← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 30

Gần 9 giờ sáng, Susan tỉnh dậy với cơn đau đầu như búa bổ và cơn buồn nôn quay cuồng. Cô đã nốc sạch chai pinot vào cái dạ dày trống rỗng. Tại sao cô lại làm điều đó với chính mình? Cô rón rén ngồi dậy, lảo đảo bước vào phòng tắm, sau đó rót một ly nước lớn, uống ba viên ibuprofen và đánh răng. Miếng băng y tế dán trên ngón tay đã rơi ra trong đêm và cô kiểm tra vết thương, miệng nó đã biến thành hình lưỡi liềm màu đỏ xấu xí. Cô ngậm nó trong một phút, máu trong miệng, cho đến khi vết cứa gần như không thể nhìn thấy.

Sau đó, cô lững thững đi vào bếp, đặt một bình cà phê lên bếp và ngồi xuống sofa màu xanh của Đại văn hào. Vẫn còn quá sớm để ánh sáng có thể chiếu qua chiếc cửa sổ hướng về phía bắc, nhưng cô có thể nhìn thấy bầu trời xanh phía tòa nhà đối diện bên kia đường. Những cái bóng dài thấp thoáng trên phố và vỉa hè bên dưới. Nắng, đối với Susan, luôn có vẻ đáng ngại. Cô đang uống dở cốc cà phê thứ hai thì chuông cửa reo.

Susan quấn mình trong bộ ki-mô-nô và trả lời tiếng gọi cửa thì thấy Henry Sobol đứng bên ngoài. Cái đầu hói của anh vừa mới cạo, bóng loáng.

“Cô Ward”, anh nói. “Cô có rảnh vài giờ không?”

“Để làm gì?”

“Archie sẽ giải thích. Cậu ấy ở trong xe dưới lối đi xuống kia. Tôi không thể tìm thấy chỗ nào để đậu xe cả. Khu phố này đầy rẫy những tay hàng xóm Yuppie dạo bộ.”

“Vâng. Họ rất dữ tợn đấy. Anh đợi tôi vài phút thay đồ nhé.”

Anh cúi người lịch sự. “Tôi sẽ đợi ở đây.”

Susan đóng cửa lại rồi vào phòng ngủ thay đồ. Cô nhận ra mình đang cười toe toét. Việc này hẳn là tốt. Nó đồng nghĩa với một sự đột phá trong vụ án. Nó có nghĩa là sẽ có nhiều tài liệu hơn. Cô mặc một chiếc quần bó phom bên trong và quần jean rách ống bên ngoài, chiếc áo sơ mi sọc trắng đen dài tay mà cô nghĩ trông giống kiểu Pháp, cô lấy lược chải qua mái tóc hồng.

Cô lấy một đôi giày cao bồi từ tủ đựng đồ, lấy máy ghi âm kỹ thuật số và sổ tay, cô nhét cả chai ibuprofen vào trong túi rồi đi ra cửa.

Chiếc xe Crown Victory không biển số của Henry đang đậu trước tòa nhà, Archie ngồi ghế sau, chăm chú nhìn xuống một vài tập hồ sơ trên đùi. Mặt trời giữa mùa đông trông giống một cục màu trắng trên nền trời nhợt nhạt quang mây và chiếc xe trở nên lấp lánh giữa những ánh sáng đó. Susan ngước lên nhìn đầy thất vọng trong lúc chui vào xe. Lại thêm một ngày đẹp trời chết tiệt.

“Xin chào”, cô nói, đeo cặp kính chống nắng quá khổ. “Chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ?”

“Cô viết về Gretchen Lowell”, Archie vào thẳng vấn đề.

“Vâng.”

“Tôi đã yêu cầu cô là không được làm vậy.”

“Tôi là một phóng viên”, Susan nhắc nhở. “Tôi chỉ đang cố thu thập thông tin mà thôi.”

“Chà, lá thư và câu chuyện của cô đã kích động cô ta và cô ta muốn gặp cô.”

Cơn đau đầu của Susan lập tức biến mất. “Thật hả?”

“Cô sẵn sàng cho chuyện đó chứ?”

Cô cúi người về phía trước, lách vào giữa hai ghế trên. “Anh đùa đấy hả? Khi nào? Bây giờ à?”

“Đó là nơi chúng ta sẽ đến.”

“Chà! Vậy thì đi thôi”, cô nói. Biết đâu, sau vụ này cô có thể viết hẳn một cuốn sách.

Archie quay sang nhìn trực diện Susan, khuôn mặt anh nghiêm trọng và hốc hác đến nỗi đủ sức phá tan phút giây hưng phấn tức thời của cô. “Gretchen có tinh thần rất mạnh mẽ. Cô ta tò mò về cô nhưng chỉ là phương diện để xem liệu cô ta có thể thao túng cô đến mức nào. Nếu cô tham gia, cô sẽ phải theo sự hướng dẫn của tôi và phải kiềm chế bản thân mình.”

Susan tự ép bản thân để khuôn mặt trở lại vẻ nghiêm túc một cách chuyên nghiệp. “Tôi vốn được mọi người biết đến vì sự kiềm chế của tôi mà.”

“Rồi tôi sẽ hối hận với quyết định này”, Archie nói với Henry.

Henry mỉm cười, lật một cặp kính chống nắng phản quang kiểu phi công từ chóp mũ xuống sống mũi rồi lái xe đi khỏi khúc cua.

“Mà này, làm sao các anh biết chỗ ở của tôi?” Susan hỏi trong lúc chiếc xe đang chạy lên đường cao tốc nhắm tới hướng nam.

“Tôi phát hiện ra chỗ cô mà”, Archie đáp.

Susan mừng thầm rằng Ian không có ở đó. Điều đó không giống như kiểu chỗ cô ở không có những thứ mà một nơi lẩn tránh cần phải có và nếu Henry nhìn thấy Ian thì anh ấy sẽ nói ngay cho Archie biết. Chỉ là vì nếu như thế thì Archie biết rằng cô đang lợi dụng Ian và điều đó không có nghĩa rằng cô muốn Archie phải lưu ý là có Ian bên cạnh cô. Cô ước gì mình đã không nói ra những lời vừa rồi. “Chà! Một điều tốt là tôi sống một mình”, cô nói. “Như thế thì tôi có thể bỏ lại mọi thứ ngay lập tức.”

Từ góc nhìn hẹp nơi khóe mắt, cô nghĩ rằng cô thấy Henry mỉm cười.

Mắt Archie vẫn chăm chú trên tập hồ sơ không rời một phút.

Susan cảm thấy nóng mặt.

Mất một giờ đồng hồ lái xe tới nhà tù. Cô khoanh hai tay, ngả lưng ra sau, và cố hướng sự tập trung ra ngoài ô cửa kính. Nhưng chuyện đó không kéo dài được lâu. “Này”, cô nói. “Các anh có biết rằng Portland suýt chút nữa được đặt tên là Boston không? Hai người sáng lập đã tung đồng xu để quyết định điều đó. Một người đến từ Portlan, bang Maine. Người kia đến từ Boston. Đoán xem ai thắng.” Không ai trả lời. Susan mân mê mấy sợi chỉ trắng quanh vết rách trên chiếc quần. “Thật là mỉa mai”, cô nói. “Vì Portland thường được nhắc đến là Boston của Bờ Tây.” Archie vẫn đang đọc. Tại sao cô không ngừng nói được nhỉ? Cô tự hứa với bản thân rằng cô sẽ không thốt ra thêm bất kỳ một lời nào nữa trừ khi một trong hai người kia mở miệng hỏi trước.

Đó là một chuyến đi lặng lẽ.

Nhà tù bang Oregon là một khuôn viên có các tòa nhà màu trắng đục như xương sụn nằm ngay sát đường cao tốc phía sau bức tường phủ đầy dây thép gai nhọn. Ở đây nhốt cả phạm nhân phạm tội ở mức độ tối đa đến tối thiểu, cả nam và nữ, và đang chỉ có tử tù duy nhất của bang. Susan đã lái xe qua đó hàng chục lần trong các chuyến đi từ trường đại học về thăm nhà, nhưng cô chưa bao giờ có dịp ghé vào đó, nếu không thì cô sẽ vồ ngay cơ hội để nhảy vào xem thế nào. Henry đỗ xe ở khu vực dành cho xe cảnh sát gần lối vào nhà tù. Một người đàn ông trung niên mặc quần kaki bó và áo sơ mi golf đứng trên bậc của một trong những tòa nhà chính, dựa vào lan can, khoanh tay. Anh ta có những nét mềm mại và một mái tóc mượt với cái bụng luôn ép chặt vào áo. Một chiếc điện thoại di động trong bao da ngộ nghĩnh được kẹp vào thắt lưng quần. Một luật sư, Susan nghĩ một cách dứt khoát. Anh ta bước về phía trước khi Archie, Henry và Susan ra khỏi xe.

“Cô ta hôm nay thế nào?” Archie hỏi trước.

“Hung tợn”, viên luật sư nói. Mũi anh ta đang chảy nước và anh ta thấm nó bằng một chiếc khăn tay trắng màu. “Giống như Chủ nhật hàng tuần. Cô phóng viên đó hả?”

“Vâng.”

Anh ta chìa bàn tay đầy mụn về phía Susan và cô bắt tay anh ta bất chấp việc đó. Anh ta có cái bắt tay chắc nịch và đúng mực, giống như một người có ý định khởi đầu mối quan hệ từ cái bắt tay chuẩn mực đó. “Tôi là Darrow Miller. Trợ lý DA.”

“Darrow?” Cô ngạc nhiên nhắc lại.

“Vâng”, giọng anh ta không chút thắc mắc. “Tên của anh trai tôi là Scopes. Và đó là điều khác biệt duy nhất giữa chúng tôi.”

Susan vật vã bám theo khi cả nhóm nhanh chóng đi vào tòa nhà chính, rẽ qua các góc và leo lên cầu thang với tốc độ của những người thường đi qua lối đó thường xuyên đến nỗi mỗi bước đi đều như kiểu một phản ứng thông thường của cơ thể. Họ phải đi qua hai điểm kiểm soát an ninh. Ban đầu, một nhân viên an ninh kiểm tra danh tính của họ, ghi lại tên họ vào máy tính rồi đóng dấu tay cho họ. Archie và Henry giơ cánh tay lên, lách qua nhân viên an ninh mà không hề ngắt quãng câu chuyện. Một nhân viên bảo vệ ngăn Susan lại, cô vẫn còn tụt lại phía sau vài bước. Người bảo vệ trông nhỏ con nhưng nhanh nhẹn, đứng với hai nắm tay dựa trên hông như một nhân vật hành động.

“Cô đã đọc nội quy chưa?” Anh ta hỏi cô chậm rãi như nói chuyện với một đứa trẻ. Nhưng anh ta thấp hơn cô nên phải ngước mặt lên để nói chuyện.

Susan cứng họng.

“Không sao đâu Ron”, Archie xen vào, quay người lại. “Cô ấy đi cùng tôi.”

Người bảo vệ nhỏ con nhai nhai một lúc, liếc nhìn Archie, rồi gật đầu và lùi lại dựa vào tường. “Không ai đọc nội quy cả”, anh ta lầm bầm.

“Tôi đã làm gì à?” Susan hỏi khi họ tiếp tục di chuyển.

“Họ không thích những người tới thăm tù nhân mà lại mặc áo có sọc”, Archie giải thích. “Các tù nhân mặc đồng phục tù màu xanh có sọc và điều đó có thể dẫn đến sự nhầm lẫn.”

“Nhưng áo tù nhân của họ đâu có kiểu sọc diêm dúa như của tôi?”

“Cô sẽ ngạc nhiên đấy”, anh nói và mỉm cười. “Những người giới tính không rõ ràng ở đây rất sáng tạo.”

Họ đi tới một máy dò kim loại. Một lần nữa, những người đàn ông đi qua mà không gặp trục trặc gì. Tuy nhiên, Susan thì bị một nữ bảo vệ to béo ra hiệu yêu cầu dừng lại. “Cô mặc áo ngực chứ?” Người bảo vệ hỏi.

Susan đỏ mặt. “Gì cơ ạ?”

Chị ta nhìn Susan chằm chằm, ngán ngẩm. “Áo ngực có dây kim loại bên trong thì không được - chúng sẽ bị máy dò kim loại phát hiện.”

Phải chăng đó chỉ là sự tưởng tượng của Susan, hay thực ra là tất cả mọi người đều đang dán mắt vào bộ ngực của cô? “Ồ. Không. Tôi thuộc tuýp các cô gái mặc yếm mà. Tôi không thể tìm thấy loại áo ngực vừa với mình. Cô biết đấy. Chỗ đó nhỏ như cái cốc, còn vai thì lại rộng.” Susan mỉm cười lém lỉnh. Bầu ngực của chị bảo vệ kia cũng thuộc loại ngoại cỡ, chẳng khác gì hai quả dưa hấu. Có lẽ chị ta cũng gặp phải vấn đề tìm được áo ngực phù hợp chăng.

Người bảo vệ nhìn Susan thêm một tích tắc nữa, hai mắt mở lớn rồi thở dài. “Cô có mặc áo ngực có dây kim loại bên trong không?” Chị ta hỏi lại lần nữa.

“Không.”

“Thế thì cô đã vượt qua cái máy dò này rồi.”

“Chúng ta đến nơi rồi”, Archie nói. Anh mở một cánh cửa màu xám và Susan bước vào. Theo sau là Henry và anh chàng luật sư. Đó là một phòng quan sát có các bức tường bê tông, với một tấm kính nhìn thấu một chiều có khổ rõ lớn dẫn sang một căn phòng khác. Nó chẳng khác nào trên ti vi. Susan cảm thấy hào hứng. Căn phòng thật nhỏ, trần nhà thì thấp và một chiếc bàn kim loại dài có thể gập lại được đặt sát vào cửa sổ chỉ để lại một khoảng không gian bé xíu lớn hơn lối đi trên máy bay một chút để đi lại. Một người đàn ông gốc Tây Ban Nha ngồi trên chiếc ghế đẩu, đối diện với màn hình máy tính và tivi với nguồn cấp dữ liệu mạch kín từ camera gắn trên trần phòng. Anh ta có một suất ăn từ Taco Bell trải ra cẩn thận trước mặt. Khăn ăn tẩy trắng xếp chồng lên nhau. Gói nước sốt nóng xếp thành hàng. Một suất taco đã ăn hết một nửa, một suất khác còn nguyên xi. Thức ăn tràn ngập căn phòng nhỏ gọn với mùi đậu nghiền và nước sốt nóng giá rẻ.

“Đó là Rico”, Archie nói.

Rico mỉm cười với Susan. “Tôi là bạn nối khố của cậu ấy”, Rico nói.

“Tôi nghĩ Henry mới là bạn nối khố chứ”, Susan trả lời.

“Không đâu, trời ơi”, Rico nói. “Anh ấy là cộng sự, còn tôi mới là bạn nối khố.”

Archie nở một nụ cười không rõ nét lắm. “Đợi đây nhé”, anh nói với Susan. “Tôi sẽ quay trở lại sau một lát nữa.” Anh quay người rồi đi ra khỏi cửa.

“Để gặp Nữ hoàng ác quỷ đó mà”, Rico nói, hất cằm về phía căn phòng phía sau tấm kính một chiều.

Susan tiến lại gần tấm kính một chiều và lần đầu tiên được nhìn thấy Gretchen Lowell một cách rõ nét. Ả ngồi đó. Một điệu bộ đĩnh đạc, nhưng không hoàn toàn ăn nhập trong chiếc quần denim và chiếc áo cánh denim với dòng chữ Tù nhân in ở phía sau. Susan đã từng thấy những tấm hình của cô ả, tất nhiên rồi. Cánh truyền thông thích trưng những tấm hình của ả vì ả xinh đẹp. Một kẻ sát nhân hàng loạt. Một sự kết hợp hoàn hảo. Và chẳng phải đa phần những phụ nữ xinh đẹp quyến rũ đều có khả năng giết người hay sao? Những tấm hình đó phần nào đáng phải nghi ngờ. Nhưng giờ thì Susan có thể nhìn thấy tận mắt rằng thậm chí ở ngoài đời ả còn quyến rũ hơn nhiều. Ả có đôi mắt lớn, màu xanh nhạt, những đường nét trên cơ thể đối xứng một cách hoàn hảo, gò má rộng, mũi dài và cao, khuôn mặt hình trái tim với điểm nhấn là chiếc cằm thanh tú. Da thịt ả không thấy màu máu. Mái tóc của ả, vốn dĩ là màu vàng hoe, giờ đã trở thành màu vàng đậm hơn và được chải lại thành kiểu đuôi ngựa cao, khoe chiếc cổ dài quý phái. “Cô ta không đẹp”, câu nói đó không phải dành cho ả. Xinh đẹp ngụ ý một cái gì đó nữ tính, Gretchen Lowell xinh đẹp theo cách rất mặn mà, tinh tế và đầy tự tin. Nó còn hơn cả đẹp; nó mang quyền năng của cái đẹp. Ả khai mở cho khái niệm cái đẹp và làm cho nó trở nên rạng rỡ. Susan như bị bỏ bùa mê.

Susan nhìn qua cửa kính, tán dương, khi Archie bước vào phòng, đầu anh cúi xuống, tay kẹp tập hồ sơ. Anh quay lại đóng cánh cửa thép phía sau và đứng một lúc đối diện với cánh cửa đóng kín, như thể đang thu mình lại. Rồi anh hít một hơi, đứng thẳng và quay về phía người phụ nữ ấy. Khuôn mặt anh trở nên tập trung nhưng thư thái, như một người đàn ông gặp lại người bạn cũ để uống cà phê. “Chào cô, Gretchen”, anh nói.

“Chào buổi sáng, anh yêu.” Ả nghiêng đầu và mỉm cười. Sự biểu cảm bất ngờ làm cho những đường nét trên cơ thể như lấp lánh hơn nữa. Đó không phải là một nụ cười nữ hoàng sắc đẹp giả tạo. Đó là một biểu hiện chân thực của sự ấm áp và niềm vui. Hoặc, Susan ngẫm nghĩ lại, ả thực sự là một chuyên gia giả tạo, một nụ cười nữ hoàng sắc đẹp giả. Gretchen nhấc hai tay từ đùi đặt lên mặt bàn và Susan có thể thấy rõ rằng chúng đang bị cùm. Susan cúi đầu nhìn xuống và nhận ra đôi chân Gretchen cũng bị cùm nốt. Đôi mắt xanh của Gretchen mở to tinh nghịch. “Cưng có mang cho em bất cứ thứ gì không?” Ả hỏi Archie.

“Lát nữa, tôi sẽ đưa cô ấy vào đây”, Archie nói và Susan rùng mình nhận ra họ đang nói về cô.

Archie tiến về phía bàn và rất cẩn thận mở cặp hồ sơ mà mình mang theo rồi trải ra năm tấm hình khổ tám nhân mười trước mặt Gretchen.

“Cái nào là cô ấy?” Anh hỏi.

Gretchen nhìn đáp lại ánh nhìn của anh một hồi, khuôn mặt của ả đầy vẻ phòng thủ bẩm sinh. Rồi, chỉ với một ánh nhìn gần như liếc thoáng qua, ả với tay ra đặt lên một tấm hình.

“Đó”, ả nói. Ả cười lớn hơn. “Giờ chúng ta chơi được chưa?”

“Tôi sẽ quay lại ngay”, Archie nói.

Anh trở lại phòng quan sát và giơ tấm hình mà Gretchen vừa chọn lên. Tấm ảnh đó là của một cô gái gốc La-tinh, có lẽ ở độ tuổi hai mươi, với mái tóc ngắn màu đen và nụ cười đầy thơ ngây. Cô gái vòng tay ôm cổ một người khác, đã bị cắt khỏi tấm hình, và toát ra vẻ hạnh phúc. “Cô gái đó”, Archie nói.

“Ai cơ?” Susan hỏi.

Rico xoay người trên ghế. “Gloria Juarez. Mười chín tuổi. Sinh viên. Cô ấy biến mất ở Utah năm 1995. Gretchen cho chúng tôi cái tên của cô gái hồi sáng nay. Cô ta nói sẽ tiết lộ nơi để tìm thi thể nếu chúng tôi đưa cô tới đây.”

Susan bối rối. “Sao lại là tôi?”

“Vì tôi”, Archie trả lời. Anh chớp mắt một cách chậm chạp và đưa tay vuốt mái tóc đen rồi nhìn lên trần nhà một lúc trước khi tiếp tục. “Cô ta chưa từ bỏ một thi thể nạn nhân trong gần sáu tháng nay. Tôi nghĩ rằng một câu chuyện được viết trên tờ Người đưa tin sẽ làm cô ta kích động chút ít. Cô ta rất dễ sinh lòng ghen tị. Tôi nghĩ rằng nếu cô ta biết tôi đang gần gũi với một phóng viên, đủ gần để nói về những chuyện gì đó, cô ta sẽ phản ứng lại bằng cách cho tôi”, anh ngừng lại, như thể để cân nhắc từ ngữ một cách cẩn thận, “một dấu hiệu cho sự thương hại của cô ta.”

Susan nhìn quanh căn phòng nhỏ. Tất cả mọi người đều đang nhìn cô. Chờ đợi xem cô sẽ làm gì, “Một cái xác á?”

“Đúng vậy. Cô ta chưa từng nói cho ai biết ngoại trừ tôi trong suốt một năm qua.” Anh nhún vai bất lực. “Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ rằng cô ta sẽ đề nghị với tôi là được gặp cô.”

Cô đã bị dắt mũi. Susan thấy một cảm giác tự tôn nổi rần lan khắp người mình. Archie đã lợi dụng cô. Cô lùi lại một bước, cách xa anh. Cô đã tin tưởng anh. Và anh đã lợi dụng cô. Đó là một cảm giác quen thuộc đến kỳ lạ. Không ai nói gì. Cô đưa tay kéo tóc mình, thắt nút quanh ngón tay cho đến khi nó đứt ra. Darrow, tay luật sư, xoa xoa cái cổ hồng hào và hắt hơi. Rico thì nhìn bữa trưa của mình. Henry dựa vào tường, khoanh tay, chờ đợi một gợi ý nào đó từ Archie. Tất cả họ đều biết. Điều đó chỉ làm cho sự việc tồi tệ hơn.

Susan liếc qua tấm kính nhìn Gretchen. Gretchen đang nhìn vào bàn. Một hình ảnh của sự trói buộc. Sự vượt trội mang tính bẩm sinh. Tại sao ả phải trông thật hoàn hảo? “Đó là lý do anh đồng tình với hồ sơ này phải không?” Susan hỏi Archie, cố gắng giữ giọng mình thấp nhất có thể. “Anh nghĩ rằng nó sẽ khiến cô ta nói cho anh biết những cái xác đang ở đâu ư?”

Archie tiến một bước về phía Susan. “Cô ta nghĩ tôi càng chia sẻ với cô nhiều, cô ta càng muốn củng cố quyền kiểm soát của mình, và cô ta sẽ càng nói ra nhiều hơn về những nạn nhân kia.” Anh liếc qua tấm kính nhìn Gretchen và dừng lại ở đó. Rồi quay lại Susan. “Cô ta đã đề cập đến những câu chuyện của cô. Cô ta đọc bài báo của cô. Đó là lý do tại sao tôi chọn cô.” Bên dưới mi mắt nặng nề, đôi mắt anh chứa đầy sự hối lỗi, quyết tâm và một cái gì đó khác nữa. Một cái gì đó qua những biểu hiện của anh, một cái gì đó chỉ thoáng qua trong nửa giây. Là khi ánh mắt đó bắt gặp ánh mắt Susan. Chúa ơi, anh ấy lại phê. Cô nghĩ.

“Hãy giúp tôi”, anh nói.

Anh “phê” vì những viên thuốc. Cô có thể thấy anh theo dõi ả đăng kí mua nó. Chúng là những viên thuốc kê theo toa. Nhưng anh không định đưa ra bất kỳ lời giải thích nào. Anh cười. “Chết tiệt”, anh nói, một tay đưa lên dụi hai mắt. Anh dựa trán vào tấm kính và nhìn Gretchen Lowell. Không ai nói một lời nào. Susan nghĩ cô đang nghe thấy tiếng đồng hồ tích tắc của ai đó. Viên luật sư hỉ mũi. Cuối cùng, Archie quay đầu lại nhìn Susan. “Lẽ ra tôi không nên đưa cô tới đây. Tôi xin lỗi.”

Susan hất cằm về phía tấm kính. “Cô ta muốn gì ở tôi?” Cô hỏi.

Archie nhìn Susan. Anh đưa tay xoa mép rồi đưa lên vuốt tóc. “Cô ta muốn xoay cô. Xem cô biết được đến đâu.”

“Về anh.”

Anh gật đầu vài cái. “Đúng vậy.”

“Anh muốn tôi nói gì với cô ta?”

Anh nhìn thẳng vào mắt cô. “Sự thật. Cô ta có tài năng phát hiện. Nhưng nếu cô đi vào trong đó, cô ta sẽ chơi cô đấy. Cô ta chẳng tử tế gì. Và chắc chắn sẽ không ưa cô tí nào.”

Susan cố mỉm cười. “Tôi quyến rũ mà.”

Khuôn mặt láu cá của Archie trở nên nghiêm trọng hết mức. “Cô ta sẽ cảm thấy bị cô đe dọa và sẽ hẹp hòi với cô. Cô cần hiểu điều đó.”

Susan đặt bàn tay lên tấm kính đúng chỗ mà đầu của Gretchen nằm lọt vào trong khoảng giữa ngón cái và ngón trỏ. “Liệu tôi có thể viết bài về việc này không?”

“Tôi không thể ngăn cản cô.”

“Thật chứ.”

“Nhưng không được mang theo bút.” Archie nói chắc nịch.

“Vì sao?”

Anh nhìn Gretchen qua tấm kính. Susan có thể thấy rõ mắt anh lướt trên cơ thể, cổ, cánh tay, rồi tay của ả. Điều đó khiến cô liên tưởng tới một ai đó đang lần lữa để không phải rời xa người tình của mình. “Vì tôi không muốn cô ta dùng nó đâm vào cổ họng cô.”