CHƯƠNG 41
Susan ngồi trên ghế với chiếc laptop và một ly rượu vang đỏ, bắt đầu viết câu chuyện về Lowell Gretchen. Với những gì mà cô đã biết, vụ Kẻ bóp cổ sau giờ học đã chấm dứt với cái chết của ông McCallum theo kiểu tự sát. Cô chắc rằng họ sẽ tìm ra thi thể cô bé Addy Jackson ở đâu đó. Hắn ta sẽ giết và chôn cô bé giống như những nạn nhân khác trước đây, và cô bé đang nằm đó, dưới lớp bùn, chờ xem có ai phát hiện ra không, có thể là một vài người chạy bộ không may mắn hoặc mấy chú lính Boy Scout. Hình ảnh cái xác bị chôn nửa người của Addy Jackson lóe lên trong tâm trí cô, cô thấy nước mắt trào ra từ khóe mắt. Khốn kiếp. Cô sẽ không để chuyện này bám riết mình, không phải lúc này. Cô gạt phắt hình ảnh đó khỏi tâm trí, nhưng nó lại được thay bằng hình ảnh Kristy Mathers với các thân thể bầm giập bị chôn dưới lớp cát tối thui của đảo Sauvie. Và rồi hình ảnh bố mẹ Addy, bộ dạng của họ lúc ngồi đó nhìn Archie với sự tuyệt vọng tột cùng và sự kỳ vọng, mong muốn anh sẽ cứu lấy đứa con của họ, cứu rỗi họ. Và rồi hình ảnh của chính cha cô.
Điện thoại di động nảy lên và rung trên bàn cà phê. Trên màn hình, số nhận diện người gọi đến là Không rõ. Cô nhấc lên và đưa lên tai. “Vâng?”
“Tôi là Molly Palmer.”
“Chết tiệt”, Susan nói.
Có một khoảng ngừng ngắn. “Nghe này. Tôi gọi chỉ để nói rằng tôi không muốn nói chuyện với cô. Tôi chẳng có gì để nói cả.”
“Đó không phải là lỗi của cô”, Susan nói vội vàng. “Ông ta là người lớn. Không có lời xin lỗi nào cả.”
Một tiếng cười bật ra. “Vâng.” Rồi lại một khoảng lặng nữa. “Ông ta dạy tôi chơi tennis. Cô có thể viết thứ đó vào câu chuyện của mình. Đó là việc tốt duy nhất mà tôi có thể nói về ông ta.”
Susan cố gắng kiềm chế sự tuyệt vọng trong giọng nói của mình. Molly chính là câu chuyện. Nếu cô có thể khiến cô ấy nói chuyện, tờ báo sẽ phải đăng nó; nếu không, cô sẽ không có gì, và Thượng nghị sĩ sẽ được tự do, sạch sẽ. “Hãy lấy hơi ra khỏi lồng ngực, Molly”, Susan khẩn khoản. “Nếu cô không làm vậy, chuyện này sẽ gặm nhấm cô. Nó sẽ đầu độc mọi thứ.” Cô xoắn một sợi tóc quanh ngón tay cho đến khi cảm thấy đau. “Tôi biết.”
“Nghe này”, Molly nói, giọng cô chú tâm. “Cho tôi xin một ơn huệ, được chứ? Đừng gọi cho Ethan nữa. Tất cả những chuyện này đang khiến cho anh ấy kiệt sức. Tôi đã không liên hệ với nhiều người kể từ lúc chuyện đó xảy ra. Và tôi cũng không muốn để mất anh ấy.”
“Làm ơn”, Susan nói.
“Đó là một câu chuyện xưa cũ rồi”, Molly nói. Và cô ấy cúp máy.
Susan giữ điện thoại trên tai một thoáng, nghe tiếng máy đã ngừng.
Câu chuyện đã qua. Và nếu không có Molly, thì sẽ đúng là như vậy. Susan nheo mắt lại trong hoang mang. Ian có thể đã đưa vụ Molly vào hồ sơ. Parker cũng vậy. Susan đã có được Molly trong tay, và rồi để mất cô ấy. Cô đặt chiếc điện thoại xuống, hít một hơi thật sâu, lau mũi và mắt mình bằng mu bàn tay rồi rót thêm chút rượu vang vào ly. Không có gì có thể trấn an tốt hơn bằng một ly rượu vang.
Cô nghĩ đến chuyện gọi lại cho Ethan. Anh ta rõ ràng đã đưa mẩu tin nhắn của cô cho Molly. Nhưng rồi cô nghĩ đến nỗi đau trong giọng nói của Molly và cái cách mà cô ấy muốn được yên, để lại quá khứ phía sau.
Chuyện đó thực sự là sai sao?
Chết tiệt. Susan nhấc điện thoại lên và bấm số của Ethan. Tin nhắn thoại. Tưởng tượng điều đó. “Xin chào”, cô nói. “Là tôi đây. Susan Ward. Lại nhé. Nghe này. Tôi vừa mới có cuộc nói chuyện điện thoại với Molly và tôi muốn anh nói với cô ấy rằng tôi hiểu. Tôi có một cuộc tình…”, cô tự thú với chính mình, “hoặc đại loại vậy, với thầy giáo của tôi lúc học trung học. Và tôi đã phải mất rất nhiều thời gian để biện hộ cho chuyện đó. Nhưng anh biết gì không, Ethan? Nó không thể biện hộ được. Chỉ là không thể. Vậy hãy nói với Molly điều đó. Cô ấy sẽ hiểu. Và tôi sẽ không gọi cho anh thêm lần nào nữa.” Cô đang đùa với ai chứ? “Ít nhất là không phải vậy trong vài ngày.”
Cô đặt điện thoại xuống bàn và nhấc máy tính lên đùi. Cô đã đến hạn chót và câu chuyện này là về Gretchen Lowell. Gretchen, người vẫn đang sống. Gretchen, người đã làm cho răng của Susan bị đau. Susan đã bị thuyết phục rằng nếu cô có thể mang Gretchen lên mặt báo, bằng cách nào đó cô có thể hiểu Archie và McCallum, phần còn lại của chuyện này. Cô có thể cảm thấy câu chuyện, trong bóng tối và vô định, trong phòng với riêng cô. Nó chỉ cần được góp nhặt lại và định hình. Cô nhấp một ngụm rượu lớn. Đó là từ bộ sưu tập của Đại văn hào, mà cô đã tìm thấy được giấu ở phía sau tủ quần áo dưới một đống những tập còn sót lại của các cuốn tiểu thuyết mới nhất của anh ta. Susan tự nhủ mình sẽ không bận tâm. Đây là những hoàn cảnh đặc biệt. Rượu có mùi thơm và dư vị, cô giữ nó trên lưỡi, thưởng thức sức nóng của nó trước khi nuốt vào.
Khi Susan nghe thấy tiếng gõ cửa, suy nghĩ đầu tiên của cô, đó có thể là Bliss. Cô đã gọi cho mẹ mình khi cô về nhà - Bliss, người duy nhất trên thế giới không có điện thoại di động hoặc thư thoại. Susan từng để lại một tin nhắn tuyệt vọng trên máy trả lời của mẹ cô, chiếc máy hoạt động khi có khi không, và thường phát lại những tin nhắn trong một nhịp chậm lạ lùng khiến Bliss quằn quại trong cơn cuồng loạn. Vì vậy, khi Susan nghe thấy tiếng gõ cửa, cô có một tưởng tượng ngắn gọn rằng mẹ cô đã nghe tin nhắn của cô và đã bỏ mọi thứ để vội vã đến xem cô có ổn không. Susan biết đây là một kịch bản vô lý. Cô đã dành rất nhiều thời gian khi lớn lên chăm sóc Bliss; nhưng dù với cam kết đối xử với con gái mình như người lớn, Bliss hiếm khi chăm sóc Susan. Bên cạnh đó, Bliss cũng chẳng buồn mua lấy một chiếc xe hơi và sẽ phải đi hai tuyến xe buýt để đến Khu Cảng. Không, Susan quả quyết. Đó là Ian. Cô mỉm cười với ý tưởng này, cho phép mình có một nụ cười tự mãn, mà cuối cùng, anh ta sẽ không thể cưỡng lại được với những lời ma mị nữ tính của cô. Chúng thật mạnh mẽ, những lời lừa dối ma mị ấy. Vâng. Đó chắc chắn là Ian.
Anh ta gõ cửa một lần nữa.
Cô đứng dậy và đi ra cửa với tất chân, dừng lại để xem hình ảnh phản chiếu của mình trong một chiếc gương mạ vàng cũ mà cô đi qua trên đường. Đại văn hào đã nói với cô rằng anh ta mua nó tại một khu chợ trời ở Paris, nhưng cô đã nhìn thấy cái tương tự ở Pottery Barn. Gretchen Lowell đã đúng: trán cô đang hình thành một nếp nhăn giữa hai mắt. Susan không hề thích cái vẻ đó một chút nào. Có lẽ nào chỉ một tuần qua mà cô đã già đi? Cô đặt ly rượu lên bàn trước gương và giữ ngón tay cái ép xuống nếp nhăn nổi lên cho đến khi trán cô phẳng ra, rồi cô vén vài lọn tóc hồng và giắt chúng sau đôi tai nhỏ. Xong. Cô nở nụ cười rạng rỡ nhất và mở cửa. Nhưng đó không phải là Ian.
Đó là Paul Reston.
Đã mười năm rồi. Giờ thì anh ta đã ở tuổi tứ tuần. Mái tóc nâu nhạt đã mỏng dần, nhô ra khỏi thái dương, và bụng anh ta đã mềm đi. Bằng cách nào đó, anh ta trông có vẻ cao hơn. Sống lưng, những nếp nhăn trên gương mặt anh ta rõ rệt hơn. Anh ta đã bỏ cặp kính hình chữ nhật với gọng nhựa màu đỏ mà Susan còn nhớ và đeo gọng có ống kính hình bầu dục. Susan ngạc nhiên khi thấy anh ta không còn là anh giáo trẻ trung, bảnh bao mà cô vẫn nhớ. Anh ta đã từng như vậy thật ư?
“Paul”, Susan nói, thu người lại. “Anh đang làm gì ở đây?”
“Gặp em thật là tốt”, anh ta nói. “Em trông được đấy.” Anh ta nở một nụ cười thân thiện, mở rộng cánh tay sẵn sàng cho một cái ôm và cô bước tới, để anh ta ôm trọn trong hai cánh tay mình. Anh ta có mùi như khán phòng ở Cleveland, như sơn, mùn cưa và cam. “Paul”, cô nói vào trong chiếc áo len chui lười cổ chữ V của anh ta. “Nghiêm túc chứ.”
Anh ta thả Susan ra và nhìn cô, đôi mắt nâu của anh ta nặng trĩu vẻ thất vọng. “Một cảnh sát điều tra đã tới gặp anh.”
Susan đỏ mặt xấu hổ. “Em xin lỗi về điều đó”, cô nói. “Em đã thu lại rồi. Em đã nói với anh ta rằng đó là do em dựng chuyện. Mọi thứ giờ đã ổn rồi.”
Paul thở dài và đi ngang qua cô vào trong phòng, lắc đầu. “Em đã nghĩ gì vậy? Lôi lại chuyện đó làm gì? Em biết những chuyện đó hoàn toàn có thể gây cho anh một mớ rắc rối ở trường chứ?”
“Chuyện đó không gây phiền hà nữa”, Susan nói, cố gắng trấn an anh ta. “Sẽ chẳng có tác dụng gì nếu cả hai chúng ta đều phủ nhận.”
Nỗi thất vọng lóe lên trong mắt anh ta. “Chẳng có gì để phủ nhận cả. Không có chuyện gì xảy ra, Suzy.” Anh ta giữ lấy khuôn mặt Susan trong đôi tay mình và nhìn vào mắt cô. “Đó là sự thật.”
Susan lùi lại, vì thế đôi bàn tay của anh ta rời ra. “Vâng. Chẳng có chuyện gì xảy ra cả.”
“Em có một khoảng thời gian khó khăn lúc còn là một đứa trẻ. Anh hiểu điều đó. Nhưng phải để cho nó qua đi chứ.”
“Em đã làm vậy”, Susan khẳng định. “Em sẽ.”
Anh ta quay lại nhìn cô với anh mắt cầu khẩn. “Vậy hãy để anh nghe thấy em nói vậy.”
“Không có chuyện gì xảy ra cả”, Susan nói bằng giọng mạnh mẽ và tự tin nhất. “Tất cả câu chuyện là do em dựng lên.”
Paul gật gật đầu vài lần, thư thái hơn. “Em là một tay viết tốt. Em có rất nhiều tiềm năng. Em luôn rất sáng tạo.”
“Em vẫn vậy mà”, Susan nói, cảm thấy hơi khó chịu. Cánh cửa dẫn ra lối đi vẫn còn hé mở, Susan không muốn đóng nó; những điệu bộ khi nãy quá giống với một lời đề nghị ở lại.
“Lại đây”, anh ta nói, dang rộng cánh tay. “Chúng ta sẽ ổn, phải không?” Anh ta mỉm cười, khuôn mặt mềm ra, lộ lúm đồng tiền, và cô thấy anh ta lại là một giáo viên điển trai như đã từng, tóc ngang vai, áo nhung nỉ và những lời nói thông minh, những vần thơ ngu ngốc và cô gần như tiến đến với anh ta. Vì một phần nhỏ trong cô vẫn yêu anh ta, vẫn yêu Paul Reston. Nhưng phần nhiều lý trí của cô biết rằng đó chỉ là chuyện nhảm nhí.
Cột sống của cô cứng lại và cô lùi lại một bước nhỏ khi anh ta bước tới ôm cô. “Em không muốn chơi trò này thêm nữa”, cô nói. Giọng cô bất chợt nghe như trống rỗng và lạ lùng như thể đó không phải là giọng của cô.
Anh ta dừng lại và để hai tay buông thõng xuống. “Có chuyện gì sao?” Anh ta hỏi.
“Chuyện này thật kỳ cục, Paul.” Cô giơ một tay lên và vung nó quanh gác xép. “Chúng ta chỉ có một mình. Chúng ta có thể nói về những chuyện đã xảy ra. Vậy sao chúng ta phải chơi cái trò ‘chưa bao giờ xảy ra’ chứ?”
Anh ta hất đầu, nhướng mày. “Em nói ‘chơi’ là ý gì?”
Rồi. Giờ thì chuyện này thối um lên. “Chúa ơi, Paul.” Susan nói.
Anh ta cười, một tiếng cười cụt lủn, dữ tợn, đầu ngẩng lên, mặt đỏ. “Được rồi. Anh xin lỗi. Anh chỉ đùa một chút thôi. Em nghiêm trọng hóa mọi thứ từ khi nào vậy?” Anh ta ném cho Susan một ánh nhìn thật hài hước. “Em vốn thích chơi trò đóng vai mà.”
“Ba cô bé đã chết”, Susan nói. “Một cô bé nữa đã biến mất, có lẽ cũng đã chết.”
Anh ta đi tới cửa, đóng nó lại, và dựa lưng vào nó, tay anh ta vẫn để trên núm cửa phía sau. Giọng nói và thái độ của anh ta đột nhiên hoàn toàn điềm tĩnh. “Anh có nghe. Dan McCallum phải không, hả? Anh chưa từng chứng kiến chuyện đó xảy ra.”
McCallum. Cô lại thấy những giọt nước mắt nóng hổi tuôn trào trên gò má. Cô vẫn không hiểu bằng cách nào mà thầy McCallum có thể làm chuyện đó. Ông ấy luôn cho thấy mình là người rất công bằng. Không mấy tốt đẹp, nhưng luôn có lý do. Ai mà biết được lòng người đằng sau mỗi bộ mặt chứ.
Và Paul. Người thầy giáo mà chính cô đã chủ động và đi mách lẻo chuyện đó với một cảnh sát. Sau khi cô đã hứa với anh ta hết lần này đến lần khác rằng sẽ không bao giờ hé ra nửa lời. “Ít nhất thì chuyện đó cũng đã qua”, cô nói.
Anh ta vuốt má cô bằng mu bàn tay và cô cảm thấy an ủi vì hành động tốt bụng đó. “Anh đoán rằng em cần ai đó ở bên. Để anh làm bữa tối cho em nhé”, anh ta nói. Anh ta nhìn vào nhà bếp của cô một cách dò xét. “Em có để đồ ăn ở đây không?”
“Chỉ có một vài lon a-ti-sô và bơ đậu phộng thôi”, cô nói.
“Chà, anh có thể làm món gì đó.” Anh ta hơi cúi người một cách nhã nhặn. “Anh có thể làm món trộn a-ti-sô với đậu phộng.”
Susan liếc nhìn chiếc laptop để trên bàn cà phê, bất chợt ước rằng mình được thư thái với chiếc máy tính và ly rượu vang bên cạnh. “Em đã có hạn nộp bài. Em thực sự phải viết lách tối nay.” Cô thoáng thấy hình ảnh mình trong chiếc gương Pottery Barn. Lại thấy có nếp nhăn trên trán. Ly rượu vang vẫn còn trên chiếc bàn trang điểm ngay phía trước chiếc gương.
“Em phải ăn gì đó”, anh ta nhìn cô chờ đợi.
Cô quay sang anh ta. “Làm cách nào mà anh biết địa chỉ nhà em?”
“Chúng ta có thể truy cập vào Nexus ở trường mà. Em có thể tìm ra bất kỳ ai. Chỉ cần gõ tên của họ vào máy.” Reston ngừng một giây, như thể đang cân nhắc xem nên nói gì, hay cần tìm ra từ ngữ nào đó. “Sau khi em tốt nghiệp, anh thấy rất khó khăn ở trường.” Anh ta lảng mắt đi. “Em không trả lời thư của anh.”
“Em vào đại học mà.”
Anh ta nhún vai và mỉm cười với cô theo cách quyến rũ nhất. “Anh yêu em.”
“Đó là vì em chỉ là một đứa trẻ”, Susan nói, cố gắng giải thích. “Em ngưỡng mộ anh. Đó chẳng phải là tình yêu, đúng không?” Cô đi tới cái gương, nhấc ly rượu lên rồi uống cạn. Tấm hình mà Bliss đã đưa cho cô vào tuần trước khi cô bị kẹt vào góc cái gương. Cô bé Susan ba tuổi đang cầm tay cha mình. An toàn. Hạnh phúc.
Rồi mọi thứ đã đảo tung hết cả lên.
“Anh chưa bao giờ ngừng nghĩ về em”, Paul nói.
Susan nhìn ảnh mình trong gương. “Thôi nào, Paul”, cô nói với chính mình ở trong gương. “Anh thậm chí còn chẳng biết đến em.”
Anh ta bước tới phía sau cô, hình ảnh phản chiếu của cô chỉnh trang và như có vẻ bị tổn thương. “Sao em có thể nói điều đó?”
Susan nhặt chiếc lược gỗ lên và bắt đầu chải chuốt mái tóc hồng. Cô không thực sự cần đến nó, nhưng khi có nó trong tay, cô có cái gì đó để làm. “Vì khi anh biết em, thì em chỉ là một cô bé chưa phát triển đầy đủ. Em mới chỉ là một cô bé mới lớn.” Cô tiếp tục chải tóc, cô cảm nhận rõ răng lược chạy dọc theo hộp sọ, máu dồn lên da đầu. Người cha râu ria của cô đang nhìn cô chằm chằm từ bức ảnh, tay ông nắm chặt tay cô con gái nhỏ để bảo vệ.
Paul sờ lên phía sau đầu cô. “Em chưa bao giờ là cô gái mới lớn cả.”
Cô để chiếc lược chải tóc xuống. Cô làm một cách nặng nề khiến chiếc lược gây ra tiếng động chói tai lên mặt bàn, làm cô giật mình. “Nghe này”, cô nói, mắt liếc nhìn đồng hồ. “Anh phải đi. Em có lịch phải hoàn thành.”
“Để anh mời em ra ngoài ăn tối.”
Cô quay đi khỏi cái gương, khỏi tấm ảnh, khỏi người cha và nhìn anh ta. “Paul.”
Anh ta lại nở một nụ cười đầy quyến rũ lần nữa. “Một giờ. Anh sẽ cùng trao đổi với em về câu chuyện Dan McCallum. Để em viết. Rồi anh chở em về và em có thể hoàn thành công việc của mình.”
Susan cảm thấy mình như trở về tuổi trung học. Bất lực trong việc làm mất lòng anh ta. Ngoài ra, cô cũng không cảm thấy có lý do để tranh luận tiếp. “Một giờ.”
“Hứa luôn.”
Chiếc thang máy phải mất đến cả nghìn năm để đi xuống dưới tầng hầm trong tòa nhà nơi Susan ở. Paul không nói gì, còn Susan, lần đầu tiên trong cuộc đời, cô không cố lấp đầy khoảng lặng như mọi khi. Paul chỉ đứng đó với một nụ cười dịu dàng, nhìn cô khi cô nghịch nghịch chiếc áo choàng của mình, thay đổi trọng tâm trên đôi chân, chú tâm vào những con số được chiếu sáng phía trên cửa thang máy. Susan có thể nhìn thấy cả hai hình ảnh phản chiếu của họ trong thành thang máy bằng thép, một lớp màu méo mó khúc xạ ra khỏi lớp kim loại.
Cánh cửa mở ra và Paul để cô ra trước.
“Chúng ta đi đường này”, Paul nói và chỉ ngón tay về phía một chiếc xe đậu ở phía xa của bãi đỗ, cách xa chỗ thang máy và cách xa với những chiếc xe khác. Chà! Susan nghĩ, ít ra thì cũng đủ thời gian làm một điếu thuốc. Cô thò tay vào túi, mò mẫm lấy ra một điếu và châm lửa.
“Vậy, anh có biết Lee Robinson không?” Susan hỏi, và rít một hơi thuốc.
Paul nhăn mặt lại với vẻ ghê tởm. “Em vẫn còn hút thuốc sao?”
“Không”, Susan bối rối. “Chỉ trong những tình huống xã giao thôi.”
Anh ta nhìn quanh bãi đậu xe. “Đây có phải là tình huống xã giao không?”
Susan rên rỉ. “Anh không còn là thầy giáo của em nữa. Đừng lên lớp với em.”
“Ở nước Mỹ, bốn trăm bốn mươi ngàn người chết mỗi năm do hút thuốc. Nghĩa là năm mươi người mỗi giờ đấy.”
Susan rít một hơi nữa thật từ tốn. “Anh biết rõ Lee Robinson tới mức nào?” Cô hỏi lại lần nữa.
Anh ta với tay và sờ lên đầu như thể có cơn đau đầu đột ngột. “Chẳng biết tí gì”, anh ta nói.
Susan kéo cái khăn quàng cổ, cởi nó ra rồi lại quấn nó lại. “Nhưng anh khá thân với thầy McCallum, phải không? Em nhớ có lần anh kể cho em nghe rằng anh có đi câu hay làm gì đó trên thuyền với thầy ấy.”
“Suzy”, anh ta cười với giọng pha chút bực tức. “Đó là chuyện hai mươi năm trước rồi.”
“Vậy trước đây hai người thường hay ra ngoài với nhau.”
“Bọn anh từng đi câu với nhau một lần cách đây hai mươi năm.” Anh ta dang cánh tay ra, ôm lấy vai cô và cô bước thêm một bước nữa rồi lắc vai khỏi tay anh ta.
Susan cười đầy lo lắng. “Anh từng đậu xe xa hơn thế này bao giờ chưa?” Cô hỏi.
Paul nhún vai và đút hai tay vào túi. “Khi anh đến đây thì chỗ này kín chỗ rồi.”
“Chà! Nếu em ngã xuống vì phổi em sinh bệnh thì anh cứ để lại xác cho lũ chuột nhé”, Susan đùa.
“Hút thuốc lá không hay ho gì cả. Nó là một thứ chất nghiện chết chóc. Nó sẽ giết chết em.”
Chiếc xe, cuối cùng cũng đến nơi. Susan chưa bao giờ vui đến vậy khi nhìn thấy chiếc xe bốn chỗ Passat mười tuổi màu bạc. Cô cười khi thấy hai miếng dán được dán gọn gàng cạnh nhau trên cái cản sau. Một cái ghi: Bảo vệ trường học của chúng ta. Cái còn lại ghi: Nếu bạn không giận dữ, có nghĩa là bạn đang không chú tâm.
Paul vào xe trước và nghiêng người để mở cửa cho Susan. Cô vào xe, thắt dây an toàn đầy đủ rồi rít một hơi thuốc cuối cùng và tìm kiếm cái gạt tàn để bỏ tóp thuốc vào. Đó là chiếc xe sạch nhất cô từng thấy. Bảng điều khiển quá sạch, phát sáng. Không hề có lấy một sợi lông Corgi nào, một cái bút hay một món đồ cũ nào trong xe. Cô với tay và tìm cái gạt tàn ở khu vực bảng điều khiển trung tâm. Cái gạt tàn trong xe cô lấp đầy những bã kẹo cao su và tàn thuốc. Gạt tàn xe của Paul thì sạch bóng. Có thể để đồ ăn lên đó, nếu muốn. Susan kiểm tra điếu thuốc; thật đáng xấu hổ nếu để tóp thuốc vào cái gạt tàn sạch bóng của anh ta. Paul đã quay lại và đang dựa người vào giữa hai cái ghế để tìm cái gì đó phía sau. Cô không muốn vứt toẹt cái tóp thuốc ra sàn bãi gửi xe - cô đang muốn thay đổi để có thái độ và cách ứng xử tốt hơn, nhất là với chuyện xả rác. Có lẽ Paul sẽ có cái gì đó trong khoang đựng đồ mà cô có thể sử dụng để gói cái tóp thuốc lại và cho vào trong túi của mình. Cô mở ngăn đựng đồ. Bên trong là một cái đèn pin và một cái bản đồ được gấp lại. “Chúa ơi, Paul”, cô nói. “Anh sạch quá đi mất.” Chiếc xe thậm chí còn có mùi khử trùng, giống như một phòng tắm công cộng mới được cọ rửa.
“Anh đã làm gì vậy? Nhúng xe vào thuốc tẩy à?” Cô hỏi. “Vì nó có mùi giống như…” Cô lấy bản đồ ra và lật giở nó trong tay. Đó là một bản đồ hải lý của Willamette. “Clorox.”
Hắn túm lấy Susan từ phía sau khi cô với tay ra tay cầm cửa xe. Cô cào tay vào cửa xe nhưng hắn đã đập tay vào nút khóa và tất cả các khóa điện lập tức chèn vào vị trí với tiếng rít cơ học. Cô vật lộn, cố với tới nút trên tay cầm cửa xe để mở cửa, nhưng hắn đã vòng tay siết vào cổ cô rồi bịt cái gì đó vào miệng và mũi khiến cô không thể thoát ra được. Cô đánh lại, dùng cả đầu gối, khuỷu tay nhưng vẫn không đủ. Hắn có thế đòn bẫy bám chắc chắn vào cô. Cô nghĩ đến tất cả mọi thứ: ước gì cô đã kiên nhẫn hoàn thành các lớp học tự vệ, giá mà cô mang đôi giày da cao cổ, với những chiếc giày có mũi bọc thép; giá mà cô vẫn để móng tay thật dài để có thể móc mắt hắn ra; giá mà, ước gì, không một thứ gì có thể làm cô ngạc nhiên. Cô xoay xở để lấy bật lửa ra, nghiền mạnh vào cổ hắn cho đến khi hắn phải hú lên và vặn lại cổ tay cô khiến cô phải buông nó xuống. Cô đã muốn giết chết hắn, nhưng cô sẽ để lại việc đó và chỉ để chiếc bật lửa làm cháy thủng một lỗ trên chiếc thảm xe sạch sẽ không tì vết. Đó có lẽ là dấu tích cô để lại: một vết cháy để lại trên bề mặt còn nguyên sơ. Thật hoàn hảo. Đó là suy nghĩ cuối cùng trong tâm thức trước khi bóng tối nhấn chìm cô.