay, bàn tay bị bẻ cong nằm ngay dưới cằm, móng tay vẫn còn lấp lánh vì sơn bóng. Cánh tay đó khiến cô bé trông gần giống một con người. Archie tiếp tục thu thập từng chi tiết, làm việc theo cách của anh. Một chân của cô bé hơi cong, chân kia thẳng, vướng vào đám cỏ dại. Anh chú ý máu ở mũi và miệng của nạn nhân, lưỡi sưng lên bất thường, và một dấu lằn ngang thấp trên cổ, cho thấy vật được sử dụng để siết cổ, họ nghĩ đó là một chiếc thắt lưng. Mặt dưới cổ và vai của cô bé có vết màu đỏ tía của xác sống, nơi máu đọng lại sau khi nạn nhân chết. Một màu đỏ xanh bắt đầu xuất hiện quanh bụng cô bé; miệng, mũi, âm đạo và tai của cô bé có màu đen. Chất tẩy đã làm chậm quá trình phân hủy bằng cách tiêu diệt một số vi khuẩn, những vi khuẩn này thường gây ra sự xáo trộn và vỡ các mô mềm, vì vậy anh vẫn có thể nhìn thấy thứ gì đó để nhận diện đây chính là thi thể cô bé Kristy. Một cái gì đó có thể nhận ra từ má và nét mặt cô bé lúc nhìn nghiêng. Nhưng thuốc tẩy vẫn không ngăn được lũ bọ. Những con côn trùng nhỏ xíu chui vào miệng và mắt rồi tràn qua bộ phận sinh dục. Lũ cua tranh giành mái tóc của cô bé. Một mẫu nhìn như thạch sẫm màu là tất cả những gì còn lại trong hốc mắt, da trên trán và má của cô bé bị rách từ nơi một con chim đang đứng móc móng vuốt của nó vào lớp da để làm đòn bẩy bay đi. Archie nhìn lên, thấy một con mòng biển đứng cách thi thể vài bước chân. Nó bắt gặp ánh mắt của Archie và bước vài bước thiếu kiên nhẫn trước khi vỗ cánh quay trở lại một nơi an toàn hơn.
Henry hắng giọng. “Hắn vứt cô bé trên bãi biển”, anh đưa ra giả thuyết, “không phải ở dưới nước.”
Archie gật đầu.
“Làm sao anh biết?” Susan hỏi.
Archie ngước nhìn Susan. Khuôn mặt cô tái nhợt, toàn son môi và tàn nhang, nhưng trông cô vẫn ổn hơn anh khi lần đầu tiên thấy xác chết. “Nếu vậy cô bé vẫn ở ngoài biển”, anh nói.
“Xác chết thì chìm”, Henry giải thích. “Chúng nổi lên ba ngày đến một tuần vì các chất khí sinh ra trong cơ thể. Mới chỉ hai ngày kể từ khi cô bé mất tích.”
Archie nhìn lên rồi nhìn xuống bãi biển. Những chiếc trực thăng lượn vòng trên đầu. Anh nghĩ rằng mình thấy được ánh đèn flash của ống kính chụp ảnh từ xa. “Hắn chắc chắn đã vứt cô bé ra đây vào đêm qua, khi trời vẫn còn mưa. Đủ sớm để mưa và thủy triều cuốn trôi mọi dấu vết hắn để lại khi đi bộ.”
“Hắn muốn chúng ta tìm ra cô bé”, Henry nói.
“Tại sao cô bé lại bị như vậy?” Susan hỏi, giọng nói lần đầu tiên vang lên.
Archie nhìn xuống thi thể, mái tóc nâu giờ đã chuyển thành màu cam nhạt, làn da cháy bỏng rát. Tất cả giống hệt với những bức ảnh của hai nạn nhân trước là Lee Robinson và Dana Stamp. “Hắn tẩy những cô bé”, anh nói khẽ. “Hắn giết bọn trẻ. Cưỡng bức. Và hắn ta để nạn nhân trong bồn thuốc tẩy cho đến khi quyết định vứt những cái xác đi.” Anh có thể cảm thấy vị của nó trong miệng; mắt anh cảm thấy bỏng rát do mùi chất tẩy trộn với sự hòa tan của thịt và cơ bắp.
Anh thấy Susan dao động, chỉ là một sự điều chỉnh nhỏ trong tư thế đứng của cô, anh giữ lấy cô. “Anh chưa từng tiết lộ những thông tin này.”
Archie nở nụ cười mệt mỏi. “Tôi vừa tiết lộ với cô đấy thôi.”
“Vậy thì hắn đã giết họ ngay lập tức.” Cô tự nói với chính mình. “Một khi chúng ta biết bất cứ ai mất tích, điều đó có nghĩa họ đã chết.”
“Đúng vậy.”
Đôi mắt cô nheo lại. “Anh để mọi người tiếp tục hy vọng. Dù cho anh biết cô bé đã chết.” Cô cắn môi và viết gì đó vào cuốn sổ. “Thật là một thằng khốn bệnh hoạn”, cô nói khi thở dồn ra.
Archie không chắc chắn liệu cô đang đề cập đến kẻ giết người, hay nói về anh. Nó không thực sự quan trọng. “Tôi nghĩ rằng, đó là một đánh giá công bằng”, anh nói.
“Nếu hắn vứt cô bé ở đây”, Henry nói với Archie, “hắn chắc chắn đã đỗ xe ở nơi chúng ta đã đỗ. Đã đi cùng một con đường. Hắn không thể mang cô bé từ bất kỳ điểm nào khác. Trừ khi hắn đến từ một chiếc thuyền.”
“Đến từng nhà ở đây. Hỏi xem có ai lái xe qua, hay để ý một chiếc xe nào đó. Hoặc là có một chiếc thuyền. Đồng thời kêu đội Hardy Boys tìm kiếm tỉ mỉ tại khu vực có bao cao su. Hắn có thể không kiềm chế được.”
“Anh muốn họ tìm kiếm bao cao su trên một bãi biển khỏa thân ư?” Henry hỏi với vẻ hoài nghi. “Thay vì tìm kiếm ở đó, họ có thể dễ dàng tìm thấy vài cái bao cao su ở các ký túc xá đại học.”
Archie mỉm cười. “Hãy gửi bất cứ thứ gì anh tìm thấy đến phòng thí nghiệm. Sau đó kiểm tra DNA bằng hệ thống kiểm định DNA. Biết đâu chúng ta sẽ gặp may mắn.” Archie nhét một viên giảm đau Vicodin khác vào miệng.
“Lại một viên thuốc dạ dày?” Henry hỏi.
Archie nhìn đi chỗ khác. “Là thuốc giảm đau Aspirin.”