CHƯƠNG 4
Susan ngồi trên sàn nhà, chưa mặc quần áo, trước cái quạt bàn, gai ốc cô nổi lên mỗi lần hơi ấm của quạt thổi vào. Cô đã tắm nước lạnh và mái tóc xanh lam đang ướt nhẹp, chải ép sát vào đầu. Cô vừa mới chuyển màu tóc từ hồng sang xanh hai ngày trước, và da đầu vẫn còn xót vì thuốc nhuộm. Chuyện đó, cộng với thời tiết ba mươi lăm độ trên tầng hai trong một căn nhà chật chội từ thời Victoria, khiến cô không tài nào ngủ nổi. Tắm nước lạnh giúp ích đôi chút. Cô đã rũ được mùi khói thuốc khỏi mái tóc. Mặc dù vì lí do gì đó mà mùi bắp rang bơ của Parker thì không thể rửa trôi được.
Cô nhìn chằm chằm vào chiếc laptop màu trắng nằm trên sàn nhà bên cạnh mình. Bản thảo cuối cùng của câu chuyện về Molly Palmer sắp được in ra ngày hôm sau. Lão khốn cuối cùng cũng sẽ nhận được thứ lão đáng phải nhận.
Cánh cửa dẫn vào phòng hé mở.
“Mẹ!” Susan kêu lên.
Bà Bliss, mẹ của Susan, có vẻ giật mình. Những lọn tóc nhuộm dài của bà được quấn cao trên đỉnh đầu; chiếc áo dài caftan [5] khẽ phất phơ quanh cơ thể dẻo dai nhờ yoga. Bà bê một ấm trà kiểu Nhật trên cái khay liễu đan. “Mẹ chỉ mang trà bạc hà cho con thôi mà”, bà nói.
Susan lùa tay qua mái tóc ướt và kéo đầu gối sát ngực để che thân hình mình. Trong khi bà mẹ đã năm mươi nhưng mang dáng dấp của một cô gái ba mươi, còn Susan hai mươi tám nhưng lại có cơ thể của cô bé mười lăm tuổi.
“Mẹ gõ cửa được không ạ? Con không muốn uống trà. Trời cứ như là bốn mươi độ thế này.”
“Mẹ đặt nó ở đây nhé”, bà Bliss nói, cúi xuống đặt khay lên sàn. Bà nhìn lên Susan. “Con vừa mới ăn bắp rang bơ đấy à?” Bà hỏi.
Susan đã chuyển về sống với mẹ. Đây không phải là cách Susan kể chuyện với bất kì ai chịu lắng nghe. Với bất kỳ ai nghe chuyện, cô giải thích là cô chỉ đang ở tạm chỗ mẹ. “Ở tạm” là một từ chủ động, ám chỉ tình trạng nhất thời.
Thực ra cô đang “ở tạm” căn phòng cũ của mình.
Nó đã là phòng của Susan mười năm về trước. Nhưng bà Bliss đã biến nó thành phòng thiền chỉ hai phút sau khi Susan bước chân ra khỏi cửa để đi học đại học. Các bức tường được sơn màu quả quýt, rèm Ấn Độ đính hạt cườm màu bạc treo trên cửa sổ, và chiếu tatami trải khắp sàn. Trong phòng không có lấy một cái giường, hay bất kì đồ đạc nào khác, nhưng Bliss đã đoán trước tương lai mà treo một cái võng, để phòng có lúc cần phòng ngủ cho khách. Khi Susan gợi ý là cô có thể mua một cái đệm hơi, hoặc một cái futon [6] , Bliss đã giải thích rằng một phần tư dân số thế giới vẫn nằm trên võng như thế nào, và cái võng cụ thể này lại là phiên bản móc ba chính hiệu tận Yucatán [7] , chứ không phải loại rác rưởi móc đơn người ta vẫn treo ở sân sau. Susan biết tốt hơn là không nên tranh cãi với mẹ. Nhưng cô vẫn chưa thể xoay người mà không bị đau dữ dội ở bả vai kể từ đêm đầu tiên nằm trên cái võng khốn kiếp ấy, dù có móc ba hay là gì.
Căn phòng có mùi ngọt và nồng như của một trăm cây nhang Trung Quốc. Nó càng tệ hơn trong thời tiết nóng nực, và dù có mở cửa sổ ra thì không khí trên tầng hai căn nhà Victoria này cũng rất ngột ngạt, cứ như bộ quần áo quá chật vậy. Ít nhất cái võng còn thoáng lưng.
Susan tự nhủ sẽ tìm một căn hộ sau khi kết thúc bài báo về mối quan hệ giữa Thượng nghị sĩ và Molly Palmer. Ngay bây giờ, câu chuyện đó phải là ưu tiên hàng đầu. Cô không thể phí hoài thời gian vào việc tìm kiếm chỗ cho thuê nhà và đi xem các căn hộ được. Câu chuyện đó phải được ưu tiên trên hết.
Cô quay sang chiếc laptop và bật nó lên. Câu chuyện lại sáng trắng trên màn hình xanh nhạt. Con trỏ chuột đang nhấp nháy. Cô bắt đầu gõ.
Cô thà chết còn hơn kể cho ai biết sự thật: rằng cô sợ phải ở một mình. Rằng cô vẫn còn cảm nhận áp lực của chiếc thắt lưng quanh cổ mình. Rằng cô vẫn nằm mơ về Kẻ bóp cổ sau giờ học.
Cô điền mục “không bình luận” của Castle vào đoạn hai của câu chuyện và cười. Trước đây không lâu cô vẫn còn làm các bài luận cá nhân và những chuyên mục dễ thương về lễ hội cá hồi và các chương trình đốn gỗ.
Rất nhiều chuyện đã thay đổi trong chín tuần qua, kể từ khi cô được phân công câu chuyện kể về Thanh tra Archie Sheridan, trong lúc anh săn lùng Kẻ bóp cổ. Cô đã thay đổi.
Cô đã nghĩ đến việc gọi cho Archie cả chục lần trong hai tháng qua. Nhưng cô chưa từng làm thế. Không có lí do gì để gọi. Chuỗi bài về anh đã được đăng. Anh có gửi một tin nhắn tử tế sau bài cuối viết về Kẻ bóp cổ, và chúc cô những điều tốt nhất đẹp nhất. Không có lời mời uống cà phê. Cũng không có “hãy giữ liên lạc nhé”. Cô cho là tâm trí anh còn mải với những việc to tát hơn.
Như vậy là tốt nhất. Đừng phải lòng những người đàn ông lớn tuổi, và đã có vợ. Đây là luật mới của cô. Còn Archie Sheridan ư? Hơn cô mười hai tuổi, vẫn còn yêu vợ cũ. Đúng tuýp người cô thích, do đó hoàn toàn nằm ngoài tầm với. Hơn nữa, cô còn có việc phải làm.
Cô tập trung sự chú ý vào màn hình trước mặt.
Ưu tiên hiện nay của cô là lột mặt nạ gã Thượng nghị sĩ Castle đốn mạt. Tòa soạn đã chiến đấu với cô từng khúc một, bác bỏ toàn bộ câu chuyện như một lời đồn đã cũ. Cho đến khi Susan tìm được Molly. Đã có nhiều đồn đại về cái gọi là sự lăng nhăng của ngài nghị sĩ nhiều năm nay. Và vài phóng viên thậm chí còn thử tìm kiếm Molly. Molly từ chối nói chuyện với bất kì ai trong số họ. Nhưng cô ta và Susan có một điểm chung nào đó. Hồi nhỏ họ đều gặp phải chuyện khốn khổ khiến họ trở nên ngờ nghệch với đàn ông.
Với Susan, chuyện ấy đã dẫn cô tới những gã bạn trai tồi, ma túy, nếu tính cả cỏ marijuana, mà ở Portland, Oregon này thì không ai tính cả, và thể loại phô trương tồi tệ nhất, nghề làm báo tự thuật. Molly còn tệ hơn Susan trên mọi mặt trận.
Susan nghĩ, có thể họ sẽ giúp nhau tìm lối ra khỏi khu rừng.
Hay ít nhất là bớt chán ghét chuyện đó.
Susan vươn tay cầm cốc trà mẹ cô để lại và chạm vật dụng từ đất ấy lên môi. Nhưng nó vẫn còn quá nóng, không uống nổi.
Sáng sớm hôm đó, Susan ý thức được tiếng chuông điện thoại bàn. Mẹ cô vẫn dùng chiếc điện thoại từ hồi Susan còn nhỏ, một cái màu đỏ có trục quay số treo trên tường nhà bếp và sợi dây nối rối rắm đến nỗi bạn chỉ có thể nhấc ống nghe cách cái đế vài phân. Nó có tiếng chuông to đùng mà bà Bliss rất thích, vì bà có thể nghe thấy nó từ tận sân sau trong lúc đang đảo các đống phân bón hay đang vắt sữa dê. Còn tại sao bà Bliss quan tâm đến chuyện nghe thấy nó thì Susan không biết, bởi vì mẹ cô gần như không bao giờ trả lời điện thoại. Nên Susan rất ngạc nhiên khi điện thoại ngừng đổ chuông sau vài hồi.
Cô lăn mình - một động tác phức tạp làm cho chiếc võng lắc dữ dội - và trong vài phút đã đưa cô trở lại giấc ngủ.
Cô không chắc bao nhiêu thời gian đã trôi qua, nhưng cô cảm thấy mẹ đang ở cạnh mình. Cô ngọ nguậy và cố kéo cái chăn phủ lên đầu. Cô có thể nghe thấy tiếng xe tải gom rác tái chế ở trước nhà, nên cô biết lúc này tầm 7 giờ sáng. Chiếc thùng nhựa đựng lọ và bình thủy tinh va quẹt trên lòng xe bằng thép dày. Đó là một âm thanh kinh khủng, ghê gớm, như thể ai đó đang đập vỡ kính chắn gió của xe ô tô vậy. Susan không bao giờ quen với nó. “Gõ cửa”, cô nói với mẹ. “Nhớ không mẹ?”
Mẹ cô ấn nhẹ bàn tay lên cánh tay cô. Cái võng đung đưa. Có cái gì đó ở cú chạm cho cô biết là có chuyện không hay. Nó quá chắc chắn, quá chính xác. Cô chống cùi tay ngồi dậy, thọc ngón tay vào lỗ đan của cái võng để giữ thăng bằng. Khuôn mặt bà Bliss đau đớn. Ai đó đã chết.
Trái tim Susan dộng trong lồng ngực. Ai? Susan nghĩ về chàng phóng viên chuyên viết về thành phố mà cô từng hẹn hò vào hai tháng trước. “Derek ư?” Cô hỏi.
Bliss vuốt một bên tóc Susan. “Là Parker, con yêu”, bà nói. “Và Thượng nghị sĩ Castle. Họ đang ở trong một chiếc xe. Nó đã lao ra khỏi cầu Fremont sáng nay.”
Susan ra khỏi chiếc võng, rơi xuống sàn nhà lót chiếu tatami. “Cái gì cơ?”
Bliss ngồi xổm, đối diện với Susan, khuôn mặt bà buồn bã. “Cả hai đều đã chết, con yêu.”
“Cái gì?” Susan lại hỏi, giọng cô khẽ như một tiếng thì thầm.
“Ian vừa gọi từ tòa soạn”, bà Bliss khẽ nói. “Họ chết rồi.”
Parker. Susan bắt đầu quá trình tự thu nhỏ vào trong. Chỉ trong chớp mắt, cô lại là cô bé mười bốn tuổi và đang ở trong phòng bệnh cùng bố, bất lực, cô đơn, giận dữ. Cô gạt sự bất lực và cô đơn sang một bên, để cho cơn giận chiếm lấy.
“Ông ta chết thật rồi ư?” Cô hỏi. “Lão Thượng nghị sĩ khốn kiếp chết trước khi câu chuyện của con lên báo? Con đã bỏ ra hai tháng vì nó.” Cô có thể cảm nhận mặt mình đỏ lên, một cảm giác nhoi nhói dâng trong lồng ngực. Không phải Parker, cô nghĩ. Làm ơn, đừng là Parker. “Hai tháng trời.”
Bà Bliss chỉ ngồi nhón trên gót chân mình, trên tấm chiếu tatami, chờ đợi.
Susan sụt sà sụt sịt. “Parker chết rồi ư?” Cô hỏi, giọng nhỏ xíu.
Mẹ cô gật đầu.
Chuyện này không có lí gì cả. Parker làm gì trong xe cùng với Castle chứ? Sai rồi. Cô nhìn lên bà Bliss.
Đây không phải là một sai lầm.
Mặt cô nhăn lại. “Chết tiệt.” Cô nhắm tịt mắt một lát, cố thu lại những giọt lệ nóng bỏng sắp trào ra, rồi cô đứng lên và bắt đầu lục thùng các tông đựng quần áo nằm ở góc nhà.
“Con làm gì thế?” Bliss hỏi.
Susan tìm được một chiếc váy thun dài màu đen và mặc nó vào người. “Con sẽ tới đó.”
“Tới tòa soạn à?” Bà Bliss hỏi.
“Tới cầu. Con sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra.” Cô moi điện thoại ra khỏi túi xách và bắt đầu bấm số.
Bliss đứng dậy, vạt váy thun của bà phất phơ trong gió quạt. “Con đang gọi cho ai thế?”
Susan quệt nước mắt trên má bằng mu bàn tay và đưa điện thoại lên tai. “Archie Sheridan?” Cô hỏi.
Cô chạm vào tóc, đưa một lọn tóc xanh lên mũi. Mùi bắp rang bơ đã biến mất.