← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 18

Việc đầu tiên mà Susan làm sau khi trở về nhà từ đảo Sauvie là mở khóa đôi bốt cao gót bằng da, màu đen, cô đá văng đôi giày ra khỏi chân và ném chúng lên trên một đống giày khác bị bỏ rơi gần cửa. Đôi bốt đã bạc màu và có mùi hôi vì thuốc tẩy, đôi bốt đã quá tã rồi.

Susan sống ở nơi cô thích gọi là gác xép nhưng thực chất đó là một căn hộ lớn ở quận Pearl, nằm ngay phía bắc của khu phố trung tâm ở phía tây Portland. Tòa nhà, từng là một nhà máy bia từ đầu thế kỷ 20, được xây dựng lại vài năm trước. Mặt tiền vẫn y nguyên, trông nặng nề và toàn là gạch thẻ, cùng với ống khói cũ, nhưng phần còn lại của tòa nhà đã được xây dựng lại để trở thành căn hộ sinh sống với những tiện nghi hiện đại nhất. Gác xép của Susan ở trên tầng ba. Về mặt pháp lý, căn hộ này thuộc về một vị giáo sư trước đây từng là thầy của cô, ông đang trong một kỳ nghỉ dài hàng năm ở châu Âu cùng vợ mình và đang viết một cuốn sách khác. Ông vốn sống ở thành phố Eugene, nơi mà ông là người đứng đầu rất có tiếng tăm của Chương trình Văn chương Sáng tạo dành cho các sinh viên chuyên ngành văn học của trường đại học Oregon, nhưng có vẻ như ông vẫn giữ căn hộ này để làm nơi sáng tác, mặc dù nơi này hiếm khi được sử dụng cho các hoạt động văn học. Susan đã muốn căn hộ là của cô từ cuối tuần đầu tiên mà cô sống tại đó. Nhà bếp có không gian mở với các thiết bị mới nhất, tủ lạnh bằng thép không gỉ có vỏ lấp lánh rất ấn tượng. Đó là tất cả những gì mà ngôi nhà nơi cô lớn lên không hề có. Chắc chắn là như vậy, mặt bếp làm từ đá Corian, chứ không phải đá granit, và các khoang tủ bếp là các thiết bị phiên bản sao chép thương hiệu Frigidaire của hãng Viking, nhưng nhìn từ xa, nơi này trông vẫn sang trọng và rất thành thị. Cô yêu chiếc bàn màu xanh, nơi cô thường gọi là Chiếc bàn của Đại văn hào. Cô yêu thích chiếc tủ sách âm tường tích hợp, chiếm toàn bộ một bức tường và được chất đầy những cuốn sách của Đại văn hào, sâu hai lớp. Cô yêu những bức ảnh được đóng khung của Đại văn hào chụp cùng với các đại văn hào khác. Chiếc giường của cô được ngăn cách bởi một bức bình phong Nhật Bản, phần còn lại của không gian là khu vực sinh hoạt, bao gồm sofa nhung màu xanh, ghế bành đơn bằng da màu đỏ, bàn cà phê và một cái tivi nhỏ. Tất cả mọi thứ của cô trong căn hộ đó thực sự có thể nằm gọn trong hai chiếc va li.

Cô kéo áo sơ mi qua đầu, cởi quần đen, vớ, quần lót, áo ngực. Cô vẫn có thể ngửi thấy mùi thuốc tẩy. Nó bám và ngấm vào tất cả mọi thứ. Chúa ơi, cô yêu những đôi giày kia. Cô đứng đó một lúc, trần truồng, run rẩy, quần áo chất đống dưới chân, rồi cô quấn mình trong chiếc ki-mô-nô treo trên cái móc bằng đồng ở cửa phòng tắm, gom quần áo cùng đôi ủng đẹp, đắt tiền, cô bước chân trần ra hành lang, bấm thang máy đi xuống cánh cửa hình chữ nhật nhỏ treo tấm biển Rác thải; cô mở cửa ra và ném tất cả đồ mình đã gom xuống máng trượt. Cô không đứng đợi như cô thường làm để lắng nghe tiếng rơi của đống đồ bị vứt; cô đi thẳng về căn hộ của mình, vào phòng tắm, bật bồn tắm, để ki-mô-nô rơi ở góc cạnh cửa. Nước mới cao vài xen-ti-mét, nhưng Susan đã trèo vào bồn tắm, ngồi xổm trong làn nước nóng và nhìn đôi chân mình đỏ ửng. Cô chậm rãi ngồi xuống, nhăn mặt một chút, rồi lùi dần về phía sau, duỗi đôi chân gầy ra trước mặt. Cơ thể trần trụi của cô chỉ khiến cô nghĩ về bọn trẻ. Liệu hắn có tẩy bọn trẻ trong một cái bồn như thế này không? Dòng nước bây giờ mới chỉ tới hông và cô dựa lưng vào mặt bồn sứ lạnh buốt, buộc cô phải ấn lưng vào thành bồn cho đến khi mặt bồn ấm lên bằng nhiệt độ của cơ thể cô. Hai cánh tay nổi da gà, và cho dù cô có làm gì đi nữa, cô dường như không thể ngừng run rẩy. Cô tắt vòi nước bằng ngón chân, nhắm mắt lại và cố gắng không nghĩ đến cái vết nhợt nhạt, bầm tím mà cô nhìn thấy trên cơ thể cô bé Kristy Mathers.

Archie ngồi ở đó, cạnh chiếc bàn mới, lắng nghe băng ghi âm của cuộc phỏng vấn giữa anh và Fred Doud. Kristy Mathers đã chết. Và bây giờ, mọi thứ sẽ bắt đầu lại từ đầu. Kẻ sát nhân sẽ bắt một cô gái khác. Đó chỉ là vấn đề thời gian. Và đó luôn là vấn đề của thời gian.

Văn phòng sáng đèn, nhưng Archie đã tắt các bóng đèn huỳnh quang trong văn phòng và bây giờ anh gần như ngồi trong bóng tối, thứ ánh sáng duy nhất phát ra là từ cánh cửa đang mở của căn phòng. Cuối cùng, anh phải nhờ Henry lái xe đưa Susan Ward trở lại chỗ đậu xe của cô, còn anh và Claire Masland đã theo xe của các nhân viên giám định y tế đến nhà xác, nơi họ gặp cha của cô bé Kristy, và ông ta xác định đó chính là cô bé. Archie đã trở nên rất quen thuộc với việc gặp gia đình của nạn nhân. Thỉnh thoảng, anh không cần nói lời nào. Họ chỉ nhìn anh và tự hiểu. Những lần khác, anh phải nói đi nói lại nhiều lần, và vẫn vậy, họ chớp mắt nhìn anh sững sờ, đầu lắc lư trong hoài nghi, đôi mắt bừng lên sự cố chấp. Và sau đó, giống như một con sóng, họ sụp đổ và để sự thật tràn vào. Phải mất rất nhiều nỗ lực để tự nhắc nhở rằng anh không phải là nguyên nhân của những nỗi thống khổ đó.

Nhưng Archie không ngại ở xung quanh những nỗi đau. Ngay cả những tên khốn đồi bại nhất dường như cũng trở nên ủy mị khi họ phải đối mặt với sự mất mát đau thương, đó chính là khi họ mất đi một người thân yêu. Họ vượt qua những điều đang diễn ra trong cuộc sống này khác với những người khác. Khi họ nhìn bạn, bạn có cảm giác rằng họ đang thực sự nhìn bạn. Với họ, toàn bộ vũ trụ chỉ quay quanh một việc, một sự kiện, một sự mất mát. Trong một vài tuần, họ dường như vẫn còn nghĩ đến điều đó. Sau đó, cuộc sống của họ sẽ bắt đầu trở lại một cách vô nghĩa.

Anh ngước nhìn lên. Anne Boyd đang đứng ở cửa, nhìn anh theo cách cô thường nhìn, giống như cái nhìn của bậc cha mẹ chờ đợi lời thú tội từ con mình.

Anh dụi mắt, mỉm cười mệt mỏi và vẫy cô vào. Anne là một người phụ nữ thông minh. Anh tự hỏi liệu sự rèn luyện về tâm lý có cho phép cô nhìn thấu rằng anh đang giả vờ tỉnh táo không. “Xin lỗi. Tôi chỉ tưởng tượng linh tinh.” Anh tắt máy ghi âm. “Cô có thể bật đèn lên”, anh nói thêm.

Cô đã làm vậy, và căn phòng đột ngột tràn ngập ánh sáng trắng, khiến cơn đau thắt ở đầu Archie xuất hiện rồi nhanh chóng trở nên tê buốt hơn. Anh cứng người, và duỗi cổ cho đến khi nghe thấy một tiếng “rắc” thỏa mãn.

Anne buông người xuống chiếc ghế đối diện, cô ngồi khoanh chân và quăng tập tài liệu dày năm mươi trang lên bàn. Cô là một trong số ít nữ nhân viên làm hồ sơ tại Cục điều tra liên bang, và là người phụ nữ da đen duy nhất. Archie đã biết cô được sáu năm, kể từ khi Cục gửi cô đến để lập hồ sơ vụ Mỹ nhân đoạt mạng. Họ đã trải qua hàng trăm giờ trong cơn mưa, đi qua các địa điểm phạm tội, nhìn chằm chằm vào những bức ảnh của các vết thương vào lúc 4 giờ sáng, cố gắng thâm nhập vào tâm trí của Gretchen Lowell. Archie biết rằng Anne đã có con. Anh đã nghe cô nói chuyện với chúng qua điện thoại. Nhưng anh nhận ra, họ chưa bao giờ dù một lần, trong tất cả thời gian làm việc cùng nhau, họ nói về những đứa con của mình. Cuộc sống trong công việc của họ quá xấu xí. Nói về trẻ con có vẻ hơi thô thiển.

“Nó đây ư?” Anh hỏi, gật đầu hướng về tập tài liệu.

“Là thành quả lao động của tôi”, Anne nói.

Sườn Archie bị đau do ngồi quá lâu và axit như đốt cháy bụng anh. Đôi khi, anh thức dậy vào giữa đêm, thấy mình đang nằm đúng tư thế, và nhận ra rằng anh không bị đau. Anh cố gắng giữ yên cơ thể, để kéo dài khoảnh khắc hạnh phúc ấy, nhưng cuối cùng anh vẫn phải lật mình, cong đầu gối hoặc duỗi một cánh tay ra, sau đó là sự nhói đau, nóng rát hoặc nhức nhối quen thuộc. Những viên thuốc đã giúp anh, và đôi khi anh tự nhủ rằng anh gần như đã quen với nó. Nhưng cơ thể anh vẫn tỏ ra mất tập trung. Nếu anh tập trung vào tập hồ sơ của Anne, anh cần một chút khí trời. “Hãy đi bộ nào. Cô có thể nói cho tôi nghe về các ý chính.”

“Chắc chắn rồi”, cô đồng ý.

Họ đi qua căn phòng trống của đội cảnh sát, nơi một nhân viên lao công đang tháo dây của máy hút bụi, Archie giữ cánh cửa kính lớn của ngân hàng cho Anne bước ra, sau đó anh theo sau cô đi ra vỉa hè. Họ bắt đầu đi về phía bắc. Trời lạnh, Archie nhét hai bàn tay trần vào túi áo khoác, và trong đó có những viên thuốc. Như thường lệ, anh chưa sẵn sàng cho thời tiết này. Đèn đường mờ ảo trong bóng tối, và thành phố trông bẩn thỉu dưới thứ ánh sáng vàng vàng đang rọi lên vỉa hè. Một chiếc xe vụt qua, vượt quá tốc độ cho phép chừng mười dặm một giờ.

“Tôi nghĩ chúng ta đang đối đầu với một kẻ thần kinh mới vào nghề”, Anne nói. Cô mặc một chiếc áo khoác dài bằng da màu sô-cô-la và đôi bốt họa tiết da báo. Anne luôn có khả năng phối hợp trang phục.

“Anh có thích đôi giày này không?” Anne hỏi, nhận thấy anh đang nhìn vào chân cô. Cô dừng lại và nhấc chiếc váy dài của mình lên vài cen-ti-mét để khoe đôi bốt. “Tôi đã mua chúng ở cửa hàng ‘ngoại cỡ’. Đôi này là loại rộng đặc biệt. Dành cho cặp bắp chân ngoại cỡ của tôi.”

Archie hắng giọng. “Cô nói hắn là một kẻ mới bắt đầu trở nên tâm thần à?”

“Anh không muốn nói về bắp chân của tôi à?”

Archie mỉm cười. “Tôi chỉ cố gắng đưa mình tránh khỏi một vụ kiện quấy rối tình dục.”

Anne buông váy và cười toe toét với Archie. “Tôi tin, đây là lần đầu tiên tôi thấy anh cười trong hai ngày vừa qua.”

Họ tiếp tục đi và Anne tiếp tục nói về tập tài liệu, “Hắn cưỡng bức và giết những cô bé này nhưng hắn lại cảm thấy hối hận”, cô nói, thái độ trở lại nghiêm túc. “Hắn làm sạch những nạn nhân. Hắn trả lại xác của họ.”

“Nhưng hắn sẽ tiếp tục giết một người khác.”

“Nhu cầu đã chế ngự hắn. Đó là chuyện hãm hiếp. Không phải chuyện giết người. Hắn là một kẻ hiếp dâm đi giết người, không phải là một kẻ giết người đi hiếp dâm. Đó không phải là một phần của sự tôn sùng vọng tưởng. Hắn giết những cô bé để họ không phải trải qua sự cưỡng bức.”

“Tên này quái thật”, Archie nói.

Họ đi ngang qua một cửa hàng bán sơn tối om, rồi đến một cửa hàng bán cà phê tự động cho các tài xế, đã đóng cửa, sau đó là một quán rượu dành cho những người mê nhạc jazz. Cửa sổ của quán được lấp đầy với những biển hiệu đèn nê-ông mà ta thường thấy ở những quán bia như: PBR, Núi Rainier, Núi bang Nevada. Một cánh cửa dán biển quảng cáo một ban nhạc có tên là Tìm lại người mất tích. Tốt. Khi họ đi ngang qua, Archie liếc nhìn vào trong và bắt gặp ánh mắt một người, những cái miệng đang há to, cười đùa, tiếng của những kẻ say.

Anne nói tiếp, “Tôi không tin rằng, giết người mang lại cho hắn niềm vui. Hắn không kéo dài thời gian giết người. Hắn không dùng tay. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải xem xét hắn đến từ đâu. Tôi nghĩ hắn đã từng đi cưỡng bức trước đây. Và nếu hắn đã từng làm, tên hắn sẽ nằm đâu đó trong hồ sơ những nạn nhân bị cưỡng bức.”

Archie lắc đầu. “Chúng ta đã lôi hồ sơ của tất cả những vụ hiếp dâm chưa được giải quyết trong hai mươi năm qua. Không có vụ nào phù hợp.”

Họ đến một ngã tư. Nếu ở một mình, Archie sẽ vượt đèn giao thông, nhưng vì có Anne ở đó, anh nhấn nút dành cho người đi bộ và chờ đợi.

“Hãy tìm các bang khác. Nếu anh không thể tìm thấy bất cứ thứ gì, điều đó có nghĩa là các vụ hiếp dâm vẫn chưa được trình báo toàn bộ, điều này sẽ hữu ích.”

Archie đã xem xét và suy nghĩ về việc này. “Hắn có quyền lực đối với phụ nữ.”

“Hoặc đã từng”, Anne nhận xét.

“Và rồi hắn mất đi quyền lực đó; vậy là hắn thay thế nó bằng bạo lực.”

Anne gật đầu vài lần, hàm của cô chuyển động không ngừng. “Tôi nghĩ, đó là sự phát triển dần dần của hành động bạo hành tình dục, theo sau là tình trạng căng thẳng tại nơi làm việc hoặc ở nhà. Có lẽ hắn có những tưởng tượng về bạo lực tình dục từ khi còn nhỏ, nhưng hắn có thể dập tắt chúng bằng những bộ phim khiêu dâm và những vụ hãm hiếp khi còn trẻ. Sau đó, hắn quyết định đưa việc này đi xa hơn. Lên kế hoạch. Thực hiện. Và đào tẩu.”

“Và rồi hắn lại giết người một lần nữa.” Archie thở dài. Đèn giao thông đổi màu, cuối cùng, họ băng qua phía bên kia đường và bắt đầu quay ngược về phía nam. Buổi tản bộ không dài lắm. Nhưng thật tốt khi được vận động cơ thể.

“Đúng vậy. Và hắn vứt bỏ xác các nạn nhân rồi đào tẩu lần nữa. Vì vậy, những ranh giới đạo đức của xã hội, thứ mà hắn luôn cảm thấy khó chịu, đang bị xói mòn nghiêm trọng. Tôi nghĩ một phần trong hắn, lần đầu tiên, hoàn toàn có khả năng hắn mong đợi mình sẽ bị bắt. Có lẽ, thậm chí hắn muốn bị bắt, bị trừng phạt vì những tư tưởng lệch lạc của mình. Nhưng hắn đã không bị bắt. Vì vậy, giờ đây, hắn nghĩ luật pháp không dành cho hắn. Hắn cảm thấy mình đặc biệt.”

“Vậy còn việc sử dụng thuốc tẩy? Phải chăng đó là một nghi thức khiến hắn cảm thấy được thoát khỏi tội lỗi, hay đơn thuần hắn chỉ đang phá hủy các bằng chứng pháp y?”

Anh có thể thấy Anne đang cắn môi. “Tôi không biết. Chúng không khớp với nhau. Nếu hắn quan tâm đến các nạn nhân đủ để giết chúng, vậy thì tại sao hắn lại ngâm chúng trong đám hóa chất kia? Thứ chất tẩy rửa này được sử dụng quá nhiều. Và tôi nghĩ hắn đủ tỉ mỉ để biết tránh sử dụng quá mức cần thiết. Hắn chắc chắn biết chính xác nên sử dụng bao nhiêu, và khi nào thì nên dừng.”

“Hắn vứt xác nạn nhân trước lễ tình nhân một ngày”, Archie nói.

“Điều này không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên.”

“Đối với hắn, những vụ giết người có mối quan hệ mật thiết”, Archie nói nhẹ nhàng. “Hắn chọn lựa các đối tượng.”

“Gã này rất thông minh”, Anna nói. “Hắn là người được học hành tử tế. Có công ăn việc làm. Hắn phải di chuyển các thi thể, vì vậy chắc chắn hắn phải có một chiếc xe. Và có thể hắn sở hữu cả một chiếc thuyền. Dựa vào thời điểm biến mất của các nạn nhân, tôi có thể khẳng định hắn làm việc theo giờ giấc của nhân viên ngân hàng, 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Da trắng, là đàn ông. Ngoại hình bình thường. Dễ gần. Gọn gàng. Nếu hành động giết người của hắn là một quá trình phát triển, thì hắn đã bước vào tuổi ba mươi, có thể bốn mươi. Có định hướng rõ ràng và giỏi kiểm soát người khác. Hắn sẵn sàng chấp nhận một rủi ro rất lớn khi hắn bắt những cô bé này trên đường phố công cộng. Hắn tự tin, kiêu ngạo. Và là người mưu mẹo. Hắn sử dụng mưu mẹo để bắt các nạn nhân.”

“Giống như diễn viên của phim Bundy?”

“Hoặc diễn viên Bianchi đóng vai giả làm cảnh sát, hoặc xe có vấn đề, hoặc hắn nói mình là một người sùng đạo kiểu mẫu, hoặc nói rằng cha mẹ cô bé gặp tai nạn và đề nghị đưa cô bé đến bệnh viện.” Cô lắc đầu không tán thành. “Nhưng mọi chuyện không dễ dàng như thế. Hắn tinh ranh. Bởi vì dù hắn sử dụng bất cứ cách nào, thì hắn cũng đã thành công trong việc bắt cô bé Kristy đi cùng, sau khi phạm tội hai lần trước đó.”

Archie nghĩ về cô bé Kristy Mathers tóc nâu, mũm mĩm, đang kéo lê chiếc xe đạp bị hỏng băng qua đường, chỉ cách nhà vài con phố. Vậy chiếc xe đạp đó ở đâu? Nếu hắn nhảy ra tóm cô bé, tại sao hắn lại phải lấy luôn chiếc xe đạp? Và nếu hắn thực sự đã lấy nó, thì chiếc xe của hắn phải đủ lớn để dễ dàng bỏ vừa chiếc xe đạp. Nếu cô bé đi với hắn một cách tự nguyện, cô bé chắc hẳn phải quen hắn.”

“Nếu chúng ta chấp nhận giả thuyết đó, đúng vậy, cô bé phải quen biết hắn.” Họ đang đứng trong bãi đậu xe của ngân hàng. “Xe tôi đây rồi”, Anne nói, đặt tay lên nóc chiếc xe Mustang màu đỏ tía mà cô thuê.

“Ngày mai, tôi sẽ phỏng vấn các giáo viên và nhân viên một lần nữa.” Archie nói. “Chỉ phỏng vấn những người đàn ông trong diện tình nghi.” Cơn đau đầu của anh trở nên tồi tệ hơn, giống như vừa tỉnh giấc sau cơn say. Và cơn say này không bao giờ kết thúc.

“Tối nay anh sẽ về nhà hay là ngủ trên ghế làm việc?”

Archie liếc nhìn đồng hồ và giật mình khi thấy đã 11 giờ đêm. “Tôi chỉ cần vài giờ nữa để hoàn thành”, anh nói.

Cô bấm mở khóa cửa xe và ném ví của mình vào chiếc ghế rồi quay lại nói với Archie. “Nếu anh muốn nói chuyện, thì”, cô nhún vai, “tôi là một bác sĩ tâm lý.”

“Một chuyên gia về tâm lý tội phạm nữa.” Anh cười tỏ vẻ mệt mỏi. “Tôi đã cố gắng không đi sâu vào lĩnh vực này.”

Sau đó, anh nhận thấy, dưới ánh đèn an ninh khó chịu của bãi đậu xe, cô đã già đi trong vài năm qua. Có những nếp nhăn quanh mắt và một vài sợi tóc ngả màu. Cô trông vẫn ổn hơn anh.

“Ả ta có khớp vào hồ sơ vụ này không?”

Archie biết ý của cô đang đề cập đến ai. “Cô ta thao túng các hồ sơ, Anne à. Cô biết điều đó mà.”

Anne mỉm cười nhưng mặt cô tối sầm. “Vụ trước, tôi đã tin rằng kẻ giết người là đàn ông. Rằng hắn ta làm việc một mình. Tôi chưa bao giờ xem xét đến khả năng sát thủ là một phụ nữ. Nhưng anh thì nghi ngờ cô ta. Mặc dù hồ sơ của cô ta không phù hợp. Cách cô ta xâm nhập vào cuộc điều tra, đó là hành vi tâm lý học điển hình trong sách mà tôi đã được học. Tôi không thể tin được rằng mình đã không nhận ra điều đó.”

“Cô ta nhử tôi vừa đủ để tôi phải đến chỗ cô ta, và cũng đủ để tôi không đến mức phải đề phòng. Đó là một cái bẫy. Tôi đến đó vì cô ta đã chơi tôi. Không phải vì năng lực điều tra của tôi.”

“Cô ta biết anh muốn giải quyết vụ đó hơn bất cứ điều gì. Những kẻ đa nhân cách rất giỏi trong việc đoán được tâm lý người khác.”

Cô không biết được đâu, Archie nghĩ.

“Trong mọi trường hợp”, Anne cô thở dài, “Tôi ở Heathman. Nếu anh đổi ý. Về việc nói chuyện.”

“Anne?”

Cô quay lại. “Vâng?”

“Cảm ơn cô vì lời đề nghị.”

Cô đứng đó một lúc trên đôi giày da báo, như thể còn muốn nói thêm nữa. Một cái gì đó giống như “Tôi rất tiếc về việc anh đã phải trải qua những điều tồi tệ như vậy, hoặc là, tôi biết anh đang nghĩ gì về việc đó”, hoặc “Hãy cho tôi biết nếu anh muốn tôi giới thiệu anh làm việc tại nơi khác, yên tĩnh và tốt đẹp hơn.” Hoặc có lẽ cô ấy chỉ nghĩ về việc quay lại khách sạn để cô có thể gọi cho các con của cô ấy. Nó không thực sự quan trọng. Archie đợi cô lái xe đi, sau đó anh quay trở lại văn phòng, bật lại máy ghi âm, nhắm mắt và lắng nghe Fred Doud nói về thi thể khủng khiếp của cô bé Kristy Mathers.