← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 33

Susan cuộn xuống khỏi người Ian và nằm xuống giường. Ngay khi về đến nhà, cô đã gọi cho Ian và anh ta băng đến chỉ trong một giờ đồng hồ. Còn chưa kịp chào nhau, đôi môi cô đã dán chặt vào môi anh ta. Susan phát hiện ra rằng tình dục là phương thuốc tuyệt vời để trị liệu mọi căng thẳng, và nếu Gretchen Lowel có biết rồi thở ra những lời về chuyện này thì cô cũng kệ cho ả muốn làm gì thì làm.

Ian nhặt cặp kính trên chiếc bàn bên cạnh giường, đeo lên mắt. “Việc đó thế nào rồi?” Anh ta hỏi.

Susan chẳng thèm đắn đo một giây, cô kể luôn cho Ian nghe về Reston và câu chuyện mà Gretchen đã dắt mũi cảm xúc của cô đến mức thậm chí ả dường như chẳng phải tốn một tí công sức nào. “Mọi chuyện có lẽ đã tốt hơn”, cô nói. Cô quờ quạng một hồi trên cái bàn cạnh giường cho đến khi tìm thấy một nhúm thuốc lá trần hút dở đang trên cái khay nhỏ đặt trên tập giấy in Tuyển tập các bài thơ của William Stanford. Cô châm lửa đốt chúng và hít vào. Cô thích hút kiểu thuốc lá trần như vậy. Nó làm cho cô có cảm giác phóng túng!

“Cô có nghĩ là cô hút thuốc quá nhiều rồi không?” Ian hỏi.

“Chúng ta đang ở Oregon mà”, Susan nói. “Đây chẳng phải là thứ nông phẩm xuất khẩu chính của mình hay sao.” Cô cười. “Tôi chỉ đang ủng hộ bà con mình thôi.”

“Cô không còn là sinh viên nữa rồi, Susan.”

“Chính xác”, Susan thốt ra, giọng bực bội. “Mọi người ở trường đại học đều hút thuốc lá này. Chuyện đó quá bình thường. Ra trường có đứa còn hít cần sa, vì chuyện đó thể hiện một mức độ trưởng thành. Hơn nữa, mẹ tôi cũng hút thuốc lá.”

“Cô còn mẹ hả?”

Susan mỉm cười. “Tôi sẽ giới thiệu cho anh, nhưng bà ấy không tin tưởng cánh đàn ông mày râu nhẵn nhụi đâu.”

Ian lấy cái quần từ dưới sàn rồi mặc vào. Anh ta cũng chẳng lấy gì làm buồn phiền vì có thể sẽ không gặp được Bliss. “Cô có thu lượm được gì từ buổi nói chuyện với Mỹ nhân đoạt mạng không?”

Susan cảm thấy như cơn buồn nôn cuộn lên trong cổ họng khi nghĩ đến vụ gặp gỡ với Gretchen và cô cố nuốt chúng xuống. “Anh mất nhiều thời gian suy nghĩ mới hỏi chuyện đó nhỉ.”

“Tôi coi chuyện đó là bình thường mà”, Ian nói. “Như thể là tôi quan tâm đến tấm thân của cô nhiều hơn cái câu chuyện đình đám nhất nhì mà tôi từng biên tập đấy.”

Susan vui sướng vì được khen khéo, người cô đang ở tư thế thư giãn, lưng hơi cong lên còn hai tay chống lên cặp mông của mình. “Như thế ấy hả.”

“Vậy cô đã biết những gì?”

Bụng cô thắt lại một lần nữa. Cô thu người lại, rồi nằm ngả ngang giường, cô kéo tấm chăn mỏng lên người. “Tôi là một phóng viên tồi. Tôi đã hoàn toàn để cho cô ta dắt mũi mình.”

“Nhưng ít nhất cô cũng thu lượm được vài mẩu tin chứ, đúng không? Đối mặt với ả sát thủ máu lạnh như thế cơ mà, bao nhiêu thứ.”

Cô nhổm dậy, chống hai khuỷu tay, tay cầm điếu thuốc lá cuộn giơ ra khỏi mép giường. Một mẩu tro tàn rơi xuống sàn nhà, đậu lên một trong những tấm thảm được mua từ eBay của Đại văn hào. Susan nhìn nó rơi mà chẳng thèm mảy may nghĩ đến việc nhặt nó lên. “Ồ, có. Cô ta phi tang một xác nạn nhân khác. Một cô sinh viên ở Nebraska.” Susan hồi tưởng lại cô gái đang cười trong tấm ảnh. Chiếc huy hiệu hòa bình. Một cánh tay của ai đó vòng qua cổ cô gái, đã bị bỏ lại phía sau khi cô ấy ra đi và người đó đã bị cắt khỏi tấm ảnh. Cô tự trấn an bản thân thêm một lần nữa rồi lại đốt thuốc và hít một hơi thật sâu. “Họ đã tìm thấy xác của cô ấy trong một nấm mộ cũ ở nghĩa địa gần đường cao tốc.” Hơi khói hít vào đã làm dịu đi tất cả những giác quan căng cứng, và cô cảm thấy nỗi căng thẳng chất chứa cả ngày trời đang dần tan ra trong cơ thể mình. Cái cảm giác đó cần có sự đồng hành của cô. “Anh sẽ không về nhà chứ?” Cô hỏi, ném một cái nhướng mày đầy khơi gợi về phía Ian.

Ian đã nằm lại xuống giường, hai chân bắt tréo chỗ mắt cá. “Sharon đang ở ngoài kia săn tin. Không thể chờ đến đêm được sao?”

“Sáng mai tôi phải dậy sớm. Claire Masland sẽ đến đón tôi.”

“Con bé đó đồng tính đấy, cô biết chứ?”

“Vì sao? Vì cô ta tóc ngắn à?”

“Tôi chỉ nói thế thôi.”

“Thôi anh về đi, Ian.”

Ian quăng đôi chân xuống đất và tìm mớ quần áo còn lại. Anh ta xỏ một cái tất đen vào chân. “Tôi nghĩ là anh đã nói với cô hãy gạt vụ Molly Palmer sang một bên rồi chứ”, anh ta nói, tay đeo nốt chiếc tất kia vào, chẳng thèm nhìn cô.

Susan như bị té gáo nước lạnh. Molly Palmer? “Được rồi”, cô nói, giơ tay lên như thể để phòng vệ. “Anh thắng. Tôi đã để lại một vài tin nhắn cho Ethan Poole.”

“Tôi đang nói về Justin Johnson kia”, anh ta nói, giọng pha chút bực dọc.

Phải mất một phút Susan mới kịp hiểu ra chuyện gì. Justin Johnson á? Rồi sự bối rối mới tan đi và cô nghĩ: Thôi xong rồi. Từ tất cả những thứ đó, cô mường tượng ra rằng Justin đã đánh hơi được manh mối gì đó với vụ Kẻ bóp cổ sau giờ học. Cô đã liên kết nhầm anh ta với một câu chuyện khác. Justin Johnson chẳng liên quan quái gì với Lee Robinson, và cũng chẳng có cái khỉ gió gì với Cleverland cả. “Justin John sẽ phải làm gì với vụ Molly Palmer?” Cô hỏi.

Ian cười to. “Cô không biết sao?”

Cô cảm thấy mình thật ngu ngốc, ngu ngốc vì biết chính mình ngu ngốc. “Chuyện gì đang xảy ra vậy, Ian?”

Anh ta đứng dậy và kéo chiếc quần jean màu đen lên. “Ethan đã đưa tin nhắn của cô cho Molly. Cô ta gọi cho luật sư của Thượng nghị sĩ. Ông ta lại gọi cho Howard Jenkin.” Anh ta kéo khóa và đóng cúc quần lại, rồi cúi xuống nhặt cái thắt lưng lên khỏi sàn nhà và bắt đầu luồn cái thắt lưng qua các con đỉa. “Jenkin gọi cho tôi. Tôi nói với anh ta rằng cô không còn làm vụ đó nữa. Nhưng rõ ràng bà mẹ của Justin bé bỏng đã thuê một thám tử tư để theo dõi cậu ta.” Anh ta chốt nút cái thắt lưng xong thì ngồi xuống mép giường. “Bà ta nghĩ thằng bé đang buôn thuốc cần sa, hiểu không. Và người xuất hiện ở trường học để nói chuyện với cậu ta còn ai khác ngoài Susan Ward của tờ Người đưa tin chứ. Họ nhận ra mái tóc màu hồng.” Anh ta mặc chiếc áo Converse màu đen. Cài khuy. “Và giờ thì tất cả mọi người đều nghĩ rằng cô đang điều tra vụ này. Và mọi thứ sẽ vỡ lở ra hết.” Anh ta mặc một cái Converse khác lên. Cài khuy. “Vì thế viên luật sư mới nảy ra ý tưởng sáng tạo là gửi cho cô một mẩu ghi chú, trên đó có mã số hồ sơ của thằng bé hư hỏng kia. Với ý nghĩ rằng nếu cô biết thằng bé đã từng dính phốt, thì cô không nên tin lời khoác lác của thằng con hoang đó nữa.”

“Nghiêm túc đấy chứ?” Susan nói, cố không mỉm cười. “Tay đó thực sự là luật sư sao?”

Ian đứng dậy, mặc đồ gần xong, sát mặt vào Susan. “Cô sẽ làm cho cả hai ta bị sa thải đấy. Cô biết điều đó, đúng không?”

Susan thu người lại thành tư thế ngồi, quên luôn cả cái chăn khiến nó tụt xuống dưới eo. “Justin biết gì về Molly Palmer?”

“Cậu ta là bạn thân nhất của thằng con ông thượng nghị sĩ. Khi chúng còn là trẻ con. Không tách nhau nửa bước. Molly Palmer khi đó là người giữ trẻ chăm sóc cả hai đứa. Vì thế tôi nghi ngờ rằng cậu ta đã hóng hớt được cái gì đó mà đáng nhẽ cậu ta không nên biết. Có thể cô sẽ nhận ra cái tên thời con gái của mẹ Justin. Xem qua không?”

Tim Susan thắt lại. “Giống như là gia đình chủ sở hữu của báo Người đưa tin ư?”

“Bà ta là chị em họ thôi.”

“Castle đã không làm vụ đó, phải không?”

“Ồ, anh ta có làm đấy. Đó chỉ đơn giản không phải là câu chuyện đã từng xảy ra ở đây.” Anh ta thò tay vào túi chiếc áo khoác màu xám lấy ra cái gì đó rồi quăng nó lên giường.

“Cái gì đấy?” Susan hỏi.

“Đó là băng ghi âm 911 đấy. Nếu tôi là cô, tôi sẽ quay lại câu chuyện mà chúng ta thực sự cần quan tâm và hợp tác với người đàn ông đang bảo vệ em.”

Susan nhặt cuốn băng lên, lật qua lật lại trên tay. “Cảm ơn.”

“Đừng cảm ơn tôi. Cảm ơn Derek ấy. Anh ta đã dành cả ngày trời để truy xuất lại đoạn băng đó cho cô. Ian cầm áo sơ mi có dòng chữ Trường Báo chí Columbia của mình rồi giũ thật mạnh, anh ta vẫn luôn làm thế, để bỏ bớt các nếp nhăn trên áo. “Tôi nghĩ anh ta thích cô rồi.”

Susan lại rít thêm một hơi thuốc nữa. “Chà, nếu tôi muốn hẹn hò với một người từng là một ngôi sao bóng đá học cùng trường”, cô nói, giữ cho hơi thuốc ở lại trong phổi, “thì tôi tự biết phải gọi cho ai rồi.”

“Ai?” Ian hỏi.

Sau khi Ian đi khỏi, Susan ngồi bắt chân trên giường. Điều tồi tệ nhất là vụ Molly Palmer thực sự có rắc rối. Đấy không phải là khai thác gì cả. Cũng chẳng phải là quảng cáo. Cũng không phải là chuyện vắt chanh bỏ vỏ. Nó có thể khiến mọi thứ khác đi. Một cô bé dậy thì bị lợi dụng, và gã đàn ông phải chịu trách nhiệm cho việc đó thì đang sử dụng mọi quyền lực mà ông ta có để che đậy. Một gã đàn ông do chính người dân bầu lên, ông ta có cái quyền năng mà bản thân thừa biết rằng ông ta có thể sử dụng nó để xoay vần một cô bé vị thành niên. Rồi! Được thôi, có thể chính bản thân cô cũng có cái gì đó phải mang ra đánh đổi. Và giờ, bằng cách nào đó vừa phải rút tay khỏi vụ Molly Palmer vừa phải chấp nhận để tuột mất nó cùng lúc. Justin đang ở Palm Spring, hoặc bất cứ nơi chết tiệt nào. Molly thì không chịu hé răng nửa lời. Ethan thậm chí còn không bắt máy khi cô gọi. Cô muốn đóng đinh Thượng nghị sĩ Castle. Còn nhiều hơn những gì Ian biết. Cô cũng không thèm quan tâm nếu việc đó có thể khiến cô mất việc. Cô sẽ làm cho kẻ nào đó, dù hắn đang ở vị trí nào đi nữa, phải bị kết tội. Cô nhìn xuống chiếc băng ghi âm trong tay. Cuốn băng ghi lại cuộc gọi 911. Đó là lúc mà cô, Susan Ward, rơi vào trạng thái hành động hoàn toàn theo cảm xúc, một thứ cảm xúc bồng bột, chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí cô. Lúc ấy, cô chẳng thèm đếm xỉa đến những giải thưởng, những ngôn từ, hay giọng nói của cô. Cô cũng bất chấp cả vụ xuất bản sách báo. Thậm chí cả những kế hoạch đầy ấn tượng nữa, cô cũng chẳng quan tâm.

Lần đầu tiên trong cuộc đời theo nghiệp báo chí của mình, cô muốn làm một phóng viên tốt.

Cô nhón chân sang phòng khách, rồi ngồi xổm trên hai gót chân, nhét cuốn băng ghi âm vào máy phát. Cô đã đọc phần lời của cuốn băng đó một vài lần. Nhưng vẫn có cảm giác hồi hộp thấp thỏm vì cuối cùng cũng được tận tai nghe chính những nội dung đó. Cô nhấn nút Play.

“911 đây. Tình huống khẩn cấp của bạn là gì?”

“Tên tôi là Gretchen Lowell. Tôi gọi thay cho Thanh tra Archie Sheridan. Anh biết tôi là ai không?”

“À, có.”

“Tốt. Thám tử của các anh cần đến viện ngay. Chúng tôi đang ở số 2339, đường Magnolia ở Gresham. Chúng tôi ở tầng hầm. Cách đây hai dãy phố có một trường học, chỗ đó, các anh có thể đậu trực thăng được. Nếu các anh kịp đưa người tới đây trong khoảng mười lăm phút nữa, có lẽ anh ấy vẫn còn sống.” Ả cúp máy.

Susan ngồi thụp xuống sàn và đưa hai tay lên xoa cánh tay, khắp cánh tay cô đều nổi da gà lên những mẩn nhỏ xíu. Gretchen nghe có vẻ rất bình tĩnh. Khi Susan tưởng tượng ra giọng nói của Gretchen trong tâm trí, cô nghĩ nó phải hoảng loạn, điên cuồng hơn. Nhưng thực tế, ả đã hoán vai, biến mình thành cảnh sát, từ bỏ vai diễn của một con quỷ. Ả có thể sẽ bị giết. Nhưng ả không có vẻ gì lo lắng cả. Giọng ả không một chút run rẩy. Ả cũng không giậm chân hay phải mất thời gian tìm kiếm từ ngữ. Ả nói ra một cách trực tiếp, rõ ràng và chuyên nghiệp. Cuộc gọi của ả gần như đã được luyện tập nhiều lần.

Archie không yêu cầu Henry đi cùng để phỏng vấn Reston. Đó là chiều Chủ nhật, và anh cảm thấy việc cứ kéo theo Henry đến nhà tù bang vào cuối tuần là quá tồi tệ, dù anh biết rằng Henry sẽ chẳng bao giờ để anh đi một mình. Anh cũng muốn rằng, bằng mọi khả năng có được, anh sẽ bảo đảm cái quyền riêng tư cho Susan. Vì thế, Archie đã bảo Henry cho anh xuống chỗ căn hộ của mình. Trong trạng thái hoàn toàn lơ mơ và mệt mỏi vì tác dụng của những viên thuốc, anh pha một tách cà phê. Rồi anh kiểm tra các tin nhắn thoại trên điện thoại. Không có tin nhắn nào cả, nghĩa là Debbie đã không hề gọi lại cho anh. Archie không đổ lỗi cho cô. Sẽ là một sai lầm nếu anh gọi để nói chuyện với Debbie vào ngày Chủ nhật. Anh đã tự hứa với mình rằng anh sẽ giữ cho Debbie và Gretchen tách bạch nhau một cách rõ ràng; đó là cách duy nhất để duy trì trạng thái của mối quan hệ này. Nhưng anh thật ích kỷ. Anh cần Debbie, anh muốn nghe thấy giọng nói của cô, để nhớ về những ngày tháng trước đây. Nhưng mọi cuộc gọi cũng sẽ phải kết thúc. Cả hai người họ đều hiểu điều đó. Họ chỉ đang kéo dài nỗi đau của sự ràng buộc cảm xúc. Anh sẽ không gọi điện nữa. Chỉ là, anh chưa thể chịu đựng được sự thật khi phải làm như thế.

Anh gọi Claire và kiểm tra. Không có manh mối nào cả. Kênh tư vấn cũng hoàn toàn im ắng. Ngay cả những người gọi trêu chọc cũng nghỉ Chủ nhật. Đã bốn ngày kể từ khi họ phát hiện ra thi thể của Kristy Mathers. Điều đó có nghĩa là tên sát nhân có lẽ đã tìm kiếm một đối tượng khác. Archie ngồi một mình trong bếp và uống hết nửa bình cà phê, chỉ dừng lại đủ lâu để rót thêm vào cốc. Khi anh cảm thấy đã đủ tỉnh táo trở lại, anh lấy thêm hai viên Vicodin và gọi một chiếc taxi.

Reston sống ở Brooklyn, một khu phố phía nam của Cleveland High. Đó là một khu dân cư với hàng mớ dây điện thoại và cây cối rậm rạp với những người dân Victoria trung lưu, những căn nhà đôi xây từ hồi thập niên tám mươi - một khu phố đẹp. An toàn.

Archie bảo tài xế taxi ở lại đợi anh rồi anh ra khỏi xe và leo lên những bậc thang xi măng rêu phong dẫn lên ngọn đồi nhỏ đến ngôi nhà một tầng của Reston. Trời đã về chiều, và trong khi những ngôi nhà bên kia đường vẫn rực sáng dưới ánh mặt trời, những vệt bóng vẫn trải dài trên sườn đồi bậc thang dẫn lên nhà Reston. Anh ta đang ở ngoài hiên, sơn một cánh cửa mà anh ta đã dựng lên trên hai chiếc ghế cưa. Anh ta mặc bộ đồ lao động; chiếc quần công sở loang lổ sơn cũ, áo nỉ màu xám cũ, mũ bóng chày của lính thủy đánh bộ. Biểu cảm của anh ta rất thư giãn, thể hiện sự vui thích rõ ràng khi làm công việc này. Anh ta ngước nhìn lên khi thấy Archie và quay lại sơn tiếp. Tất nhiên anh ta biết Archie là một cảnh sát. Archie trông giống như một cảnh sát. Không quan trọng là anh mặc gì. Nó luôn luôn như vậy. Vài năm đầu tiên, mọi người luôn ngạc nhiên khi họ phát hiện ra những gì anh đã làm. Anh không chắc chắn sự thay đổi đã xảy ra khi nào. Anh chỉ nhận ra rằng có một ngày anh làm mọi người lo lắng.

Khi Archie đi lên hết bậc thềm, anh ngồi xuống bậc trên cùng, dựa lưng vào chiếc cột nhà hình trụ vuông cách chỗ Reston đang cúi xuống trước cửa nhà chừng vài bước chân. Một cái cây leo trồng làm cảnh già cỗi, vẫn đang trụi lá, những nhánh cây to và chắc nịch như tay người cuốn theo các trụ và lan can trước hiên.

“Từng đọc Lolita chưa?” Archie hỏi.

Reston nhúng cái chổi sơn vào thùng sơn trắng rồi quệt nó dọc theo cửa. Vệt quét sơn bắn ra những hạt bụi sơn nhỏ li ti như phun làm tan biến mọi cảm giác khác. “Anh là ai?” Reston hỏi.

Archie lấy chiếc phù hiệu ra rồi giơ nó lên. “Tôi là Thanh tra Sheridan. Tôi có vài câu hỏi về một học sinh cũ của anh, tên là Susan Ward.”

Reston liếc nhìn chiếc phù hiệu. Không ai từng thắc mắc là có cần phải xem kỹ nó không. “Cô ấy nói với anh rằng chúng tôi từng có quan hệ”, anh ta nói.

“Đúng vậy.”

Reston thở dài và điều chỉnh tư thế để mắt mình vừa bằng với cánh cửa. Anh ta quét thêm nhiều sơn, một vệt quét đậm và nhanh làm mảnh gỗ xê dịch theo. “Chuyện đó có trong hồ sơ không?”

“Tôi là cảnh sát điều tra. Và tôi không làm gì nằm ngoài hồ sơ cả.”

“Cô ấy nhầm đấy.”

“Vậy sao.”

Một lớp sơn dày dồn lại một chỗ và Reston quét qua quét lại nhẹ nhàng dọc theo thanh gỗ cho đến khi lớp sơn được dàn đều ra. “Anh biết bố cô ấy chứ? Ông ta mất khi cô ấy đang học trung học. Chuyện đó thật sự khó khăn đối với cô ấy. Tôi chỉ cố cư xử tử tế thôi. Và tôi nghĩ cô ấy đã lầm tưởng về sự quan tâm của tôi.” Anh ta cau mày. “Nên tự huyễn hoặc trong đầu ra những thứ như thế.”

“Anh đang nói rằng anh chưa từng có quan hệ tình dục với cô ấy”, Archie nói.

Reston thở hắt ra. Mắt nhìn qua sân xuống dưới trong một thoáng. Và rồi anh ta cẩn thận đặt chiếc chổi quét sơn lên thùng sơn. Cái thùng sơn được để trên một tờ báo Người đưa tin, vì thế đầu cái chổi sơn còn ướt được treo lủng lẳng phía trên góc tờ báo, một dòng sơn từ cái chổi chảy xuống tờ báo. Anh ta quay sang Archie. “Tôi đã hôn cô ấy, được chưa?” Anh ta lắc đầu một cách khổ não. “Đã có lần. Tôi bị nói xấu về bổn phận của mình. Tôi không bao giờ để nó xảy ra lần nữa. Khi tôi từ chối, cô ấy đã loan ra một tin đồn rằng tôi ngoại tình với một sinh viên khác. Việc đó có thể khiến tôi bị sa thải. Nhưng không có gì xảy ra. Đã không bao giờ có một cuộc điều tra chính thức, bởi vì mọi người đều biết đó là bịa đặt. Susan chỉ là…”, anh ta huơ tay trong không khí để tìm lời. “Cô ấy đã quẫn trí trước cái chết của cha mình và bị đả kích. Nhưng tôi thích cô ấy. Tôi đã luôn yêu quý cô bé đó. Một cô bé quyến rũ, dễ bị kích động, thông minh. Tôi hiểu nỗi đau của cô ấy. Và tôi đã làm mọi thứ có thể để giúp cô ấy.”

“Anh thật là bao dung”, Archie nói.

“Tôi là một thầy giáo tốt. Cho những gì xứng đáng.” Anh ta nhếch mép nở một nụ cười đầy mỉa mai. “Nhưng những thứ xứng đáng đó không phải cho những ngày này.”

“Anh từng hôn Lee Robinson lần nào chưa?” Archie hỏi.

Reston lùi lại, miệng ngoác ra. “Chúa ơi, không thể. Tôi còn chẳng biết cô gái đó. Khi cô bé biến mất thì tôi đang tham gia một buổi tổng duyệt. Chuyện đó đã được xác nhận rồi.”

Archie gật đầu với chính mình. “Vậy, được rồi.” Anh cười với Reston như thể hiện sự thông cảm của mình. “Tôi xin một cốc nước được không?” Đó là một cách thể hiện khá thô thiển mong muốn được đi vào trong nhà, nhưng nếu Reston từ chối, thì ít nhất, đó cũng là một dấu hiệu cho thấy anh ta đang có gì đó phải che giấu.

Reston nhìn Archie trong phút chốc. “Được thôi.” Anh ta đứng dậy, phủi những vết bụi bẩn bám trên chiếc quần loang lổ vệt sơn, anh ta dập vài nhịp lên chiếc thảm rồi ra hiệu cho Archie đi theo anh ta vào nhà. Họ đi vào nhà và Reston dẫn Archie đi qua một phòng nhỏ treo áo khoác rồi vào phòng khách, phòng ăn và bếp. Thứ đập mạnh vào giác quan của Archie là sự ngăn nắp trong cách sắp xếp. Không một chút lộn xộn nào. Tất cả mọi thứ đều ở đúng vị trí. Mọi bộ phận đều sạch bóng bụi bẩn. Không có chén bát bẩn để lại trong bồn rửa.

“Anh từng kết hôn chưa nhỉ?” Archie hỏi.

Reston lấy một chiếc cốc từ trên tủ xuống, rồi rót nước, anh ta chìa cái cốc về phía bồn rửa. Phía trên bồn rửa, có một tấm hình được đóng khung cẩn thận của một cô gái Varga bốc lửa. “Cô ấy bỏ tôi. Lấy đi tất cả mọi thứ tôi có.” Reston vừa nói vừa đưa cốc nước cho Archie.

Archie nhấp một ngụm. “Bạn gái?”

“Không phải bây giờ. Mối tình gần nhất của tôi đã chấm dứt đột ngột.”

“Anh sát hại cô ấy hả?”

“Chuyện đó có được coi là buồn cười không nhỉ?”

Archie nhấp thêm một ngụm nữa. “Không.” Anh uống cạn nước trong cốc và đưa nó cho Reston. Anh ta ngay lập tức rửa sạch cái cốc và cho vào máy rửa. Archie nhận thấy tấm hình của một cô gái Varga tóc vàng khác treo ở phía bên kia. Cô ấy mặc một chiếc quần soóc nhỏ, chiếc áo cánh chật và đứng trên đôi giày có gót cao không thể tin được, lưng cong, nụ cười khơi gợi trên đôi môi đỏ.

“Anh thích tóc vàng”, Archie nhận xét.

“Vì Chúa”, Reston lấy tay vuốt mái tóc đầy lo lắng. “Anh muốn cái quái gì ở tôi hả? Tôi là một giáo viên. Tôi đã trả lời các câu hỏi của anh. Hai cảnh sát khác đã thẩm vấn tôi rồi. Tôi để anh vào nhà tôi.” Anh ta nhìn Archie trừng trừng. “Anh định bắt tôi hả?”

“Không.”

Reston chống hai tay lên hông. “Vậy hãy để tôi yên đi.”

“Được thôi”, Archie nói, định bước trở lại phía hiên trước. Khi anh đi qua nhà ra phía trước, Reston đi theo, Archie cố tìm kiếm bất kỳ manh mối nào để lần ra sự thật, lần ra một góc độ nhìn thấu vào gã đàn ông kia. Căn nhà này đã có tuổi đời đến cả trăm năm, nhưng lại được bài trí theo phong cách giữa thế kỷ 20. Các thiết bị chiếu sáng cố định ban đầu đã được thay thế bằng các món đồ nội thất thiết kế theo kiểu mạ crôm thời hiện đại khiến chúng trông có vẻ cổ điển khi phát quang. Bộ đồ dùng trong phòng ăn trông giống như được làm từ nguyên liệu nhựa dày. Trên bàn, một bó hoa thủy tiên mọc ra từ một chiếc bình tròn màu đỏ. Archie không thể phân biệt được món đồ đó là đồ nội thất đắt tiền hay tất cả đều từ một chiếc hộp của hãng Ikea. Nhưng những gì anh thấy đủ để anh khẳng định rằng đó là phong cách. Phòng khách có vẻ bớt màu sắc hơn. Những đường nét màu vàng dường như cho món đồ đó trông giống như từ một cửa hàng bán đồ trang trí. Rìa dây vàng của nó đã tách ra ở một vài chỗ nhưng vẫn không được gắn lại. Một chiếc ghế nhung màu hoa hồng và ghế dài có đệm bên cạnh một chiếc đèn kiểu hiện đại. Như thể ai đó đã đề nghị giúp Reston trang trí lại, sau đó chúng bị lạc mất sự thống nhất từ trước. Nó vẫn còn đẹp hơn nhiều so với căn hộ đi thuê bừa bộn của Archie. Các phòng vẫn còn nguyên những thiết kế từ ban đầu. Archie lướt qua các kệ sách. Chỉ có một vài cuốn sách, hoàn toàn ngăn nắp và thẳng hàng. Nhưng Archie biết rõ gáy sách nằm ở bất cứ chỗ nào. Đó là quyển Nạn nhân cuối cùng. Nó không có ý nghĩa gì cả. Rất nhiều người có cuốn sách đó.

“Nghe này”, Reston nói. “Susan ở trường trưởng thành sớm. Cô ấy có thể có quan hệ với một giáo viên nào đó. Hoàn toàn có thể. Tôi chỉ nói rằng người đó không phải là tôi.”

“Được rồi”, Archie nói, lơ đễnh. “Đó không phải là anh.”

“Đi đâu đây?” Tài xế hỏi Archie khi anh trở lại xe.

“Đợi ở đây”, Archie nói. Người tài xế này không hút thuốc, nhưng trong xe có mùi thuốc lá cũ và chất khử mùi từ nhựa thông. Không ai chịu nghe theo các quy định. Archie rút điện thoại ra và gọi cho Claire. “Tôi muốn kiểm tra chéo chứng cứ ngoại phạm của Reston. Và cử một đội theo dõi anh ta”, anh nói. “Và tôi nói theo dõi nghĩa là phải canh tất cả các lối ra vào nhà anh ta.” Anh nheo mắt nhìn về phía căn nhà phủ đầy cây leo trông rất đẹp mắt của Reston. “Tôi muốn biết xem anh ta có ý định rời khỏi căn nhà không.”

“Tôi sẽ cử Heil và Flannigan tới.”

“Tốt”, Archie nói, ngả người xuống chiếc ghế da pha nhựa dính nhoẹt của chiếc taxi. “Tôi sẽ đợi ở đây.”

Trời đã ngả tối khi Archie về đến nhà. Vẫn không có tin nhắn nào. Anh quyết định không uống cà phê nữa mà thay vào đó là một lon bia. Liệu Susan có nói dối không? Không. Liệu cô ấy có từng thuyết phục chính mình tin rằng câu chuyện đó là đúng? Có thể.

Dù bằng cách nào, Gretchen đã thấy câu chuyện đó. Anh tìm thấy một sự an ủi từ thực tế rằng ả có thể nhìn thấu bất kỳ ai. Đó không phải là chuyện cho rằng bản chất của anh rất kém.

Anh nhìn chằm chằm vào khuôn mặt vui vẻ của Gloria Juarez. Một vụ án bí ẩn khác đã được làm sáng tỏ. Ít ra, đó cũng là một kết quả. Anh chạm vào trán cô bé rồi bước lùi lại khỏi chỗ bức tường, nơi anh gắn tấm ảnh lên.

Có bốn mươi hai bức ảnh trên bức tường đó, bốn mươi hai nạn nhân bị giết, bốn mươi hai gia đình đã tìm được câu trả lời. Họ nhìn chằm chằm vào anh từ những tấm ảnh DMV, ảnh chụp gia đình và ảnh ở trường học. Đó là một cảnh tượng kinh khủng, man rợ và Archie biết điều đó. Anh không quan tâm. Anh cần phải đối mặt với tất cả, để cho mình một lý do tại sao anh phải đi đến nhà tù đó tuần này qua tuần khác. Đó chính là lý do hoặc là sự thừa nhận với chính mình rằng sức hút của Gretchen là một cái gì đó hoàn toàn khác. Một cái gì đó rắc rối hơn nhiều.

Đầu Archie đau nhói, anh cảm thấy cơ thể nặng nề và mệt mỏi. Nhưng đó là tối Chủ nhật, tuần mới sẽ bắt đầu ngay ngày mai, các cô bé sẽ đến trường và điều đó có nghĩa là tên sát thủ sẽ lại đi săn những con mồi của mình.

Anh dốc sạch hộp thuốc trên tủ và xếp các viên thuốc theo loại. Rồi anh cởi quần áo cho đến khi trần truồng ngồi trên mép giường. Có một chiếc gương vuông lớn phía trên tủ quần áo và anh có thể nhìn thấy hình ảnh mình phản chiếu trong gương từ giữa ngực trở lên. Những vết sẹo từ trước vốn có màu tím nhạt thô dữ, giờ đã chuyển sang màu trắng mờ. Hầu như, anh nghĩ về chúng như một phần của cơ thể mình vậy. Anh lấy tay sờ lên chỗ trái tim, những mô thịt nhô lên rất nhạy cảm dưới những ngón tay anh phát lên một cơn rùng mình chạy xuống tận dưới đùi.

Anh nằm ngửa trên giường và để cho ký ức về ả len lỏi khắp tâm trí anh. Hoa tử đinh hương. Hơi thở của ả áp vào mặt anh. Cái chạm của ả vào anh. Tay anh tìm đường xuống thấp hơn. Anh đã cố chống lại điều này trong suốt một thời gian dài. Cho đến khi anh và Debbie ly thân. Và rồi anh chỉ có một mình. Và anh chỉ có thể nghĩ về Gretchen. Mỗi lần nhắm mắt lại, ả sẽ xuất hiện ở đó, sự hiện diện ma quái này, khêu gợi anh, vẻ đẹp của ả quyến rũ đến nỗi làm cho anh nghẹt thở. Cho đến một ngày, cuối cùng, anh đã chịu thua, và trong tâm trí mình, anh kéo ả đến bên anh. Anh biết điều đó là sai. Rằng anh bị mê hoặc. Rằng anh cần sự giúp đỡ. Nhưng anh đã vượt khỏi giới hạn có thể được giúp đỡ. Vậy chuyện đó còn có ý nghĩa gì nữa? Nó có phải là thực đâu.

Từ tủ thuốc, những viên thuốc như đang cười nhạo anh. Số thuốc không đủ để giết anh. Nhưng ở trong nhà tắm thì có đủ. Đôi lúc, anh thích nghĩ về chuyện đó trong đêm. Nó làm cho anh cảm thấy thoải mái vô tận.