← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 23

“Tìm kiếm gì đấy?” Anne hỏi.

Cô đứng quan sát trong lúc Claire Masland đứng trên lối đi bằng xi măng của Eastbank Esplanade nhìn xuống dòng sông Willametem, nơi phát hiện ra thi thể của Dana Stamp. Claire đội mũ lưỡi trai kiểu Hy Lạp thấp xuống trên mái tóc ngắn của mình và cô đang nhìn qua sông về phía tây thành phố, nơi công viên nước hiện lên thành một dải màu xanh lá cây xung quanh các tòa nhà mới và các tòa nhà lịch sử, những thứ tạo nên hành lang trung tâm của thành phố.

“Không”, Claire nói. “Chỉ là đang hít mùi dòng sông thôi. Nước thải cũng có mùi thơm đặc biệt, phải không?”

Anne đã nhờ Claire đưa cô đến các địa điểm nơi họ tìm thấy các thi thể. Đó là thứ mà cô học được từ Archie khi họ làm việc trong vụ án Mỹ nhân đoạt mạng. Đi bộ xem hiện trường vụ án. Họ đã đến đảo Ross, đảo Sauvie và bây giờ là cuối buổi sáng, đôi giày của Anne bị ướt, chân cô thì lạnh và có vẻ như trời sắp mưa. Cô thở dài và kéo chiếc áo khoác da chặt hơn quanh người. Một người chạy bộ chạy qua, không cho hai người phụ nữ liếc nhìn lần thứ hai. Bên dưới họ, hai con hải âu bẩn thỉu khổng lồ lượn thành vòng tròn trong làn nước nâu lầy lội.

“Những địa điểm này có điều gì chung?” Anne trầm ngâm hỏi.

Claire thở dài. “Chúng đều ở trên sông Willamete, Anne ạ. Hắn có một chiếc thuyền. Chúng ta biết điều đó.”

“Như thế không thuận tiện. Đảo Ross. Rồi The Esplanade. Và đảo Sauvie. Hắn đang tạo ra một lộ trình về hướng Bắc. Nhưng tại sao? Những tên sát thủ vứt xác nạn nhân ở những nơi chúng cảm thấy an toàn. Đảo Ross và đảo Sauvie có thể cách xa khu vực hoạt động nhộn nhịp về đêm, nhưng nơi này thì không phải vậy.” Cô nheo mắt nhìn ra sau về phía đường cao tốc vượt qua phía trên đoạn giao lộ ngoằn ngoèo ở khu Esplanade và nhìn lên những con đường có đèn đang chiếu sáng Esplanade về đêm. Âm thanh từ xe cộ đi lại thì chói tai.

“Chúng ta không thể nhìn thấy bờ sông từ chỗ này”, Claire nói. “Nếu hắn ở trên một chiếc thuyền nhỏ, hắn sẽ bị che khuất khỏi bất cứ ai đi ngang qua. Vì vậy, không ai ở bên này có thể nhìn thấy hắn vứt xác nạn nhân. Và hắn cũng ở một khoảng cách quá xa để bất cứ ai từ phía bên kia có thể phát hiện ra những gì hắn đang làm.”

“Nhưng vì sao phải mạo hiểm như thế?” Anne hỏi. “Nếu có một chiếc thuyền, tại sao hắn không vứt xác ở những chỗ an toàn giống như hai địa điểm kia?”

Claire nhún vai. “Có lẽ hắn muốn chúng ta tìm thấy xác cô bé trong khoảng thời gian nhanh hơn so với Lee Robinson chăng?”

“Có thể. Nó không có nhiều ý nghĩa. Tên này là một sát thủ có đầu óc tổ chức. Có thể địa điểm đầu tiên là ngẫu nhiên, nhưng những địa điểm sau đó, chắc hẳn phải có phương pháp nào đó để lựa chọn. Vứt xác nạn nhân ở một nơi trống trải như thế này sao? Thật là mạo hiểm. Không ai hành động như thế nếu như không nắm rõ chỗ này và bảo đảm rằng có thể thoát ra khỏi nơi này mà không bị lộ. Phải có sự tính toán nào đó khi làm vậy.” Một con hải âu bất chợt kêu lớn rồi cất cánh bay khỏi mặt nước về hướng cầu Steel. Nó trừng cặp mắt lông lá nhìn Anne.

“Chị nghĩ chúng ta có bao nhiêu thời gian?” Claire hỏi.

“Trước khi hắn bắt một cô bé khác ấy hả? Một tuần, hai tuần nếu chúng ta may mắn.” Anne cài khuy áo khoác, bất chợt cô cảm thấy lạnh. “Có thể sớm hơn.”

Archie đã đọc câu chuyện của Susan sau khi anh thức dậy. Đó không phải là một bài viết tồi. Nó kích thích trí tò mò của người ngoài về cuộc điều tra. Tấm ảnh thì được. Nhưng bất chấp những điều anh đã nói với cô trước đó qua điện thoại, đó không phải là những gì anh cần. Justin Johnson? Thú vị đây. Cậu bé đã bị đánh đập, khi là một cậu bé mười bốn tuổi, vì đã bán thuốc lậu cho một mật vụ. Một ki-lô-gam thuốc lậu. Và đã thoát khỏi bị quản chế, chính điều đó cũng thật thú vị. Vì vậy họ đã phải kiểm tra cậu ta. Nhưng bằng chứng ngoại phạm của cậu ta rõ như ban ngày, do đó, tờ ghi chú không khiến Archie lo lắng bằng người đã để lại tờ ghi chú đó. Ai đó đang cố gắng thao túng câu chuyện của Susan và công tác điều tra. Một người nào đó có quyền tiếp cận vào hồ sơ tội phạm vị thành niên. Archie gọi điện yêu cầu một xe tuần tra lượn qua chỗ Susan thêm vài lượt trong một vài đêm tiếp theo. Điều đó có thể là hơi thái quá nhưng nó làm cho anh cảm thấy yên tâm hơn. Giờ thì anh đang ngồi trong phòng mình, tại văn phòng của đội đặc nhiệm, xung quanh là ảnh của những cô bé bị sát hại và hầu như vô cảm với mớ hỗn độn đang diễn ra xung quanh. Đội của anh đã kiệt sức và ngày càng mất tinh thần. Không có thêm những manh mối mới. Kent đã bị sa thải vì nói dối về hồ sơ của mình trong đơn ứng tuyển và theo cảnh sát theo dõi, anh ta đã dành 24 giờ qua để chơi guitar. Các trạm kiểm soát quanh trường Jefferson đã không có thông tin gì khác. Họ đã không thể tìm thấy bất kỳ vụ cưỡng bức ngoài bang nào phù hợp với hồ sơ điều tra của mình và cho đến nay không có một bao cao su nào được tìm thấy trên đảo Sauvie phù hợp với DNA của bất kỳ ai trên Danh mục Tra cứu Gene Tội phạm. Điện thoại trên bàn anh reo lên. Anh liếc nhìn thông tin người gọi và đó là Debbie.

“Chào em”, anh nói.

“Người viết chuyện của anh mới ghé qua. Em nghĩ là anh muốn biết chuyện đó.”

“Em có nói cho cô ấy biết tình trạng tồi tệ của anh không?”

“Em có nói.”

“Tốt.”

“Tối nay, anh sẽ gọi cho em.”

“Vâng.”

Archie cúp điện thoại. Anh đã uống sáu viên Vicodin và có một cảm giác nóng hổi phập phù ở các cánh tay và sau gáy. Làn hiệu ứng đầu tiên của codeine là tốt nhất. Nó làm cho tất cả những cảm giác đau đớn ở các cơ quan được giãn ra. Khi còn là cảnh sát tuần tra, anh đã xử lý rất nhiều sự vụ linh tinh. Người ta có thể phá kính ô tô của người khác chỉ để lấy vài đồng xu hay vài ba thứ vớ vẩn để lại trên ghế như sách vở, quần áo cũ, chai lọ, để đổi lấy tiền bồi hoàn. Họ sẵn sàng phá cửa sổ và chấp nhận mạo hiểm bị bắt chỉ vì ba mươi lăm cent. Một trong những điều đầu tiên mà một tay cớm học được, đó là ngay cả những thứ vớ vẩn nhất cũng có lý do riêng của nó. Họ sẵn sàng mạo hiểm đối mặt với một chuỗi hệ quả xấu chỉ để đổi lấy một cơ hội sửa chữa nhỏ nhoi. Điều đó khiến cho họ khó đoán. Archie chưa bao giờ hiểu hết về tâm tưởng con người. Nhưng anh cho rằng mình đang tiệm cận đến điều đó.

Đội Hardy Boys xuất hiện tại cửa văn phòng của anh khiến anh phải đả thông suy nghĩ tức thì và trở lại vẻ mặt của một cảnh sát nghiêm túc. Cả hai người họ đều háo hức. Heil tiến vài bước như đã định sẵn về phía Archie. Anh cá rằng cậu ta sẽ là người mở lời. Và anh đã đúng. “Chúng tôi đã kiểm tra danh sách nhân viên của trường mà anh đưa ngày hôm qua và một trường hợp đã lộ ra”, Heil nói.

“Kent à?” Archie bột phát hỏi. Có điều gì đó về viên giám hộ này khiến anh lo lắng.

“McCallum, giáo viên Vật lý tại trường Cleverland. Chiếc thuyền của ông ta ở một nơi không đúng chỗ.”

“Nó ở đâu?”

“Nó cháy rụi vào tối qua trong vụ hỏa hoạn ở bến thuyền gần đảo Sauvie.”

Archie nhướng mày.

“Phải”, Heil nói. “Chúng tôi cho rằng đó có thể là manh mối.

Bệnh viện Emanuel là một trong hai cơ sở y tế điều trị chấn thương của khu vực và là nơi Archie Sheridan được điều trị sau khi họ đưa anh ra khỏi tầng hầm của Gretchen Lowell. Đó là bệnh viện rất được yêu thích bởi các nhân viên cấp cứu của thành phố và thậm chí người ta còn đồn rằng rất nhiều người còn mặc những chiếc áo in dòng chữ Đưa tôi tới Emanuel, chỉ để phòng khi xảy ra rủi ro gì khiến họ phải vào viện. Cấu trúc chính của bệnh viện được xây từ năm 1915 nhưng những phần chỉnh trang sau này đã khiến những bức tường đá xưa kia giờ trở thành tường thép và cửa kính. Đó cũng là bệnh viện mà cha của Susan đã qua đời vì bệnh ung thư hạch không Hodgkin [1] , chỉ một tuần trước khi cô tháo niềng răng. Cô đậu xe trong nhà để xe dành cho khách và tìm đường đến tòa nhà văn phòng y tế, nơi mà bác sĩ của Archie đã đồng ý gặp. Khi cô đi thang máy lên tầng bốn, cô cẩn thận nhấn nút bằng khuỷu tay chứ không phải ngón tay. Người ốm thường mang mầm bệnh. Không thể không cẩn thận.

Cô phải đợi bác sĩ Fergus trong khoảng ba mươi lăm phút. Đó là một phòng chờ không đến nỗi tồi. Có không gian nhìn ra khu đồi phía Tây, núi Hout và sông Willamete uốn khúc. Nhưng nó có mùi giống như tất thảy những phòng chờ trước đây mà Susan từng đến khi cô đi cùng cha mình trong những buổi hẹn với bác sĩ. Nó giống như hoa cẩm chướng và i-ốt. Đó là loại xà phòng được dùng để che giấu mùi người sắp chết.

Một tập tạp chí InStyle được xếp chìa cánh quạt trông rất hấp dẫn ở cuối bàn, nhưng Susan cưỡng lại ý muốn đọc chúng vì sẽ lãng phí thời gian, thay vào đó, cô viết rồi viết lại phần giới thiệu cho bài báo tiếp theo vào cuốn sổ tay. Rồi cô kiểm tra tin nhắn. Không có. Cô bấm số nhanh cho Ethan Poole. Tin nhắn thoại.

“Ethan”, cô nói. “Là moa đây. Tôi gọi chỉ để hỏi xem anh đã có cơ hội nào nói chuyện với Molly Palmer chưa. Tôi sẽ lo vụ này với tư cách cá nhân.” Cô để ý thấy người thư ký của bác sĩ ném cho cô một cái nhìn cáu bẳn và chỉ tay về phía cái biển hiệu có hình chiếc điện thoại với một sọc đỏ cắt ngang. “Gọi cho tôi nhé”, cô nói. Rồi cô cúp máy và thả chiếc điện thoại vào trong ví.

Một tờ Người đưa tin được đặt lên bàn cà phê trên một tập báo U.S News & World Reports. Susan vừa mới kéo phần phía trước từ bên dưới phần Metro và đặt nó lên trên cùng, để bài báo của cô được bày ra đúng chỗ cho bất cứ ai quan tâm, thì Fergus xuất hiện với một cái nhún vai xin lỗi và một cái bắt tay ẩm ướt, ông đưa cô đi qua phòng khám và trở lại văn phòng của mình. Ông trạc tuổi trên năm mươi và để mái tóc hoa râm theo kiểu vết cắt nông, giống như một huấn luyện viên bóng đá ở trường trung học Texas vậy. Ông rảo bước rất nhanh, ở một góc tám mươi độ, ống nghe đung đưa, hai vai buông thõng và nắm tay đút trong túi áo trắng. Susan phải đi vội để theo kịp tốc độ của ông.

Văn phòng của ông bác sĩ được bài trí theo kiểu phong cách thời kỳ bùng nổ dân số giữa thế kỷ 20, và nhìn xuống đường chân trời của khu phố trung tâm nối phía tây với dãy tòa nhà công nghiệp đang dần đổ nát ở phía đông, lại thêm một đường vòng cung cắt vào giữa được tạo thành từ dòng sông lớn màu nâu. Vào một ngày quang đãng, người ta có thể đứng từ Portland và nhìn thấy rõ ba ngọn núi: núi Hood, núi Saint Helens và núi Adams. Nhưng khi người ta nói về “núi”, thì thường là để ám chỉ núi Hood và từ cửa sổ văn phòng bác sĩ Fergus, núi Hood cũng được nhìn thấy rõ nhất, một điểm nhấn không thể bỏ qua. Ngọn núi vẫn còn màu trắng do tuyết phủ, đối với Susan, trông nó như một chiếc răng cá mập cắm vào nền trời xanh vậy. Ấy thế mà, cô chưa từng tới đó trượt tuyết lần nào.

Một tấm thảm hãng Oriental thủ công đắt tiền phủ lên trên nền thảm công nghiệp; bức tường được che bằng dãy các giá sách chứa các văn bản y tế, nhưng cũng có cả tiểu thuyết đương đại và sách tôn giáo phương Đông; một bức ảnh đen trắng của bác sĩ Fergus đứng dựa vào chiếc Harley-Davidson được treo trên một bức tường, làm lu mờ các tấm bằng y khoa bên cạnh. Ít nhất, ông ấy cũng thể hiện sở thích của mình một cách thẳng thắn. Susan nhận thấy một chiếc đài phát thanh đắt tiền trên kệ sách và cô đặt cược rằng nó được dùng để chuyên bắt sóng các chương trình nhạc Rock cổ điển.

“Vậy, Archie Sheridan”, ông bác sĩ vừa nói vừa mở một tệp màu xanh trước mặt ra.

Susan mỉm cười. “Cháu tin là bác sĩ đã nói chuyện với anh ấy, phải không ạ?”

“Đúng vậy. Cậu ấy gửi fax cho tôi từ một cái máy Hippa bỏ đi.” Fergus chạm tay vào một tờ giấy trên bàn. “Thời buổi này không thể không cẩn thận với những vấn đề riêng tư được. Các công ty bảo hiểm thì muốn biết mọi thứ về người ta. Nhưng một người bạn hoặc người thân thì sao? Không thể không có hồ sơ lưu trữ đầy đủ được.”

Susan để máy ghi âm lên bàn, nhướng mày như muốn hỏi ý kiến bác sĩ Fergus. Vị bác sĩ gật đầu. Cô bấm nút Ghi. “Vậy thì, cháu có thể hỏi bác sĩ bất cứ điều gì, phải không ạ?” Cô nói.

“Tôi sẵn sàng nói cho cháu ngắn gọn về thương tật của thám tử Sheridan đã điều trị trong thời gian làm nhiệm vụ hồi tháng 11 năm 2004.”

“Bác nói đi”, Susan mở cuốn sổ ra và mỉm cười háo hức.

Bác sĩ Fergus lần theo thông tin trong hồ sơ của Sheridan. Giọng của ông cộc cằn và như kiểu thương mại vậy. “Cậu ấy đến khoa cấp cứu cùng đội cứu thương lúc 9 giờ 43 phút tối, ngày 30 tháng 11. Cậu ấy ở trong tình trạng nguy kịch. Sáu chiếc xương sườn bị gãy, các vết rách trên người, một vết sâu vào bụng, nồng độ độc tố cao đến mức nguy hiểm. Chúng tôi phải làm phẫu thuật khẩn cấp để khắc phục tổn thương ở thực quản và thành dạ dày. Khi vào phòng giải phẫu, thực quản bị tổn thương ghê gớm, cuối cùng chúng tôi buộc phải vá phần đó bằng một đoạn ruột. Và, tất nhiên, cô ta đã phải lấy đi phần lá lách của cậu ấy.”

Susan tốc kí theo mạch kể của vị bác sĩ đến tận đoạn cuối. Cô ngừng viết rồi ngước lên. “Lá lách của anh ấy ạ?”

“Chính xác. Họ đã không nói ra điều này vào thời điểm đó. Cô ta đã thực hiện một việc làm đúng nghiệp vụ y khoa là tách nguồn cung máu, sau đó mới khâu vết thương lại, nhưng có một xuất huyết nhỏ ở bên trong, vì thế chúng tôi phải mổ lại chỗ đó để khắc phục phần xuất huyết.”

Ngòi bút của Susan gần như không động đậy gì, ấn chặt lên cuốn sổ. “Các vị có thể làm được việc đó sao? Có thể cắt bỏ phần lá lách ra ấy ạ?”

“Nếu như cô từng thấy”, bác sĩ nói. “Đó là một bộ phận không cần thiết.”

“Cô ta đã làm gì”, Susan gõ ngòi bút lên trang giấy một cách lo lắng, “với cái lá lách vậy?”

Bác sĩ thở ra chậm rãi. “Tôi nghĩ nó đã được cô ta gửi cho cảnh sát. Cùng với ví của cậu ấy.”

Susan mở to mắt như không tin nổi vào tai mình và tốc ký một dòng vào sổ. “Đó là điều tồi tệ nhất mà cháu từng nghe thấy”, cô nói, lắc đầu quầy quậy.

“Đúng thế”, ông nói, ngồi rướn về phía trước, sự quan tâm về chuyên môn của ông rõ ràng bột phát. “Chuyện đó khiến chính chúng tôi cũng phải ngạc nhiên. Đó là một phẫu thuật lớn. Cậu ấy bị sốc do nhiễm trùng, sau đó các cơ quan trên cơ thể bắt đầu ngừng các chức năng hoạt động. Nếu cô ta không điều trị ngay tại chỗ, có lẽ cậu ấy đã chết rồi.”

“Cháu nghe nói cô ta đã hô hấp nhân tạo cho anh ấy”, Susan nói.

Bác sĩ Fergus nhìn cô dò xét một giây. “Đó là những gì mà các nhân viên cấp cứu nói. Cô ta đã dùng chất digitalis để ngưng nhịp tim của cậu ấy rồi lại hồi sức bằng lidocaine.”

Susan vừa co rúm người vừa nhướng về phía trước. “Vì sao ạ?”

“Tôi không biết. Nó xảy ra vài ngày trước khi chúng tôi mang được cậu ấy về đây. Đó là lúc cô ta băng vết thương lại. Cậu ấy đã được chăm sóc cẩn thận.” Ông ngừng lại một lúc, như để tìm lời diễn tả, một tay xoa lên trán. “Cô biết không. Từ thời điểm đó. Băng y tế sạch sẽ. Tất cả các vết thương được khâu lại. Cô ta đã truyền dịch cho cậu ấy, truyền cả máu nữa. Nhưng lúc đó, cô ta không thể làm được gì với chỗ nhiễm trùng. Cô ta không có thuốc kháng sinh phù hợp, hay các thiết bị để làm cho các bộ phận trong cơ thể có thể hoạt động đúng chức năng.”

“Cô ta đã lấy máu từ đâu?”

Bác sĩ Fergus nhún vai và lắc đầu. “Chúng tôi không biết. Đó không phải là nhóm máu O, một người hiến máu bất kỳ, và đó là máu tươi, nhưng chắc chắn không phải của cô ta. Còn người đàn ông bị cô ta giết trước Sheridan thì có nhóm máu AB.”

Susan viết từ “Máu? ” vào sổ tay cùng với dấu chấm hỏi. “Bác nói mức độ nhiễm độc của anh ấy là rất cao. Chính xác thì anh ấy bị nhiễm độc gì ạ?”

“Nó giống như một mớ hỗn độn vậy.” Bác sĩ liếc nhìn những dòng chữ trong hồ sơ trên tay. “Moóc-phin, amphetmines, succinylcholine, bufotenin, benzylpiperazine. Và đó là những thứ vẫn còn tồn tại trong cơ thể cậu ấy.”

Susan cố thử đánh vần chữ succinylcholine xem nó đọc ra sao. “Hệ quả của những thứ đó là thế nào ạ?”

“Nếu không biết được thứ tự của từng thứ được tiêm vào người, tôi không có cách nào tìm ra được hệ quả của chúng. Ở nhiều cấp độ khác nhau, có thể bị những chứng như mất ngủ, bồn chồn, tê liệt, ảo giác và có thể là ‘phê’.”

Susan cố gắng tưởng tượng điều đó sẽ như thế nào. Một mình, đau đớn. “Phê” đến nỗi tâm trí không hoạt động được. Hoàn toàn phụ thuộc vào kẻ đang giết bạn. Cô dò xét bác sĩ Fergus. Thật sự thì không phải ông đang nói chuyện. Nhưng cô thích ông vì ông đã bảo vệ Archie. Chúa ơi, phải có ai đó làm vậy. Cô nghiêng đầu và nở nụ cười rạng rỡ nhất theo kiểu hãy-thú-nhận-đi. “Bác thích anh ấy phải không? Archie ấy ạ?”

Bác sĩ Fergus liếm môi. “Tôi không chắc là Archie còn có thêm bạn bè nữa không. Nhưng nếu có, tôi nghĩ cậu ấy sẽ đếm tôi trong số những bạn bè của mình.”

“Bác nghĩ sao về việc cháu đang làm? Viết câu chuyện này? Viết về những việc đã xảy ra với anh ấy?”

Bác sĩ Fergus ngả lưng ra sau ghế và vắt tréo chân. Ngọn núi lấp lánh trong ánh mặt trời phía sau ông. Sau một thoáng, sẽ không ai để ý đến điều đó. “Tôi cố giải thích để cậu ấy thoát ra khỏi chuyện đó.”

“Anh ấy phản ứng thế nào ạ?” Cô hỏi.

“Tôi không thể tác động được gì đến cậu ấy.”

“Nhưng bác cũng không hoàn toàn mở lòng với cháu, phải không ạ?”

“Cậu ấy chưa bao giờ nói với tôi rằng tôi phải nói tất cả mọi thứ với cháu. Cậu ấy là bệnh nhân của tôi. Và tôi sẽ chọn sự an vui cho cậu ấy hơn là những câu chuyện trên báo của cháu. Bất chấp điều mà cậu ấy muốn. Ở đây, chúng tôi đã phải đối mặt với rất nhiều áp lực trong bệnh viện vào cái tuần sau khi Archie được tìm thấy. Các nhân viên của tôi đều cho rằng tất cả những thứ đó là từ phòng Quan hệ Công chúng của bệnh viện. Cháu biết tại sao không?”

Đợi đã, mình biết điều này, Susan nghĩ. “Vì phóng viên là những con kền kền hám ăn, sẵn sàng cho tất cả lên mặt báo mà chẳng cần mảy may suy xét đến sự liên quan, ý nghĩa, hay tính xác thực của những thông tin đó.”

“Đúng vậy.” Bác sĩ Fergus liếc nhìn chiếc đồng hồ năm trăm đô la trên tay. “Nếu cháu muốn biết nhiều hơn, cháu có thể hỏi chính nhân vật của mình. Bây giờ tôi phải đi. Tôi là bác sĩ và tôi còn nhiều bệnh nhân đang chờ. Cháu nên thấy cảnh chữa trị cho họ như thế nào. Bệnh viện sẽ đặt câu hỏi ngay nếu tôi không nỗ lực làm việc.”

“Vâng ạ”, Susan nói vội. “Chỉ thêm vài câu hỏi thôi ạ. Thanh tra Sheridan có còn theo lộ trình điều trị nữa không ạ?”

Bác sĩ Fergus nhìn vào mắt cô. “Không thứ gì có thể cản trở năng lực làm việc của cậu ấy.”

“Tuyệt vời. Vậy thì cháu hiểu rằng ý bác muốn nói Gretchen Lowell đã tra tấn, giết anh ấy rồi lại hồi sinh, chăm sóc cho anh ấy trước khi gọi 911, phải không ạ?”

“Đó là những gì tôi muốn nói”, bác sĩ Fergus nói.

“Và Sheridan xác nhận điều này?” Susan hỏi.

Bác sĩ Fergus ngả lưng ra sau ghế thêm nữa, các ngón tay đan vào nhau đặt trước ngực. “Cậu ấy không nói thật những điều đã xảy ra với mình. Cậu ấy nói rằng không nhớ được nhiều.”

“Bác không tin điều đó ạ?”

Bác sĩ Fergus nhìn thẳng vào mắt cô. “Điều đó là vớ vẩn. Và tôi đã nói thẳng vào mặt cậu ấy như thế.”

“Bác thích bộ phim nào ạ?” Susan hỏi.

“Gì cơ?”

Susan mỉm cười vui vẻ, như thể đó chẳng phải là câu hỏi lạ lẫm gì. “Bộ phim yêu thích của bác.”

Vị bác sĩ tội nghiệp có vẻ như hơi hoang mang một chút. “Thực ra tôi cũng chẳng có thời gian xem phim”, rốt cuộc ông nói. “Tôi đi trượt tuyết.”

“Ít nhất thì bác cũng không vẽ ra chuyện gì”, Susan vừa nói vừa gật đầu thỏa mãn. Người ta dường như luôn dối trá về chuyện phim ảnh. Susan hay nói với mọi người rằng bộ phim ưa thích của cô là Annie Hall, và cả đời cô chưa từng xem bộ phim đó. “Cảm ơn bác đã dành thời gian cho cháu, bác sĩ.”

“Chuyện nhỏ mà”, bác sĩ Fergus thở dài.