CHƯƠNG 20
Susan ngồi vào chiếc bàn Đại văn hào màu xanh gần cửa sổ, cô đang ngắm nhìn phố xá vào giờ nghỉ trưa, mọi người ra vào cửa hàng Whole Foods, cửa hàng nằm chéo với tòa nhà cô sống. Câu chuyện đầu tiên đã được viết và gửi đi. Cô ghét giai đoạn này. Cô ghét phải chờ sự xác nhận từ Ian, nhưng cô vẫn khao khát có được sự xác nhận đó. Cô nhấn mục Tải lại trang trên hộp thư điện tử. Không có gì mới. Đột nhiên, cảm giác choáng ngợp chiếm lấy Susan và cô muốn hét lên. Anh ta ghê tởm giọng văn cảm động của cô. Cô đã phải chấp nhận hạ thấp cái tôi của mình để có thể viết được một cái gì đó to lớn. Họ có thể sẽ đuổi việc cô. Cô không thể tự mình đọc lại bài viết của chính mình - chắc chắn cô sẽ thấy từng chữ cái, từng câu bị động, từng lỗi câu khập khiễng. Cô nhấn Tải lại trang một lần nữa. Không có gì. Nhìn vào đồng hồ trên màn hình máy tính, cô bò rồi trườn trên chiếc ghế bành nhung của Đại văn hào, nằm co tròn và bật tin tức giữa ngày lên xem. Gương mặt của thanh tra Archie Sheridan tràn ngập màn hình và có thông báo rằng sẽ có một tin tức đặc biệt. Anh trông có vẻ mệt mỏi. Hoặc dùng từ mệt lử? Nhưng anh đã cạo râu và chải mái tóc sậm màu, gương mặt anh nhăn nheo và phảng phất sự xấu hổ nhưng vẫn hiện lên sự uy quyền nhất định. Cô mong mỏi cái cảm giác mọi việc đều trong tầm kiểm soát.
Cô xem Archie xác nhận lại cái chết của cô bé Kristy Mathers một cách dứt khoát, và rồi màn hình chuyển về lại hình ảnh người đưa vài ba tin tức địa phương trong ngày. Phóng viên này đang dùng giọng điệu giễu cợt khi đưa tin nóng về tên quái vật đội lốt người vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật và rồi đột nhiên nhẹ nhàng chuyển sang một tin tức đặc biệt về sự thiếu hụt không được dự báo trước của những cơn mưa ở Thung lũng Willamatte. Buổi họp báo đã diễn ra lúc 10 giờ, điều này có nghĩa là nó đã kết thúc được chừng hai tiếng. Cô tự hỏi bây giờ Archie Sherian đang làm gì.
Chuông điện thoại reo, Susan suýt vấp ngã vì cố với lấy cái điện thoại trước hồi chuông thứ ba, khi mà hộp thư trả lời tự động bắt đầu. Cô nhìn thấy thông tin người gọi và biết ngay người đó là ai.
“Tôi thích nó”, Ian nói ngay mà không cần chào hỏi.
Susan cảm thấy mọi căng thẳng suốt cả buổi sáng biến mất. “Thật không?”
“Bài viết rất tuyệt. Khi cô đặt hình ảnh bước theo từng bước của cô học sinh tại Cleveland bị sát hại bên cạnh hình ảnh tìm thấy thi thể của Kristy Mathers - đây chính xác những gì chúng ta muốn, cưng ạ. Không có quá nhiều thông tin về Sheridan trong bài. Cô đã móc nối các bên lại rồi. Bây giờ thì tôi muốn cô giải phẫu Sheridan, để chúng ta có thể nhìn thấy tim anh ta đập như thế nào.”
“Việc đó để cho tuần tới”, Susan vui vẻ nói, rót cho mình một tách cà phê nguội lạnh và đặt nó vào lò vi sóng. “Phải để những tên hề kia muốn nhiều hơn, phải không?”
“Những tên hề?”
Susan cười. “Những độc giả ấy.”
“Ồ”, Ian nói. “Đúng.”
Susan diện đồ với bốt cao bồi, quần jean, áo phông Pixies và áo khoác nhung đỏ. Cô đặt cuốn sổ ghi chép của phóng viên vào túi áo khoác bên phải và hai cây bút bi màu xanh hãng Bic ở túi bên trái. Cô thậm chí còn sấy khô mái tóc hồng và trang điểm.
Khi đã sẵn sàng để rời đi, cô mở cuốn sổ tay ra, một danh sách nguệch ngoạc các tên và số điện thoại mà Archie Sheridan đã đưa cho cô. Cô dừng lại, tự hỏi giây lát nữa anh sẽ nghĩ gì về câu chuyện đầu tiên đó khi nó được đăng báo, sau đó cô tự dập tắt sự lo lắng của mình. Anh là đối tượng của cô. Cô là một nhà báo. Một câu chuyện đã xong, vẫn còn ba câu chuyện phải viết. Cô bấm điện thoại.
“Chào”, Susan nói, rạng rỡ. “Có phải chị Debbie Sheridan không?”
Có một chút do dự. “Vâng?”
“Tôi là Susan Ward. Làm cho báo Người đưa tin? Không biết chồng chị có nói với chị rằng tôi có thể sẽ gọi cho chị không?”
“Anh ấy có nói sơ qua chuyện đó.”
Debbie đã không chỉnh Susan khi cô dùng từ chồng, Susan nghĩ - Chị ấy đã không nói, “Ý cô là chồng cũ của tôi. Chúng tôi đã ly hôn. Tôi sẽ hủy hôn ước nếu có thể, cuộc đời thật khốn nạn”. Susan viết từ “chồng” vào cuốn sổ tay, theo sau là một dấu hỏi.
Cô nở một nụ cười lớn, hy vọng rằng Debbie có thể nghe thấy nụ cười đó trong giọng nói của cô. Đó là một mẹo cũ phỏng vấn qua điện thoại mà Parker đã dạy cô. “Vâng, tôi đang viết một bài báo về anh ấy, và tôi hy vọng sẽ được hỏi chị một vài câu. Chỉ để hiểu hơn về anh ấy một chút. Một ít về tính cách.”
“Cô gọi lại tôi sau được không?” Debbie hỏi.
“Tiếc quá. Chắc có lẽ chị đang làm việc? Có thời gian nào tốt hơn mà tôi có thể gọi lại cho chị không?”
Có một khoảng lặng. “Không. Chỉ là tôi cần nghĩ về việc này.”
“Ý chị là nói chuyện với Archie? Bởi vì tôi đã hỏi anh ấy và anh ấy nói rằng anh ấy không thấy phiền nếu tôi nói chuyện với chị.”
“Không. Không. Chỉ là tôi không thích phải nhớ lại tất cả những chuyện đã xảy ra. Hãy để tôi suy nghĩ một chút.” Giọng của Debbie ấm áp. “Gọi lại cho tôi sau nhé?”
“Vâng”, Susan buồn bã đồng ý.
Cô cúp máy và ngay lập tức bấm số tiếp theo trong danh sách trước khi trí não loạn hết cả lên. Bác sĩ của Archie không rảnh, vì vậy Susan để lại tên và số điện thoại di động của mình cho thư ký của ông ấy.
Cô thở dài, ngồi thỏm xuống chiếc bàn Đại văn hào và tra cứu tên Gretchen Lowell. Hơn 80.000 kết quả. Cô đã dành nửa giờ lướt qua những điều thú vị. Thật đáng ngạc nhiên khi có nhiều trang điện tử được dành riêng cho việc khai thác những kẻ sát nhân hàng loạt.
Susan đang nhìn chằm chằm vào một nghiên cứu trực tuyến kể lại cuộc điều tra vụ án Mỹ nhân đoạt mạng và khi đó đã có gì đó lọt vào mắt cô. Gretchen Lowell gọi 911 để đầu thú và gọi xe cứu thương.
Susan nhấc điện thoại và gọi cho Ian.
“Tôi đang dự một cuộc họp báo”, Ian trả lời.
“Làm thế nào để tôi có thể lấy được băng thu thoại của 911?”
“Đoạn nào?”
“Gretchen Lowell”, Susan nói. “Anh đã nghe nó chưa?”
“Họ đã không để lộ cuộn băng. Chúng ta có bảng nội dung.”
“Tôi muốn nghe cuộc gọi thực tế. Tôi có thể có cuộn băng đó không?”
Ian nói. “Để tôi thử.”
Susan cúp máy và tra cứu Nhà tù bang Oregon. Cô viết lại địa chỉ nhà tù lên một tờ giấy bên cạnh máy tính và mở văn bản Word lên. “Thân gửi cô Lowell”, cô viết. “Tôi đang viết về thanh tra Archie Sheridan, và tôi hy vọng sẽ có thể hỏi cô vài câu hỏi.” Cô viết thư gần hai mươi phút. Khi viết xong, cô đặt bức thư vào một phong bì, đóng dấu và viết địa chỉ.
Cô trả một vài hóa đơn, sau đó lái xe đến bưu điện rồi gửi chúng cùng với bức thư cho cô gái được mệnh danh là Mỹ nhân đoạt mạng. Sau đó, cô lái xe đến trường trung học Cleveland. Cô muốn mở ra câu chuyện tiếp theo với một vài lời độc thoại, một kỷ niệm về những ngày cô học tại trường trung học Cleveland. Và cô nghĩ rằng việc về lại ngôi trường có thể đem đến một số chi tiết mà cô có thể sử dụng. Nhưng sự thật thì cô muốn tránh việc phải về lại trường.
Tiếng chuông tiết cuối cùng vừa vang lên, từ phía hành lang chính rộng lớn vang lên tiếng học sinh, chúng nhồi nhét các vật dụng lấy ra từ tủ đựng ba lô, chúng đứng thành từng nhóm sát nhau, dựa vào tường, nhét chai nước ngọt vào cặp, nói chuyện ồn ào và đi ra khỏi tòa nhà, bước ra không gian ngoài trời. Bọn trẻ bước đi thong thả như những thanh thiếu niên trong khung cảnh tự nhiên, có vài điều mà Susan không nhớ là mình đã từng trải qua. Sự khác biệt giữa học sinh năm nhất trung học và học sinh năm cuối là đáng kinh ngạc. Các học sinh năm nhất dường như rất trẻ con. Điều đó thật buồn cười với Susan, bởi vì ở tuổi mười bốn, cô đã tự coi mình là một người trưởng thành.
Một vài học sinh liếc nhìn Susan ở lối đi khi cô đi qua. Nhưng hầu hết không nhìn, dù chỉ là một cái chớp mắt. Trong thế giới của bọn trẻ, tóc hồng là chuyện bình thường. Susan đã ghi lại một vài ghi chú cho câu chuyện của mình, ghi lại các chi tiết và ấn tượng về trường, bầu không khí của trường.
Khi cô đến được cánh cửa đôi màu nâu sẫm dẫn vào nhà hát, cô dừng lại một lúc, tay để trên cánh cửa, vượt qua những ký ức thời tuổi teen. Cô quên mọi thứ của trường cấp ba rất lâu rồi; thật tuyệt vời khi những cảm xúc lẫn lộn đang gợi lên cho cô tại thời điểm này. Cô đưa tay vuốt tóc, cố tạo nên khuôn mặt trưởng thành nhất và bước qua cánh cửa.
Nó có mùi giống nhau. Giống như sơn, mùn cưa và chất tẩy thảm có mùi cam.
Nhà hát có tất cả 250 chỗ ngồi, bằng những chiếc ghế nhựa dẻo màu đỏ xếp dọc trước một sân khấu nhỏ màu đen. Đèn sân khấu được bật, và một cảnh đang được dựng nhưng chưa hoàn thành, khung cảnh trên sân khấu được dựng từ gỗ dán và vải bạt, mang lại ấn tượng mơ hồ về một phòng khách hồi đầu thế kỷ 20. Cô nhận ra chiếc sofa cũ hiệu Queen Anne, đã được họ sử dụng trong vở Arsenic và Old Lace và vở Cheaper by the Dozen. Họ dùng những âm thanh từ vở kịch Vụ giết người ở Vicarage. Cầu thang vẫn vậy. Luôn là những bậc thang đó. Đổi chiều lên xuống qua mỗi đoạn.
Cô ghét trường trung học, nhưng cô cũng yêu nơi này. Giờ đây nó khiến cô nghĩ đến tất cả những gì mình đã trải qua nơi đây, nhớ đến hàng giờ luyện tập cho vở diễn sau giờ học và sau vở diễn. Đó là cả thế giới của cô, đặc biệt là sau khi cha cô qua đời.
Không có ai trong khán phòng hôm nay. Sự trống rỗng của nơi này khiến cô cảm nhận một nỗi buồn. Cô đi đến hàng ghế cuối cùng và quỳ xuống để kiểm tra mặt dưới của chiếc ghế thứ hai ở lối đi. Ở đó, có vết khắc trên thanh kim loại, là tên viết tắt của cô: S.W. Sau ngần ấy năm, tên của cô vẫn được khắc vào nơi này. Cô giật mình và đứng dậy. Cô không muốn ai đó đang bước vào và tìm thấy cô ở đây. Cô không muốn có bất kỳ cuộc đoàn tụ nào ở đây. Đó là một sai lầm, thậm chí là việc về lại trường Cleveland. Câu chuyện là về Archie, không phải về cô. Cô nhìn khán phòng lần cuối, rồi quay lại và vội vã đi về phía hành lang.
Một giọng nói gọi vọng, “Trò Ward.” Cô nhận ra giọng nói đó ngay lập tức. Đó là giọng nói bắt đầu cho hàng ngàn hình phạt.
“Thầy McCallum”, cô nói.
Thầy trông vẫn vậy. Một người đàn ông lùn và mập một thùng rượu, với bộ ria mép khổng lồ và chùm chìa khóa đeo ở một bên quần, khiến thầy phải điều chỉnh quần liên tục. “Hãy đi với chúng tôi”, ông nói. “Tôi chỉ cần hộ tống cậu Schmidt này đến phòng kiểm điểm.” Sau đó, Susan để ý thấy một cậu bé tuổi teen đi đằng sau thầy McCallum. Cậu bé rụt rè mỉm cười với cô, một vết mụn nhìn có vẻ đau đớn ở ngay trên cổ cậu bé.
Susan vội vã đi theo sau. Những đứa trẻ chen lấn nhau trong hành lang mở lối đi cho thầy McCallum, người đang sải từng bước rất chắc chắn.
“Tôi đã thấy tên của em trên bài viết”, ông ta nói với Susan.
Susan khúm núm. “Ồ?” Cô nói.
“Em đến đây vì cô bé Lee Robinson, đúng không?”
Susan bừng sáng và mở cuốn sổ tay ra. “Thầy có biết gì về em ấy không?”
“Tôi chưa bao giờ để mắt đến em ấy”, McCallum nói.
Susan quay về phía cậu học sinh tràn đầy hy vọng. “Còn em thì sao?”
Cậu học sinh nhún vai. “Không thực sự là quen. Ý em là, em biết bạn ấy là ai.”
Thầy McCallum quay phắt lại. “Tôi đã nói như thế nào, cậu Schmidt?”
Cậu học sinh đỏ mặt. “Không hé răng nửa lời?”
“Tôi không muốn nhìn thấy em mở miệng hoặc nghe bất kì lời nào phát ra từ em cho đến tiết học thứ sáu ngày mai”, McCallum nói. Ông ta quay sang Susan. “Cậu Schmidt này đang gặp vấn đề về phát ngôn.”
Susan gần như cũng quên mất cô đang muốn nói gì khi bị phân tâm bởi một khung trưng bày bằng kính ở hành lang. “Nhìn kìa”, Susan nói, nhấn một ngón tay vào kính. “Đây là tất cả các cúp của cuộc thi Kiến thức.”
McCallum gật đầu tự hào, cằm và cổ nhập thành một. “Năm ngoái, chúng ta đã thắng toàn bang. Vì vậy, nhà trường buộc phải di chuyển một vài cúp bóng đá để nhường chỗ trong khung trưng bày này.”
Khung trưng bày tràn đầy cúp, một cái tô lớn bằng bạc với tên trường và năm thắng giải được khắc bằng kiểu chữ lạ mắt. “Em thực sự đã rất thích cuộc thi Kiến thức”, cô nói khẽ.
“Em đã rời bỏ đội”, McCallum nhắc lại.
Susan nuốt nỗi buồn xuống cổ họng. “Lúc đó có rất nhiều chuyện xảy ra với em.”
“Rất khó khăn cho một đứa trẻ đã phải chứng kiến cái chết của cha hoặc mẹ.”
Cô đặt tay lên mặt kính. Những chiếc cúp được đánh bóng để tỏa sáng và hàng chục hình ảnh phản chiếu méo mó của cô trên những chiếc cúp như đang nhìn chằm chằm vào cô. Khi cô nhấc tay ra khỏi lớp kính, bàn tay cô đã để lại dấu mờ trên lớp kính. “Đúng vậy.”
“Điều đó rất khắc nghiệt”, cậu bé nói.
McCallum nhìn cậu học sinh và đưa một ngón tay lên môi. “Không nói nửa lời cơ mà”, ông ta nhắc lại.
Giáo viên Vật lý quay lại nhìn Susan, đồng thời luồn ngón tay cái vào một cánh cửa màu nâu dọc hành lang. “Chúng tôi đến nơi rồi”, ông ta nói. Ông đưa bàn tay dày, đầy lông ra. Susan bắt tay ông. “Trò Ward”, ông ta nói. “Tôi chúc em những điều tốt đẹp nhất cho những nỗ lực trong tương lai.”
“Cảm ơn, thầy McCallum”, Susan nói.
McCallum dắt cậu học trò đến cửa và mở cửa cho cậu bé. Cậu bé vẫy tay chào Susan khi bị dẫn vào trong.”
“Em xin lỗi thầy về việc đã từ bỏ cuộc thi Kiến thức”, cô nói vọng theo, nhưng cánh cửa đã đóng lại.
“Đùa à.” Susan đứng chống hông, kiểm tra chiếc xe Saab cũ của mình. Chiếc xe đã bị còng bánh. Một thiết bị kim loại được gắn chắc chắn vào bánh trước bên trái của xe. Cô nhắm nghiền mắt và phát ra một tiếng gầm gừ nhẹ. Cô đã đậu xe ở nơi dành cho giáo viên, chắc chắn là vậy. Nhưng đó là sau giờ học. Và cô đã rời đi được mười lăm phút. Cô cảm thấy bị xáo trộn trong vài phút, sau đó bình tĩnh lại.
“Còng xe ư?”
Giật mình, Susan ngước lên và thấy cậu học sinh đang đứng dựa vào mui chiếc BMW màu cam hình hộp đậu ngay phía sau. Cậu học sinh trông thật dễ thương: mái tóc dài, làn da trong veo, cao ráo. Chiếc xe rất đẹp, một trong những phiên bản của năm 2002, có từ thời những năm 1970. Chiếc xe sáng bóng, không một vết trầy. Các chi tiết được mạ crôm lấp lánh. Biển số xe ghi JAY2.
“Chiếc xe rất đẹp đúng không?” Cậu học trò nói. “Từ cha em. Để bù đắp cho việc đã bỏ mẹ để đi theo một bà cô buôn bất động sản.”
“Vậy nó có giúp gì cho cậu không?”
“Nó giúp ông ấy.” Cậu ấy gật đầu về phía xe của cô. “Chị phải vào văn phòng quản trị. Trả tiền phạt. Sau đó, họ sẽ gọi một trong những người bảo vệ đến gỡ thiết bị đó ra khỏi xe. Tốt hơn chị nên nhanh lên. Sẽ có một trận đấu bóng rổ, vì vậy văn phòng sẽ đóng cửa sớm.” Cậu ấy đẩy nhẹ mình đứng dậy khỏi chiếc xe và bước vài bước về phía cô. Nhìn xuống đất. Rồi lại nheo mắt nhìn lên cô, “Nghe này, chị muốn mua vài điếu không?”
Susan lùi lại một bước và liếc nhìn xung quanh để xem có ai ở trong tầm nghe không. Có cảnh sát ở khắp mọi nơi. Hai chiếc xe tuần tra đã đậu ở hai bên hông trường. Thêm vào đó, Susan nhận thấy có một người đàn ông ngồi trong một chiếc xe mui kín đậu trước trường, cách nơi cô đang đứng không đến 9 mét. Ông ta là cảnh sát chăng? Hay chỉ là một người cha đang chờ để đón con? Đây chính xác là cách mà các phóng viên vô tội bị bắt. “Chị lớn rồi em ạ”, cô nói lớn tiếng.
Đôi mắt cậu bé nhìn lên mái tóc hồng của cô, rồi nhìn xuống áo phông Pixies của cô, đôi bốt cao bồi, chiếc xe hơi phía sau. “Chị chắc chứ? Hàng ngon đấy.”
“Chắc”, Susan nói. Sau đó, dứt khoát hơn, “Chị chắc luôn”, cô nhìn lại chiếc còng lớn trên bánh xe. Tại sao những điều này luôn luôn phải xảy ra với cô? “Văn phòng quản trị ư?” Cô nói.
Cậu học sinh gật đầu.
“Cảm ơn.” Cô quay lại và tiến về phía tòa nhà chính, đi ngang qua người đàn ông trong chiếc xe mui kín, người đang cầm một tờ báo Người đưa tin và đột nhiên đưa tờ báo lên đọc. Chắc chắn là một cảnh sát, Susan khẳng định. Cô leo lên một cầu thang rộng ở phía trước, đẩy một trong những cánh cửa trước, quay xuống sảnh và tìm văn phòng quản trị. Nhưng cánh cửa đó đã bị khóa. “Thật ư?” Cô hỏi lớn. “Thật ư?” Cô dập mạnh cửa. Tạo ra một tiếng ồn lớn. Susan kêu lên và đập tay vào ngực.
“Tôi có thể giúp gì cho cô?”
Cô quay lại và nhìn thấy một người bảo vệ đang đẩy một thùng rác nhựa màu xanh lá cây khổng lồ ngang qua sảnh.
“Anh có thể mở chiếc còng chết tiệt ra khỏi xe của tôi”, cô nói. Người bảo vệ có mái tóc đen bóng mượt, một chỏm râu dê và những gì mà người ta thường thấy ở “Diễn viên hình mẫu”, tuýp người rất nổi tiếng với phụ nữ. Những người bảo vệ ở trường Cleveland đã không có diện mạo như thế khi Susan còn học ở đó. Thực tế, anh ta gần như có thừa vẻ đẹp trai để đánh lạc hướng Susan ra khỏi sự thất vọng. Gần như vậy.
Đôi mắt đen của anh ta mở to. “Chiếc Saab của cô trong bãi đậu xe của giáo viên đúng không?”
“Đúng”, Susan nói.
“Xin lỗi”, anh ta nói với một cái nhún vai xin lỗi. “Tôi đã cho rằng đó là xe của học sinh.”
“Bởi vì trông nó tồi tàn.”
Anh ta cười toe toét. “Là vì, hình dán lớn của ban nhạc Blink 182.”
Susan nhìn xuống sàn nhà. “Nó đã ở trên đó khi tôi mua chiếc xe.”
“Dù sao đi nữa, chúng tôi có chính sách không khoan nhượng dành cho bãi đậu xe riêng cho giáo viên. Nếu không, tất cả học sinh sẽ đỗ xe ở đó.” Anh ta vẫn cười toe toét. “Nhưng tôi nghĩ tôi có thể mở còng xe cho cô.” Anh rút ra một chiếc chìa khóa lớn nhất mà Susan từng thấy. “Đi thôi”, anh ta nói và bắt đầu đi xuống hành lang về phía cửa trước của tòa nhà, để lại thùng rác bên cạnh bức tường. Anh ta dừng lại trước khung kính đựng chiếc cúp của cuộc thi Kiến thức, rút một miếng giẻ trắng ra khỏi túi rồi chà nó lên kính. Cô thoáng thấy một hình xăm đầy màu sắc trên cánh tay anh: Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Anh ta mỉm cười với cô và lắc lắc đầu. “Là dấu bàn tay. Đôi khi công việc của tôi giống như dọn dẹp cho lũ trẻ mới biết đi vậy.”
Susan vò tay lên tóc, để anh ta không có cơ hội so sánh lòng bàn tay của cô với dấu vân tay đầy dầu mỡ kia, rồi vội vã đuổi kịp anh ta. “Vậy, anh thích làm công việc trông coi trường học sao?” Cô hỏi, nhăn mặt ngay khi câu hỏi buông ra từ miệng mình.
“Tôi yêu công việc này”, anh ta nói. “Mặc dù nó chỉ có vài việc để làm trong khi tôi đã học hết chương trình tiến sĩ văn học Pháp.”
“Có thật không?” Susan nói rạng rỡ.
Anh ta mở cửa trước và để cô đi qua. “Không.”
Một cơn gió lạnh thổi ngang qua, Susan cố gắng nhét tay vào những chiếc túi nhỏ xíu của chiếc áo khoác nhung. “Anh có biết cô bé Lee Robinson?”
Anh ta dường như nổi giận. “Có phải đó là lý do cô đến đây?”
“Tôi đang viết một bài cho báo Người đưa tin. Anh biết cô bé ấy không?”
“Tôi đã dọn sạch bãi nôn mửa của cô bé trong phòng y tá một lần.”
“Nghiêm túc chứ?” Susan hỏi.
“Nghiêm túc”, anh ta nói. “Và một lần, cô bé đã mang cho tôi thẻ Hallmark vào Ngày tuyên dương nghề Bảo vệ Quốc gia.”
“Thật không?”
Họ đã đến bãi đậu xe. Cậu học sinh và chiếc BMW màu cam đã biến mất. Người đàn ông trong chiếc xe cũng đã biến mất.
Người bảo vệ nóng bỏng kia quỳ xuống cạnh xe của cô. “Không.”
“Anh thật hài hước.”
“Cảm ơn.” Anh ta cúi người xuống cái còng, mở khóa, và chỉ trong nháy mắt, thiết bị đó đã bị kéo ra khỏi bánh xe trước. Rồi anh ta đứng dậy, cầm chiếc còng xe nặng nề dưới một cánh tay và chờ đợi.
Susan mò mẫm thò tay tìm ví của mình, tự ý thức được việc phải làm tiếp theo. “Tôi nợ anh bao nhiêu?”
“Tôi sẽ nói với cô điều gì đây nhỉ”, anh ta nói, đôi mắt trở nên lạnh lùng. “Tôi sẽ để cho cô đi miễn phí nếu cô đồng ý không khai thác thông tin của một đứa trẻ đã chết để viết một câu chuyện lên mặt báo.”
Susan cảm thấy như bị tát vào mặt. Cô không nói nên lời. Anh ta chỉ đứng đó, trông đẹp trai với chiếc quần yếm. “Tôi không thực sự khai thác”, cô lắp bắp. Cô muốn thanh minh. Để giải thích tầm quan trọng của những gì cô làm. Cộng đồng cần được biết. Sự nhân văn của một cộng đồng có những giá trị được chia sẻ. Vai trò của nhân chứng. Nhưng đột nhiên, cô phải thừa nhận rằng tất cả dường như khá khập khiễng.
Anh ta rút một chiếc vé ra khỏi một trong nhiều chiếc túi của mình và đưa nó cho cô. Cô cầm tấm vé và lật chiếc vé trên tay. Năm mươi đô! Và chiếc vé này có thể đưa cô đến đội bóng đá chết tiệt nào đó hay là gì.
Cô muốn nói điều gì đó thông minh. Một cái gì đó khiến cô cảm thấy mình tốt hơn một chút. Nhưng trước khi có thể, cô đã nghe thấy tiếng nhạc nho nhỏ của ban nhạc Kiss. Cô dừng lại và lắng nghe. Đó là bài hát của nhóm Kiss - Gọi cho Bác sĩ Tình yêu. Cô thấy một tia bối rối thoáng qua trên khuôn mặt người bảo vệ khi anh ta mò mẫm tay trong túi quần. Đó là tiếng chuông điện thoại của anh ta.
Và anh ta nghĩ cô chỉ là một cô nhóc.
Anh ta rút điện thoại ra khỏi túi và nhìn vào thông tin người gọi. “Tốt hơn là tôi nên nghe máy”, anh ta nói với Susan. “Đó là ông chủ của tôi, chắc là gọi để đuổi việc.”
Rồi anh ta đưa điện thoại lên tai và bỏ đi.
Susan nhìn anh ta bước đi, cô bối rối, rồi ngồi vào xe. Bài hát của nhóm Kiss réo rắt trong đầu cô:
Mặc dù anh đầy tội lỗi
Nhưng cuối cùng, em sẽ cho anh vào…
Khi lái xe ra khỏi bãi đậu xe, cô có một suy nghĩ vu vơ: Người bảo vệ có thể sẽ rất dễ có được nhiều thuốc tẩy.
“Họ có những điểm gì giống nhau?” Archie hỏi Henry.
Họ đang đi bộ dọc theo bãi biển đảo Sauvie, nơi họ tìm thấy cô bé Kristy Mathers. Đây là sự bỏ cuộc của Archie. Không có manh mối? Không có những suy luận thăm dò rõ ràng? Phải quay lại hiện trường vụ án. Có lẽ anh đã dành nhiều năm cuộc đời để đi bộ trong những nước cờ của Gretchen Lowell. Nó đưa anh vào đúng không gian và luôn có cơ hội tìm thấy manh mối. Anh cần một manh mối.
Dòng nước vỗ về bờ biển, nơi bọt biển đánh thành từng dòng uốn lượn và rác thải để lại dấu của dòng thủy triều. Xa xa, một chiếc tàu chở vài người châu Á đang lướt ngang. Phía trên những người này là dòng chữ: Thành công rực rỡ. Không có ai trên bãi biển. Trời đã chạng vạng và ánh sáng yếu dần, dù vậy bầu trời mùa đông ở Tây Bắc vẫn có cách giữ ánh sáng cho mình, cho nên dù là vào thời điểm nào trong đêm, bầu trời cũng luôn trông giống như mặt trời vừa lặn. Tuy nhiên, sẽ sớm thôi, bầu trời sẽ trở nên tối om ở bãi biển. Archie cầm theo đèn pin để họ có thể tìm đường quay lại xe.
“Họ trông giống nhau”, Henry nói.
“Có đơn giản quá không? Có phải hắn rình rập các trường học? Chọn những cô bé phù hợp với một kiểu người nhất định?” Sau khi Archie và Henry rời khỏi trường Jefferson, họ đã dành buổi sáng để phỏng vấn các giáo viên và nhân viên tại trường Cleveland, những người phù hợp với hồ sơ tình nghi. Có mười người tất cả. Chẳng mang lại kết quả gì. Claire đã theo dõi bạn cùng phòng của Evan Kent, người đã xác nhận câu chuyện của anh ta về việc sửa lại chiếc xe Dart. Nhưng anh này nói sớm hơn, tầm 5 giờ 30 phút. Để anh ta có đủ thời gian để đi về phía bắc, đến trường Jefferson.
“Tất cả bọn trẻ đều là học sinh năm thứ hai.”
Vậy, năm thứ hai ở trường trung học của bọn trẻ có điểm gì chung? Bảy nhân viên của Cleveland có chứng cứ vắng mặt. Bốn nhân viên không có. Anh đã kiểm tra lại các chứng cứ vắng mặt một lần nữa, những chứng cứ đó đều đúng. Vậy là có ba nghi phạm tại trường Cleveland: một tài xế xe buýt của trường, một giáo viên Vật lý và một giáo viên Toán kiêm huấn luyện viên bóng chuyền. Cộng với Kent, người đã làm việc ở cả Cleveland và Jefferson. Cộng thêm khoảng mười nghìn kẻ biến thái khác đang ẩn nấp trong thành phố. Họ sẽ theo dõi Kent và kiểm tra ba người còn lại. Còn mười nghìn kẻ biến thái thì vẫn chưa xác nhận được.
“Vậy chẳng phải bọn trẻ đều là học sinh năm nhất vào năm ngoái sao?” Henry đoán.
Archie dừng bước. Đơn giản đến thế ư? Anh búng ngón tay. “Anh nói đúng”, anh nói.
Henry gãi cái đầu hói của mình. Thời gian này trong ngày, râu của anh thường mọc lởm chởm. “Tôi đùa đấy.”
“Việc tất cả các nạn nhân đều được chuyển lên từ cùng một lớp hồi năm nhất, chúng ta đã kiểm tra rồi nhỉ.”
“Cả ba cô bé đều đã học ở các trường tương ứng của mình vào năm ngoái”, Henry nói.
“Có phải có một bài kiểm tra mà tất cả các học sinh trung học năm nhất đều phải làm, phải không?”
“Ý cậu là muốn tôi xem xét liệu có phải một tên giám thị điên khùng nào đó đã hại chết bọn trẻ?”
Archie lấy một viên thuốc kháng axit ra khỏi túi và bỏ vào miệng. Nó như viên phấn có vị cam thảo vậy. “Tôi không biết”, anh nói. Anh ép mình phải nhai viên thuốc và nuốt chúng. Anh bật đèn pin lên, giữ ánh đèn ở một góc nghiêng với lớp cát. Một vài con cua nhỏ đang bò tới tranh giành không gian có ánh sáng. “Tôi chỉ muốn bắt thằng khốn đó.” Archie thích dùng đèn pin để đi qua hiện trường vụ án, ngay cả lúc ban ngày. Việc đó thu nhỏ sự tập trung, khiến anh nhìn mọi thứ chỉ trong diện tích của một ô vuông tại một thời điểm. “Điều thêm cảnh sát giám sát tại các trường học. Tôi không quan tâm nếu chúng ta phải chở từng đứa trẻ về nhà.”
Henry móc ngón tay cái vào đằng sau khóa thắt lưng màu ngọc lam, ngả người ra sau, anh nhìn lên bầu trời tối. “Chúng ta có nên quay về không?” Giọng anh phảng phất chút hy vọng.
“Có ai đang đợi anh ở nhà à?” Archie hỏi.
“Này”, Henry nói. “Căn hộ buồn bã của tôi trông đẹp hơn căn hộ của cậu đấy.”
“Hay đấy”, Archie nói. “Hãy nhắc lại cho tôi nhớ xem anh đã kết hôn bao nhiêu lần rồi nhỉ?”
Henry cười toe toét. “Ba lần. Hoặc bốn lần nếu cậu tính cả lần hủy hôn và là năm lần nếu tính luôn trường hợp chỉ kết hôn hợp pháp trên giấy tờ.”
“Tôi nghĩ tốt hơn là nên giữ cho anh bận rộn”, Archie nói. Anh vung đèn pin xung quanh, nhìn những con cua chạy tán loạn. “Ngoài ra, chúng ta còn chưa xem xét hiện trường vụ án mà.”
“Các chuyên viên điều tra hiện trường đã thực hiện việc đó rồi”, Henry nói.
“Vậy để xem chúng ta có tìm được thứ gì họ đã bỏ lỡ.”
“Trời đang tối đấy.”
Archie chiếu ánh đèn pin dưới cằm mình. Anh trông giống như một con ma cà rồng kinh dị. “Đó là lý do tại sao chúng ta có đèn pin.”