← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 22

Debbie Sheridan sống trong một ngôi nhà kiểu trang trại bằng gạch và xi măng ở Hillsboro, cách đường cao tốc vài phút. Susan đã sống ở Portland trong phần lớn cuộc đời mình và cô có thể đếm trên cả hai tay số lần cô đến Hillsboro. Đó là một địa điểm ở vùng ngoại ô nằm trên lối đi đến bờ biển mà Susan lái xe qua; cô chưa từng nghĩ rằng đó là một điểm đến. Chỉ riêng việc sống ở ngoại ô cũng đã khiến Susan lo lắng. Ngôi nhà của Debbie Sheridan là điển hình cho khu phố này. Bãi cỏ xanh mướt, được chăm sóc kỹ lưỡng, với những góc cạnh sắc bén và cỏ dại được để mắt thường xuyên. Có một hàng rào dạng hộp, một cây phong Nhật Bản, vài cây vân sam màu xanh và một vài luống cỏ trang trí. Một nhà xe cho hai chiếc xe được xây bên hông nhà. Đó là bức tranh của niềm hạnh phúc gia đình và một ngôi nhà mà Susan thậm chí không thể hình dung tới.

Cô khóa xe, đi đến cửa trước có hình dáng trông như thời trung cổ và bấm chuông.

Debbie Sheridan mở cửa và đưa tay chào hỏi. Susan bắt tay. Debbie không giống như những gì Susan tưởng tượng. Ở tuổi ba mươi, cô ấy có mái tóc đen, ngắn sành điệu và thân hình cân đối, mạnh mẽ. Cô ấy mặc quần legging đen, áo phông và giày thể thao. Cô ấy hấp dẫn, sang trọng và hoàn toàn không phải là người ngoại ô. Susan theo cô vào nhà. Căn nhà đầy tính nghệ thuật. Những bức tranh sơn dầu lớn trừu tượng trên tấm vải trải dài lót những bức tường trắng. Sàn nhà được lót bằng thảm Oriental. Sách được xếp ở mọi bề mặt phẳng. Đó là phong cách rất thành thị, đậm chất phóng túng như của những người đi du ngoạn thế giới. Và đó càng không phải là những gì mà Susan mong đợi.

“Tôi thích chất nghệ thuật của chị”, Susan nói. Cô luôn cảm thấy không thoải mái trước những người phụ nữ sành điệu hơn mình.

“Cảm ơn cô”, Debbie vui vẻ nói. “Tôi làm thiết kế ở hãng Nike. Tôi làm những thứ này vì muốn có cảm giác được làm một người nghệ sĩ.”

Chỉ đến lúc đó, Susan mới để ý thấy chữ ký “D. Sheridan” được viết nguệch ngoạc trên góc những bức tranh. “Chúng thật đẹp.”

“Những thứ này giúp tôi bận rộn hơn. Đôi khi tôi nghĩ bọn trẻ nhà tôi còn tài năng hơn nữa.”

Debbie dẫn Susan xuống một hành lang, đi ngang qua những bức ảnh đen trắng được đóng khung của hai đứa trẻ tóc đen quyến rũ. Một số bức ảnh chỉ có bọn trẻ; một số ảnh khác là của Archie, Debbie và bọn trẻ. Tất cả đều trông vui vẻ và hạnh phúc bên nhau.

Họ đến một nhà bếp hiện đại sáng sủa với những cánh cửa kiểu Pháp nhìn ra sân sau với một khu vườn nhỏ kiểu Anh. “Cô có muốn uống cà phê không?”

“Vâng”, Susan nhận lấy một chiếc cốc mà Debbie rót từ cái bình ép kiểu Pháp, rồi cô ngồi xuống một chiếc ghế cao bên quầy bếp. Cô để ý thấy một trang báo có trò chơi khoanh chữ của tờ New York Times trên mặt quầy.

Debbie vẫn đứng đó.

Có một phòng gia đình ở phía bên kia quầy. Nó cũng có những cánh cửa kiểu Pháp mở ra vườn. Nhờ có chiếc bàn vẽ và những bức phác thảo gắn trên tường, Debbie sử dụng căn phòng này làm văn phòng tại nhà. Nhưng sàn nhà thì rải đầy đồ chơi. Debbie nhận thấy Susan nhìn vào bản phác thảo, thì mỉm cười ngượng ngùng. “Tôi đang thiết kế một chiếc giày yoga”, cô giải thích.

“Ủa, không phải chúng ta tập yoga bằng chân trần sao?”

Debbie mỉm cười. “Có thể nói đó là một thị trường chưa được khai phá.”

“Chị chủ yếu làm mảng thiết kế giày phải không?”

“Không phải thiết kế phần kết cấu. Tôi chỉ cần lấy mẫu thiết kế sẵn của phòng khảo nghiệm và cố gắng làm cho chúng trông đẹp hơn. Tôi có đọc bài báo hôm nay của cô. Rất thú vị. Viết rất hay.”

“Cảm ơn chị”, Susan bối rối. “Đó mới chỉ là những viên gạch đầu tiên thôi ạ. Tôi muốn viết sâu hơn trong những số tiếp theo. Chị có muốn ngồi không ạ?”

Debbie đặt một tay lên ghế định ngồi, cô lưỡng lự rồi lại bỏ tay ra. Cô nhìn vào căn phòng gia đình. Nhìn xuống những đồ chơi trên sàn. “Tôi nên dọn chúng sau khi lũ trẻ chơi xong”, cô nói. Cô theo sau Susan, vòng qua cái quầy vào phòng gia đình và cúi xuống nhặt một con khỉ nhồi bông lên. “Vậy cô muốn biết gì nào?” Cô hỏi.

Susan lấy một máy ghi âm kỹ thuật số từ trong ví ra. “Chị có phiền không nếu em ghi âm lại? Như thế sẽ dễ hơn là phải ghi chép.”

“Cứ thoải mái”, Debbie nói. Cô tiếp tục với công việc của mình. Cô nhặt lên một con mèo, một con thỏ và một con gấu trúc.

“Vậy”, Susan nói. Vào thẳng vấn đề. Giọng đầy năng lượng tuôn ra. “Chuyện đó hẳn là rất khó khăn.”

Debbie đứng lên, hai tay ôm đầy những con thú bông bằng nhung đẹp, cô thở dài. “Khi anh ấy mất tích hả? Đúng vậy.” Cô đi đến một cái bàn nhỏ màu đỏ với hai cái ghế đỏ cho trẻ con và bắt đầu đặt từng con thú bông lên trên đó. “Anh ấy gọi cho tôi, cô biết đấy, ngay trước khi anh ấy đến gặp cô ta. Sau đó, anh ấy đã không về nhà”. Cô dừng lại và nhìn con khỉ đột trên tay. Nó có kích thước của một em bé. Cô nói cẩn thận. “Lúc đầu tôi nghĩ đó là do vấn đề giao thông. Chỗ đó gần với chỗ Nike ở đây, nhưng đi lại trên đường Hai mươi sáu có thể nói là khủng khiếp. Tôi gọi điện thoại cho anh ấy khoảng trăm lần, nhưng anh ấy không nhấc máy.” Cô nhìn lên Susan và gượng cười. “Điều này không phải là hoàn toàn bất thường. Tôi nghĩ rằng họ có thể đã tìm thấy một thi thể khác. Nhưng sau đó…” Cô ngừng lại và hít một hơi thật sâu trong giây lát. “Cuối cùng, tôi gọi cho Henry. Henry đã đến nhà cô ta. Họ tìm thấy chiếc xe của Archie ở phía trước, nhưng căn nhà trống rỗng. Và đó là lúc tất cả mọi thứ bắt đầu tan vỡ.” Cô nhìn con khỉ đột một lúc rồi từ từ đặt nó lên bàn, đặt nó một cách vừa khít giữa con gấu trúc và con mèo. “Tất nhiên họ không thể biết được những gì đã xảy ra. Vì nó chẳng có liên quan gì đến Gretchen Lowell. Nhưng họ có thể ghép các manh mối lại với nhau.” Giọng cô trở nên căng thẳng. “Nhưng họ cũng không thể tìm thấy anh ấy.”

“Mười ngày là khoảng thời gian dài.”

Debbie ngồi khoanh chân trên thảm và kéo một trò xếp hình lớn bằng gỗ về phía mình. “Họ nghĩ rằng anh ấy đã chết”, cô nói một cách dửng dưng.

“Chị cũng nghĩ vậy phải không?”

Debbie hít hai nhịp thở đều nhau, rồi cau mặt nói, “Có.”

Susan lén lút trượt cái máy ghi âm gần hơn về phía Debbie. “Chị đang ở đâu khi nghe tin họ tìm thấy anh ấy?”

Debbie bắt đầu trò xếp hình bằng những mảnh ghép lộn xộn trên nền nhà. “Tôi ở đây”, cô nói và nhìn xung quanh. “Ở ngay đây.” Cô cười một cách buồn bã. “Trong căn phòng gia đình này.” Mỗi mảnh của trò xếp hình là một loại xe khác nhau, rồi cô nhặt một mảnh ghép hình xe cứu hỏa đặt vào bảng ghép. “Có một chiếc ghế dài. Cà phê. Nhiều cảnh sát. Claire Masland.” Cô lặng người đi, một mảnh ghép vẫn còn trên tay cô. “Và hoa nữa. Mọi người bắt đầu mang hoa tới. Họ đưa tin về gia đình tôi trên tivi. Mọi người từ khắp nơi tới đây và để hoa ở trong vườn.” Cô ngước lên nhìn Susan. Khuôn mặt bất lực, quẫn trí và bối rối cùng một lúc. “Thú nhồi bông. Ruy băng. Những lời chia buồn.” Cô liếc nhìn mảnh ghép trên tay mình: một chiếc xe cảnh sát. “Và hoa. Toàn bộ phía trước ngôi nhà lấp đầy những bông hoa héo úa.” Tay cô siết chặt quanh mảnh ghép và trán cô căng ra. “Tất cả những lời chia buồn chết tiệt ấy được viết nguệch ngoạc trên giấy vụn và thẻ tang lễ. ‘Rất buồn vì sự mất mát của bạn.’ ‘Lời cảm thông sâu sắc nhất từ chúng tôi.’ Tôi nhớ khi nhìn ra cửa sổ phía trước khu vườn được sắp xếp làm tang lễ này. Tôi có thể ngửi thấy mùi hôi thối bốc ra từ bên trong, mùi hôi thối của những lá và hoa rữa nát.” Cô đặt chiếc xe cảnh sát vào trò xếp hình, nhấc tay ra và nhìn nó. “Và tôi biết rằng anh ấy đã chết.”

Cô quay lại nhìn Susan. “Người ta nói rằng chúng ta có thể cảm nhận được, cô biết đấy? Khi người mà ta yêu thương cận kề với cái chết? Tôi có thể cảm nhận được. Sự vắng mặt của anh ấy. Tôi biết rằng mọi thứ đã chấm hết. Tôi biết, trong giác quan của mình, rằng Archie đã chết. Rồi Henry gọi đến. Họ đã tìm thấy anh ấy. Anh ấy còn sống. Mọi người vui mừng. Claire chở tôi đến Emanuel. Và trong năm ngày, tôi đã không rời khỏi bệnh viện.”

“Anh ấy thế nào?”

Debbie hít một hơi dài như thể đang suy nghĩ về câu hỏi. “Khi anh ấy tỉnh dậy hả? Phải mất một thời gian dài để bọn tôi thuyết phục Archie rằng anh ấy đã ra khỏi căn phòng dưới tầng hầm đó.” Cô ngừng lại. “Đôi khi tôi thắc mắc liệu tôi có thực sự làm được việc đó hay không.”

“Anh ấy có kể lại mọi chuyện cho chị nghe không?” Susan hỏi.

“Không”, Debbie nói.

“Nhưng chị cũng cần biết chuyện gì đã xảy ra chứ?”

Ánh mắt Debbie tối sầm lại và lạnh lùng. “Cô ta đã giết chết anh ấy. Cô ta đã giết chết chồng tôi. Tôi tin rằng mỗi người chị đều biết. Tôi biết mình cảm nhận được điều gì.” Cô nhìn Susan đầy hàm ý. “Và tôi biết anh ấy đã trở thành người như thế nào.”

Susan liếc nhìn máy ghi âm điện tử. Nó có đang ghi âm không nhỉ? Ánh sáng màu đỏ của cái đèn nhỏ phía trên nhấp nháy như trấn an cô. “Chị nghĩ rằng vì sao cô ta lại làm vậy?”

Debbie hoàn toàn ngồi yên lặng trong một thoáng. “Tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng dù cô ta cố gắng làm bất cứ điều gì, thì cô ta cũng đã thành công. Cô ta sẽ không dừng lại cho đến khi đạt được điều cô ta muốn. Cô ta không phải loại người đó.”

“Bao lâu sau khi tất cả những chuyện đó xảy ra thì hai người chia tay?” Susan hỏi.

“Cô ta đã bắt anh ấy vào dịp Lễ Tạ ơn. Còn chúng tôi chia tay trước kỳ nghỉ mùa xuân.” Cô quay mặt khỏi Susan, nhìn ra vườn sau, một cái cây, một bộ xích đu, một hàng rào bằng cây. “Tôi biết điều này nghe thật khủng khiếp. Anh ấy như một mớ bòng bong. Không ngủ nổi. Giật mình sợ hãi. Tôi xin lỗi, cô có muốn dùng thêm cà phê không?”

“Gì cơ ạ?” Susan nhìn xuống cái cốc cà phê còn nguyên. “Không. Tôi có đủ rồi.”

“Cô chắc chứ? Đừng ngại.”

“Tôi không ngại.”

Debbie gật đầu với chính mình vài lần rồi đứng dậy và mang trò xếp hình đến một giá sách có bốn khoang bên cạnh một cái bàn và chiếc ghế nhỏ. Tủ sách chứa đầy sách trẻ em, các trò chơi, các trò xếp hình bằng gỗ và cô đặt trò xếp hình các loại xe lên trên một số cái khác. Rồi cô quay sang kiểm tra căn phòng. Mọi thứ đã ở đúng vị trí của chúng. Cô buông tay sang hai bên. “Anh ấy không muốn rời khỏi nhà. Không thoải mái khi ở cùng những đứa trẻ. Anh ấy phải dùng thuốc trị liệu. Anh ấy có thể ngồi hàng giờ mà không làm gì cả. Tôi lo rằng anh ấy có thể làm gì đó tổn thương chính mình.”

Cô để điều đó lơ lửng trong không khí trong một phút, sau đó khuôn mặt cô bắt đầu nhăn nhó. Cô đưa một tay lên che miệng, quay đầu lại, rồi vòng cánh tay kia quanh bụng. Susan đứng dậy, nhưng Debbie lắc đầu. “Tôi ổn.” Cô mất thêm một phút rồi dùng ngón tay cái lau nước mắt, mỉm cười với vẻ xin lỗi với Susan và đi về phía bếp. Cô cầm cái máy ép của Pháp lên, kéo pít-tông ra và đổ phần cà phê còn lại vào bồn. Bật vòi nước. “Ba tháng sau khi Archie được giải cứu, Henry đến gặp bọn tôi”, Debbie tiếp tục. “Anh ấy nói với Archie rằng Gretchen Lowell đã đồng ý khai ra thêm mười thi thể nữa, những người vẫn đang mất tích, như một phần của thỏa thuận tại tòa án. Nhưng cô ta nói sẽ chỉ cung cấp địa điểm cho riêng Archie. Đó là công cụ thỏa thuận của cô ta. Archie hoặc không ai khác.” Cô rửa bình chứa, mở máy rửa chén và đặt nó lên kệ trên cùng. Rồi cô cầm pít-tông dưới dòng nước lạnh, đầu nghiêng, nhìn dòng nước cuốn trôi bã. “Cô ta là một người thích kiểm soát. Tôi nghĩ rằng cô ta thích ý tưởng có quyền kiểm soát anh ấy ngay cả khi đang ở tù. Nhưng anh ấy không nhất thiết phải làm việc đó. Henry đã nói như vậy. Mọi người đều hiểu. Nhưng Archie đã cương quyết.”

Pít-tông đã được rửa sạch, nhưng Debbie vẫn rửa lại, xoay nó dưới nước. “Anh ấy đã tham gia vụ án này trong một thời gian rất lâu, đến mức anh ấy cần phải mang lại một sự kết thúc cho các gia đình nạn nhân. Gretchen biết điều đó, tôi nghĩ vậy. Cô ta biết rằng anh ấy sẽ phải đồng ý. Nhưng còn nhiều điều khác ngoài việc đó. Khoảng một tuần sau, Henry chở anh ấy xuống Salem để gặp Gretchen. Cô ta đã giữ lời hứa. Nói với họ chính xác nơi để tìm cô gái mười bảy tuổi bị cô ta giết ở Seattle. Cô ta nói rằng mình sẽ khai ra nhiều thi thể hơn nếu anh ấy đến gặp cô ta hàng tuần, vào mỗi Chủ nhật. Henry đưa anh ấy trở về nhà vào cuối ngày hôm đó. Anh ấy đã thiếp đi và ngủ được gần mười tiếng đồng hồ. Không giật mình tỉnh dậy nữa.” Cô dành cho Susan một cái nhìn héo úa. “Ngủ ngon như một đứa trẻ. Khi tỉnh dậy, anh ấy ở trong trạng thái bình tĩnh nhất tôi từng thấy kể từ khi mọi chuyện bắt đầu. Giống như thể được gặp cô ta khiến anh ấy cảm thấy tốt hơn. Anh ấy càng đi gặp cô ta, thì càng rời xa tôi và các con. Tôi đã không muốn anh ấy tiếp tục đi xuống đó. Nó không lành mạnh. Thế nên tôi đã bắt anh ấy phải chọn. Tôi hoặc cô ta.” Tiếng cười nghẹn ngào của cô thật chua chát. “Và anh ấy đã chọn cô ta.”

Susan không thể nghĩ ra được mình nên nói gì. “Tôi xin lỗi.”

Pít-tông nằm trong bồn rửa. Debbie đang nhìn ra cửa sổ, đôi mắt đẫm lệ. “Cô ta gửi hoa cho chị. Từ một cửa hàng ở trên mạng internet. Chắc là cô ta đã gửi đơn đặt hàng cho họ trước khi bị bắt. Một tá hoa hướng dương.” Cô mếu máo. “Lời chia buồn của tôi trong dịp buồn này. Với sự trân trọng nồng nhiệt, Gretchen Lowell. Hoa được gửi đến nhà khi anh ấy đang ở bệnh viện. Tôi chưa bao giờ nói với anh ấy về điều đó. Hoa hướng dương. Loài hoa yêu thích của tôi. Tôi đã từng làm vườn. Bây giờ tôi gọi dịch vụ hết. Tôi không còn thích hoa nữa.” Cô ấy cười cứng ngắc. “Tôi không thể chịu đựng được mùi hoa nữa.”

“Chị vẫn nói chuyện với anh ấy chứ?”

“Hàng ngày, qua điện thoại. Cô muốn biết bọn tôi gặp nhau thường xuyên như thế nào không?”

“Thường xuyên như thế nào ạ?” Susan hỏi.

“Hai tuần một lần. Không bao giờ nhiều hơn thế. Đôi lúc, khi anh ấy ở cùng Ben, Sara và tôi, tôi nghĩ anh ấy muốn mở to mắt của mình ra.” Cô liếc mắt nhìn những con thú nhồi bông, cái bồn rửa, và cái quầy. “Bình thường, tôi không gọn gàng thế này đâu”, cô nói.

Susan lấy một hơi thật sâu. Cô cần phải hỏi điều này. “Vì sao chị nói cho tôi nghe tất cả những điều này, Debbie?”

Debbie cau mày suy nghĩ. “Vì Archie nhờ tôi làm như vậy.”

Khi Susan trở lại xe, điều đầu tiên cô làm là tua lại đoạn ghi âm một quãng rồi bấm nút Play để bảo đảm rằng máy ghi âm đã hoạt động. Giọng của Debbie xuất hiện ngay lập tức. “Đôi lúc, khi anh ấy ở cùng Ben, Sara và tôi, tôi nghĩ anh ấy muốn mở to mắt của mình ra.” Tạ ơn Chúa, Susan nghĩ. Cô ngồi một lúc lâu, cảm nhận rõ tim mình vẫn đập rộn ràng trong lồng ngực. Một ông bố và cô con gái nhỏ đang dắt nhau đi trên vỉa hè, lướt qua xe của cô. Cô bé dừng lại và ông bố cúi xuống bế nó lên rồi đi vào nhà, căn nhà ngay sát nhà Debbie. Susan kéo cửa xe xuống và châm một điếu thuốc. Câu chuyện này chẳng phải là rất tuyệt sao?

“Phải”, cô nói lớn, tự trả lời với chính mình. Vai trò của nhân chứng, cô tự nhắc chính mình. Tính nhân văn ở đó. Phải rồi.

Cô lấy điện thoại ra để kiểm tra các tin nhắn liên quan đến công việc. Có một tin nhắn từ Ian nói rằng dư luận bàn tán xung quanh tòa nhà, đối với câu chuyện về đội đặc nhiệm của cô là rất tích cực, và rằng anh ta đang tìm cách để có được phần ghi âm của 911 trong vụ án và sẽ có thêm thông tin gì đó vào tuần tới. Susan nhìn chằm chằm vào máy ghi âm kỹ thuật số trong tay mình. Câu chuyện thứ hai đã tự nó viết rồi. Nhưng không có tin nhắn từ văn phòng bác sĩ của Archie. Anh ta có lẽ đang bận chữa trị cho bệnh nhân hoặc làm hóa đơn khai khống cho chương trình Trợ cấp y tế. Cô mở cuốn sổ ra, tìm lại số điện thoại và quay số. “Vâng”, cô nói vào điện thoại. “Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ Fergus. Tôi là Susan Ward. Tôi gọi để hỏi về một bệnh nhân của bác sĩ, Archie Sheridan.” Rốt cuộc, cô đã vào guồng quay.