← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 21

Susan tỉnh giấc, thu người trong bộ ki-mô-nô cũ, cô đi thang máy xuống cầu thang và tìm kiếm các tập báo Người đưa tin trên sàn đá granit của sảnh cho đến khi cô tìm thấy số báo có tên mình. Cô đợi đến khi trở lại tầng trên trong căn hộ của mình, rồi mới rút tờ báo ra khỏi túi nhựa. Cô luôn cảm thấy nôn nao trong bụng khi tìm kiếm bài báo mà mình đã viết. Đó là cảm giác hy vọng nhưng pha trộn giữa sợ hãi, tự hào và bối rối. Hầu hết mọi lần, cô thậm chí còn thích đọc tác phẩm của mình ngay khi nó xuất hiện trên mặt báo. Nhưng cú tát của người bảo vệ điển trai kia đã thổi bùng ngọn lửa nghi ngờ bản thân quen thuộc trong cô. Sự thật là, đôi khi cô cảm thấy như mình vừa làm việc gì đó gian lận. Và đôi khi cô cảm thấy như cô đang khai thác các đối tượng của mình. Cô đã chọc giận một ủy viên hội đồng thành phố mà cô viết và mô tả ông ta với cụm từ “hói đầu và lùn tịt”. (Thực tế là như vậy.) Nhưng lần này thì khác.

Câu chuyện về đội đặc nhiệm là dự án đầu tiên cô từng viết để đưa lên trên trang nhất. Cô ngồi xuống giường, với một hơi thở nặng nề, lo lắng, cô mở tờ Người đưa tin ra, cô nghĩ rằng bài viết đã biến mất, nhưng nó vẫn ở đó, dưới nếp gấp, nhìn xuống từ phần Tin chính. Trang bìa. A-1. Một bức ảnh chụp từ trên cao hiện trường vụ án trên đảo Sauvie kèm theo bài viết. Với một tiếng cười giật mình, cô nhận ra mình, một người nhỏ bé trong bức ảnh, và bên cạnh cô, trong số các thanh tra khác, là Archie Sheridan. Quên đi người bảo vệ kia. Cô vui mừng trở lại.

Cô bỗng ước gì có ai đó để cô có thể chia sẻ chiến thắng nhỏ bé liên quan đến công việc báo chí này. Mẹ cô - Bliss đã hủy đăng ký nhận báo Người đưa tin nhiều năm trước, sau khi các chủ sở hữu tòa soạn có cuộc tranh cãi về việc đốn hạ cả một khu rừng già. Bà hẳn sẽ có trong tay số báo này, nếu như bà biết đến nó. Nhưng Susan đã không kể với bà về loạt bài này. Và cô sẽ không kể. Susan đưa tay dò tìm hình ảnh của Archie Sheridan trên báo bằng ngón tay và tự hỏi liệu anh đã nhìn thấy bài báo chưa. Ý nghĩ đó khiến cô cảm thấy lòng tự tôn trào lên và cô thả lỏng nó.

Cô đứng dậy, pha một bình cà phê và ngồi xuống, lật tờ báo để tìm mục Tin Thành phố, nơi bài viết hiện lên, đột nhiên có một phong bì rơi trên tấm thảm. Lúc đầu, cô nghĩ đó là phiếu giảm giá hoặc vài phiếu khuyến mãi nhảm nhí khác mà tòa soạn đồng ý nhét vào để đổi lấy tiền quảng cáo. Sau đó, cô nhận thấy tên mình trên phong bì. Đánh máy. Không phải đánh máy trên nhãn. Mà là đánh máy tên cô trên phong bì. “Susan Ward.” Ai đã gõ tên cô lên phong bì? Cô nhặt nó lên.

Đó là một phong bì trắng có kích thước thông thường. Cô lật qua lật lại vài lần trên tay, sau đó mở nó ra. Một mảnh giấy trắng được gấp gọn gàng bên trong. Có một dòng chữ được đánh máy ở giữa trang:

Justin Johnson: 031038299.

“Justin Johnson là tên quái nào?”

Nghiêm túc nào. Tên này là ai? Và tại sao? Nếu cô không nhìn thấy cái phong bì, thì ai đó sẽ lấy đi lời nhắn bí mật này với một cái tên và một dãy số?

Susan nhận ra trái tim mình đột nhiên đập liên hồi. Cô viết các con số xuống cạnh tờ báo với hy vọng rằng hành động viết chúng ra sẽ giúp cô hiểu được dãy số này có ý nghĩa gì. Có chín chữ số. Đó là một số điện thoại. Số An sinh xã hội có thể bắt đầu bằng chữ số 0? Cô nhìn dãy số một lúc lâu rồi nhấc điện thoại và gọi đến số trực tiếp của Quentin Parker, tại tòa soạn Người đưa tin.

“Parker nghe”, ông ta quát lên.

“Susan đây. Tôi sẽ đọc cho ông một dãy số và tôi muốn ông nói cho tôi biết ông nghĩ chúng là gì.” Cô đọc những con số.

“Số hồ sơ vụ án của tòa án”, Parker lập tức nói. “Hai số đầu tiên là năm 2003.”

Susan kể cho Parker câu chuyện về chiếc phong bì bí ẩn.

“Có vẻ ai đó đã nhận được tin nặc danh”, Parker trêu chọc. “Tôi sẽ gọi cho một người tôi quen làm ở tòa án và để xem tôi có thể tìm hiểu được thông tin gì về hồ sơ này cho cô.”

Laptop của cô được đặt trên bàn cà phê. Cô bật máy lên và tìm kiếm cái tên “Justin Johnson”. Google cho cô hơn 150.000 liên kết liên quan. Cô tiếp tục tìm kiếm từ khóa “Justin Johnson, Portland”. Lần này, chỉ có 1.100 kết quả hiện ra. Cô bắt đầu lướt đọc từng đường liên kết.

Điện thoại reo, Susan nghe máy.

“Đó là hồ sơ của một đứa trẻ vị thành niên”, Parker nói. “Bảo mật. Tôi rất tiếc.”

“Hồ sơ của trẻ vị thành niên”, Susan nói. “Phạm tội loại gì?”

“Là hồ sơ bảo mật. Có nghĩa là ‘không thể mở’.”

“Ông nói đúng.” Cô cúp máy và nhìn vài cái tên cùng dãy số thêm vài lần. Cô uống một ít cà phê. Lại nhìn vào cái tên. Hồ sơ trẻ vị thành niên. Tại sao có người muốn cô biết về hồ sơ trẻ vị thành niên của Justin Johnson? Nó có liên quan gì với vụ án Kẻ bóp cổ sau giờ học? Cô có nên gọi cho Archie không? Nhưng về cái gì? Một phong bì nặc danh mà cô đã tìm thấy trong tờ báo của mình? Đó có thể là bất cứ điều gì. Đó có thể là một trò đùa. Cô thậm chí không biết bất kỳ ai tên là Justin. Sau đó, cô nhớ đến cậu học sinh bán thuốc cấm ở bãi đậu xe trường trung học Cleveland. Biển số xe của cậu ta ghi JAY2. Chữ J phù hợp với cái tên? Đáng để kiểm tra. Cô bấm số của văn phòng hành chính trường trung học Cleveland.

“Xin chào”, Susan nói. “Tôi là bà Johnson. Gần đây gia đình chúng tôi có một số vấn đề về việc trốn học và tôi tự hỏi liệu hôm nay con trai tôi là Justin có đến trường hay không?”

Một tình nguyện viên văn phòng bảo Susan chờ máy một phút, sau đó cô quay trở lại. “Bà Johnson phải không ạ?” Cô nói. “Đừng lo lắng. Hôm nay Justin có mặt ở trường.”

Chà, mày biết gì nào? Justin Johnson là học sinh trường trung học Cleveland. Và cậu ta có tiền án.

Susan bấm số điện thoại di động của Archie. Anh trả lời ở hồi chuông thứ hai. “Điều này nghe có vẻ kỳ lạ”, cô kể lại câu chuyện về bãi đậu xe và chiếc phong bì.

“Cậu ta có chứng cứ vắng mặt”, Archie nói.

“Anh trả lời ngay mà không cần suy nghĩ?”

“Chúng tôi đã thẩm vấn cậu ấy”, Archie nói. “Cậu ta bị phạt. Tất cả là ba ngày. Đó là chứng cứ vắng mặt của cậu ta.”

“Anh có muốn số hồ sơ của cậu ta không?”

“Tôi biết về hồ sơ của cậu ta”, Archie nói.

“Thật không?”

“Susan, tôi là cớm mà.”

Cô không thể cãi lại. “Anh đã đọc bài viết của tôi chưa?”

“Tôi rất thích nó.”

Susan cúp máy và quằn quại trong vui sướng. Anh ấy thích bài viết của cô. Cô đặt phong bì lên một chồng thư trên bàn cà phê. Bây giờ là gần 10 giờ sáng. Justin Johnson sẽ tan học sau khoảng năm tiếng rưỡi nữa. Và cô sẽ đợi cậu ta. Trong khoảng thời gian đó, cô lại hứng thú về Archie Sheridan hơn nhiều. Cô rót thêm một tách cà phê và gọi lại cho Debbie Sheridan bằng điện thoại bàn. Hôm nay là thứ sáu, Archie đã nói rằng vợ cũ của anh làm việc ở nhà vào ngày thứ sáu. Vậy thì chắc chắn Debbie sẽ trả lời điện thoại.

“Chào chị”, Susan nói. “Tôi xin giới thiệu một lần nữa, tôi là Susan Ward. Chị nói tôi có thể gọi lại cho chị?”

“Ồ, xin chào”, Debbie nói.

“Liệu đây có phải là thời điểm tốt hơn để nói chuyện không? Tôi thực sự rất mong muốn chúng ta có thể nói chuyện với nhau.”

Có một khoảng dừng ngắn. Rồi Debbie thở dài. “Cô có thể đến đây bây giờ không? Bọn trẻ đang ở trường.”

Susan cười rạng rỡ. “Nghe hay quá. Chị sống ở đâu vậy?”

Cô ghi lại địa chỉ, mặc quần jean bó sát, áo phông sọc xanh đỏ và đôi bốt thấp đến mắt cá chân, màu đỏ, lấy áo khoác dạ đen và đi thang máy xuống tầng. Đó là một thang máy tuyệt đẹp, tất cả được làm bằng thép và kính. Susan quan sát khi những con số nhấp nháy từ tầng sáu xuống nhà để xe dưới hầm, và rồi vào giây phút cuối cùng, cô lại nảy ra một ý tưởng và nhấn vào tầng trệt. Cửa mở ra và cô bước ra khu vực tiền sảnh, bước vào phòng hành chính kinh doanh sang trọng của tòa nhà. Tốt rồi. Monica đang làm việc.

Susan chuyển biểu cảm khuôn mặt bình thường của mình thành biểu cảm khuôn mặt của một hội viên Hội phụ nữ (nó khá giống, ngay cả với mái tóc hồng) và đến gần quầy lễ tân làm bằng tre, nơi Monica đang ngồi cau mày bên đống tạp chí thời trang.

“Xin chào”, Susan nói, cô kéo dài tiếng chào của mình.

Monica nhìn lên. Đó là một cô gái có mái tóc nhuộm màu vàng bạch kim. Không lộ màu tóc gốc. Không bao giờ. Một cô gái với nụ cười tự động vô nghĩa theo đúng nghĩa đen. Susan không chắc chắn chính xác những gì cô ấy làm ngoài việc đọc tạp chí. Cô ấy dường như ngồi đó chỉ để làm mồi nhử khách cho phòng kinh doanh của tòa nhà. Giống như người ta xịt mùi thơm của bánh nướng vào một căn nhà trưng bày vậy. Susan đoán cô ấy ở độ tuổi hai mươi, nhưng với lượng trang điểm trên mặt, thì thật khó để đoán. Susan nhìn ra được Monica không biết phải cư xử như thế nào với mình. Mái tóc hồng của cô rõ ràng đã làm cô ấy bối rối. Mái tóc kia chắc chắn sẽ kiến cho Monica nghĩ rằng Susan thuộc tuýp người thích tự làm xấu mình. Nhưng điều ấy dường như khiến cho cô xác định rõ mình phải cư xử lịch sự.

“Nghe này”, Susan nói. “Tôi có một người hâm mộ bí mật.”

Monica bật dậy. “Không đời nào!”

“Hoàn toàn là sự thật. Và anh ta đã để lại cho tôi một lời nhắn tình yêu kẹp trong tờ báo của tôi sáng nay.”

“Ôi chúa ơi!”

“Tôi biết! Vì vậy, không biết cô có thể xem qua đoạn video an ninh sáng nay ở sảnh để tôi có thể biết anh ta là ai không.”

Monica vỗ tay thích thú và lăn chiếc ghế da ngựa vằn giả đến một màn hình màu trắng sáng lấp lánh. Kiểu nhiệm vụ này mang lại ý nghĩa cho công việc của cô ấy. Monica cầm một chiếc điều khiển và hình ảnh đen trắng trên màn hình bắt đầu được tua ngược thời gian. Họ theo dõi đoạn băng trong vài phút, khi mọi người đi lùi vào thang máy, cho đến khi sảnh yên tĩnh, những tờ báo được đặt thành từng chồng nhỏ dưới hộp thư. Sau đó, một người đàn ông đi lùi vào tòa nhà và cúi xuống các tờ báo.

“Đó đó”, Susan nói.

Họ tua cuộn băng lùi lại một chút và thấy một người phụ nữ đang cầm một ly cà phê cỡ lớn bước ra từ thang máy, đi qua tiền sảnh và ra khỏi cửa trước. Khi cô ấy bước ra, một người đàn ông trong bộ đồ tối màu đi vào tòa nhà, tiến đến các tờ báo, lật từng tờ, và rõ ràng đã nhét một thứ gì đó vào bên trong tập báo. Anh ta đứng đợi ở phía ngoài cho đến khi người phụ nữ kia mở cửa đi ra ngoài.

“Anh ta thật dễ thương!” Monica thét lên the thé.

“Làm sao cô thấy được?” Susan thất vọng hỏi. “Cô không thể nhìn thấy khuôn mặt anh ta mà.”

“Anh ta mặc một bộ đồ bảnh bao. Tôi cá anh ta là luật sư. Là người giàu có.”

“Cô in giúp tôi tấm ảnh này ra được không?”

“Đương nhiên rồi”, Monica nói ngay. Cô ấy nhấn nút, lăn ghế qua chỗ máy in màu trắng và chờ đợi hình ảnh được in ra, rồi đưa nó cho Susan. Susan đã kiểm tra hình ảnh. Hoàn toàn không xác định được. Tuy nhiên, cô sẽ đưa nó cho Justin Johnson xem và liệu bức ảnh này có cho cô một cuộc nói chuyện nào không. Cô gấp bức ảnh lại và nhét nó vào túi xách.

“Cảm ơn cô”, Susan nói, khi đã quay nửa lưng đi.

“Cô biết không”, Monica nói, khuôn mặt có vẻ muốn cho lời khuyên, “cô nên nhuộm tóc màu vàng. Trông cô sẽ xinh hơn rất nhiều.”

Susan nhìn Monica một lúc. Monica nhìn lại cô nhưng không mấy chú ý. “Tôi đã nghĩ về việc đó.” Susan nói. “Nhưng sau đó, tôi đọc một bài báo đưa tin về thuốc nhuộm tóc màu bạch kim gây ung thư ở mèo con trong phòng thí nghiệm.”

“Mèo con trong phòng thí nghiệm ư?” Monica mở to mắt, nói.

Susan nhún vai. “Tôi phải đi đây.”