← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5

Archie đứng trên cầu Fremont. Đây là cây cầu mới trẻ nhất trong số mười cây cầu của Portland, một đường cao tốc bằng bê tông hai tầng, bốn làn xe, xây từ những năm 70 và lượn vòng bên trên Williamette, nối hai bờ Đông và Tây của thành phố. Hầu hết người Portland đều thừa nhận mình yêu thích một trong mười cây cầu: Hawthorne, Steel hay St. Johns. Ít người nhắc tới Fremont. Nó không sang trọng mà chỉ thực dụng; lớp sơn màu xanh nhạt đã bong tróc khỏi bê tông xám, như da bị bở ra sau khi cháy nắng. Nhưng Archie luôn yêu thích nó. Nếu bạn lái xe về phía Tây, nơi này cho tầm nhìn tốt nhất về thành phố, viễn cảnh phía Bắc và Nam thoáng tầm mắt, còn ngay trước mặt là đường chân trời lấp lánh của khu trung tâm, những ngọn đồi xanh rì phía Tây, dòng sông lười biếng uốn lượn lên phương Bắc, tất cả tắm mình trong ánh sáng hồng. Portland đôi lúc có thể quá xinh đẹp đến nỗi Archie nghĩ rằng trái tim mình sẽ ngừng đập chỉ vì nhìn ngắm nó.

“Xấu nhỉ?” Một giọng vang lên sau lưng anh.

Archie quay một phần tư bước và thấy Raul Sanchez. Anh ta là người chắc nịch với bộ ria xám gọn gàng, hai cánh tay khỏe mạnh và khuôn mặt như thể đã được đẽo từ gỗ trôi dạt. Anh ta đội chiếc mũ bóng chày màu xanh đen có chữ FBI màu trắng, cái áo gió cũng có dòng chữ FBI nhỏ màu trắng trên ngực và chữ lớn đằng sau lưng.

“Xin lỗi”, Archie hỏi. “Anh làm bên FBI à?”

Sanchez mỉm cười. “Họ thích chúng tôi tự xưng danh”, anh ta nói, trọng âm Mexico tinh tế uốn quanh các phụ âm. “Để người dân không nhầm chúng tôi với CIA.” Anh ta bước đến bên cạnh Archie. Đằng sau họ, cả bãi xe toàn là xe cứu thương đang đậu trên cây cầu đã bị chặn, đèn hiệu lấp lóe đỏ, trắng, xanh và cam.

“Nhìn kìa”, Sanchez nói, hếch cằm về phía những ngọn đèn đỏ nhấp nháy trên tháp thu phát sóng di động, trông chúng như những ngọn nến sinh nhật nhô lên từ ngọn đồi phía Tây. Ở đó còn có những cần trục xây dựng cao lớn đánh dấu khu vực bùng nổ các dự án chung cư và các tòa nhà đa chức năng. “Chỉ mười năm nữa, nó sẽ giống L.A.” Anh ta cười tinh quái với Archie. “Mấy người California sẽ tràn vào bang chúng ta. Anh biết bọn họ lười thế nào không. Họ còn chẳng thèm tự cắt cỏ nhà mình.”

“Tôi có nghe chuyện đó”, Archie nói.

Sanchez thọc hai tay vào túi quần và rung rung người trên hai gót chân đi ủng cao bồi. “Đã lâu không có cái xe nào lao qua thành cầu”, anh nói. Ánh đèn màu từ các loại xe cấp cứu khúc xạ trên tường xi măng sau lưng anh, trông như anh đang đứng trên sàn nhảy disco.

“Hai vụ trong mười năm”, Archie nói. “Một vụ tự tử trên cầu Marquam. Một chiếc thủy phi cơ trên cầu Morrison.”

Sanchez nhìn lên bầu trời trong vắt buổi sáng. “Chà, vụ này thì không phải là thủy phi cơ”, anh ta nói.

Archie cũng nhìn lên. Một đám trực thăng đưa tin đang lảng vảng trên đầu như những con quạ vờn quanh thứ gì sắp chết trong rừng. “Phải”, anh nói. Anh biết điều Sanchez đang nghĩ. Lái một chiếc xe lao qua thành cầu không đơn giản như bên ngoài nhìn vào. Bạn phải đánh bại nỗ lực của hàng chục khoảng cách an toàn của khoa học công trình: rào chắn xi măng cao chín mươi phân, một hàng rào mắt cáo. Bạn phải cực kỳ xui xẻo; hoặc là rất cố gắng.

Claire xuất hiện bên cạnh anh. Cô mặc quần bò và áo thun có ảnh chú chó bull trên ngực. Mái tóc ngắn của cô nhét gọn trong mũ lưỡi trai của ngư dân Hy Lạp. “Susan Ward đang ở đây”, cô nói. “Cô ấy bảo là đã gọi cho anh.”

Archie quay sang và nheo mắt nhìn phía Đông cây cầu, nơi cánh phóng viên mỗi lúc một đông đang bị dây bảo vệ hiện trường và đội cảnh sát đi xe máy ngăn lại.

“Họ lôi chiếc xe lên chưa?” Archie hỏi Claire.

“Sắp rồi”, cô nói. “Dưới đó có đến cả trăm năm rác rưởi mà các thợ lặn phải dọn dẹp.”

“À, dòng Willamette tinh khôi”, Sanchez nói.

Cứ như một sở thú vậy ki-lô-mét. Susan chưa từng thấy điều gì như thế này, có lẽ là trừ Hội chợ đồng quê vùng Oregon bên ngoài Eugene. Hội chợ ấy có 1,1 ki-lô-mét vuông toàn dân hippy, vũ công lửa và quầy bánh rán falafel [8] , còn nơi đây là một đám cảnh sát, báo chí và người đứng xem. Nhưng những người ở đây cũng có cùng cái nhìn háo hức như thế. Cứ như thể họ đang ở một nơi đặc biệt.

Susan đã đỗ xe cách lối rẽ từ cầu ra phố Kerby bảy dãy nhà và đi bộ. Cô đeo tấm thẻ Người đưa tin trên sợi dây quanh cổ và dùng tài ăn nói để vượt qua ba trạm kiểm soát khác của cảnh sát. Đi bộ trên cầu làm cho cô luống cuống. Không giống như hầu hết những cây cầu khác ở Portland, Fremont cấm khách đi bộ, chỉ trừ một dịp duy nhất mỗi năm, khi thành phố cho phép vài ngàn người Portland đạp xe qua. Hiển nhiên Susan quên mất ngày đạp xe trên cầu là ngày nào và luôn bị kẹt giữa dòng xe cộ, chính vì thế, lúc này cô đã thấy được sức hấp dẫn của nó. Có điều gì đó huyền ảo khi ở bên trên thành phố từng này mét. Rồi cô nghĩ đến những giây dài dằng dặc khi chiếc ô tô của Thượng nghị sĩ rơi tự do và nắm tay cô siết lại. Parker đã chết. Giờ cô phải cứng cỏi lên. Cô phải làm điều gì đó đối ngược với mọi bản năng phóng viên mà cô có: mạo hiểm cả đặc quyền nghề nghiệp của mình.

Cô phải nói cho Archie Sheridan biết điều mình biết.

Cô thúc khuỷu tay để dẹp đường qua chỗ các đội truyền hình, ai nấy đều mong chụp cận cảnh với dàn xe cấp cứu ấn tượng phía sau. Claire đã trông thấy cô và bảo sẽ đi tìm Archie cho cô. Nhưng hiện trường đông người đến nỗi một khi Claire mất dạng trong đám đông mặc đồng phục, Susan đã lập tức mất dấu cô ấy. Vậy là cô chờ trong lúc theo dõi cảnh sát, nghe lỏm các phóng viên khác, thu thập tất cả những thông tin có thể. Cô không nghe được mấy. Không có nhiều tiến triển cho lắm. Rồi cô nhận ra: không có vết trượt bánh. Ở đây có quá nhiều người, quá đông xe; nếu trên đường đã có vết trượt bánh thì hẳn là họ phải giăng dây bảo vệ rồi. Toàn đội khám nghiệm hiện trường đã phải bu vào những vết trượt ấy. Không hề có vết trượt bánh. Không phanh.

Lúc ấy cô trông thấy Archie và đứng thẳng dậy. Anh xuất hiện từ sau xe cảnh sát, hai tay thọc trong túi áo khoác thể thao, vai so lại chống cái rét sáng sớm. Mái tóc nâu của anh dày dặn, nhưng khi anh tiến lại gần, Susan có thể trông thấy vài lọn xám mà lần gặp trước không có, mới cách đây hai tháng.

“Tôi rất tiếc”, Archie nói khi tới chỗ cô. “Tôi biết cô và Parker từng thân thiết.”

Susan cảm thấy một cơn nghẹn ngào đen tối ở cổ họng và nuốt trôi nó xuống. “Chuyện gì đã xảy ra?” Cô hỏi. Archie nhấc tấm băng lên và Susan chúi người bên dưới, đi theo Archie trong lúc nói chuyện.

“Chuyện xảy ra vào khoảng 5 giờ sáng nay”, anh giải thích. “Chiếc xe đang phóng nhanh và mất lái bay ra khỏi cầu ở đúng khúc này.” Anh chỉ vào chỗ có một mảng trống lớn trên rào chắn bê tông, bộ khung thép lộ ra trông như khúc xương của một cấu trúc phức hợp. Một khoảng rào mắt cáo chừng ba mét đã bị gãy và treo lủng lẳng một bên. “Hai tài xế đã dừng xe và gọi 911.” Đội Tìm kiếm cứu nạn đã xuống đó trong 7 phút.” Hai người dừng ở mép cầu và nhìn đăm đăm xuống chiếc xuồng lớn của cảnh sát cùng hai chiếc thuyền nhỏ của đội tìm kiếm cứu nạn đang bập bềnh ở đoạn sông bên dưới; một vệt xăng loang màu cầu vồng tỏa ra trên mặt nước, đánh dấu chỗ ô tô đã lao xuống. “Nhưng cả hai đều đã chết”, Archie nói tiếp. “Thượng nghị sĩ và Parker. Họ đã lôi các thi thể ra cách đây khoảng một tiếng.” Anh quay sang nhìn Susan và nhướng một bên lông mày. “Đây là xe của Parker, Susan ạ. Cô có biết phóng viên hình sự của tờ Người đưa tin đang làm gì khi lái xe đưa ngài Thượng nghị sĩ cấp cao của bang chúng ta đi loanh quanh lúc rạng đông không?”

Bụng Susan nhói lên. Tại sao Parker không kể với cô là ông sắp gặp Castle? Không có vết bánh xe trượt. Lạy Chúa.

“Susan?” Archie hỏi, giọng hơi cảnh giác. “Cô cần phải cho tôi biết ngay.”

Susan nhìn quanh đám cảnh sát và phóng viên, không ai trong số họ có vẻ đang làm việc gì cụ thể. “Có chỗ nào riêng tư không”, cô nói với Archie.

Archie nhướng hai bên lông mày rồi chỉ cho cô theo anh và dẫn cô đi qua hai chiếc xe tuần tra, hai xe tải của cảnh sát, tới một chiếc Crown Victoria màu xanh đen, trong đó đồng sự của Archie là Henry Sobol đang ngồi ở ghế lái, hí hoáy viết lên một cuốn sổ. Cửa tài xế mở ra, Archie cúi vào và nói, “Tôi cần dùng xe.”

Henry ngước lên, mỉm cười khi trông thấy Susan. “Cô Ward”, anh nói. “Cô vừa đổi màu tóc đấy à!”

“Màu này gọi là ngọc lam nguyên tử”, Susan nói. “Tôi đã cân nhắc Khu rừng phép thuật nhưng nó có vẻ hơi ăn chơi quá.”

“Cô nói đúng”, Henry nói và trèo ra khỏi xe. Anh móc ngón tay cái sau lưng quần, trên chiếc thắt lưng màu xanh lam và bạc. “Ngọc lam trông chuyên nghiệp hơn.”

Anh không hỏi tại sao họ lại cần xe.

Archie mở cửa sau và giữ cho Susan lúc cô trượt lên chiếc ghế bọc da giả màu xanh hải quân ấm áp của chiếc Crown Vic. Rồi Archie cũng chui vào ngồi bên cạnh và đóng cửa lại.

“Ông ấy bị chết đuối à?” Susan hỏi.

“Có vẻ như vậy”, Archie nói nhẹ nhàng. Chiếc ô tô bị chìm rất nhanh. Khóa điện. Họ không thể thoát ra.”

Susan xoắn một lọn tóc xanh thành đoạn thừng căng. “Tôi cần giữ chuyện này cho hai ta thôi.”

Archie nhìn cô một lát. “Tôi không thể hứa chuyện đó. Đây không phải vụ án của tôi. Nó là của FBI. Thậm chí không phải FBI ở đây. Nếu cô kể cho tôi nghe điều gì đó mà tôi nghĩ là có liên quan đến vụ án, tôi buộc phải chia sẻ thông tin.”

Susan nói toẹt tất cả liền một mạch. “Thượng nghị sĩ Castle gian díu với cô trông trẻ. Mười năm trước, cô ta còn vị thành niên. Sau đó ông ta bày binh bố trận để che giấu.”

“Còn vị thành niên ư?” Archie nói. “Tôi tưởng cô ta lớn hơn thế.”

Susan chưng hửng. “Anh biết về Molly Palmer à?”

Archie nhún vai. “Tôi không biết tên cô ta. Nhưng đã nghe nhiều lời đồn.”

Susan biết trước đây đã có những lời đồn đại, hàng năm trời. Nhưng không ai tin, hoặc không ai muốn tin, bởi những đồn thổi ấy chưa từng xuất hiện trên báo. Nhưng cô không hề biết là cảnh sát cũng đã biết chuyện đó. “Và cảnh sát không bao giờ điều tra ư?” Cô hỏi.

“Người ta đã luôn đảm bảo với tôi rằng đó không phải là sự thật”, Archie nói.

Susan ngúng nguẩy bàn chân ra khỏi đôi xăng đan rồi khoanh chân dưới váy sau khi đã ý tứ xếp lại. “À, thật ra là đúng đấy. Tôi có cả núi bằng chứng, bao gồm cả Molly Palmer. Họ đã trả tiền cho cô ta. Họ đã trả tiền để một đứa trẻ vị thành niên giữ im lặng.” Cô kéo chiếc thẻ Người đưa tin của mình. “Bài báo đã được lên lịch in sau hai ngày nữa. Parker và tôi đã gặp luật sư của Castle ngày hôm qua để hỏi ông ta có bình luận gì không. Ông ta không bình luận gì.”

“Cô nghĩ Parker đã gặp lại ngài Thượng nghị sĩ à?” Archie hỏi.

“Tôi không biết”, Susan nói. “Có thể. Có thể Thượng nghị sĩ rốt cuộc đã chịu bình luận. Nhưng không đời nào có chuyện hai người đó ở trong cùng một chiếc xe mà không liên quan đến câu chuyện Molly Palmer.”

Archie tự gật đầu một phút rồi quay trở lại với cô. “Cảm ơn cô”, anh nói. “Thông tin hữu ích đấy.”

Susan thấy mặt mình nóng lên. “Không có gì.”

Henry gõ cửa xe, làm Susan giật thót. Henry vẫy ngón tay về phía cô rồi chỉ vào Archie, sau đó chỉ vào đồng hồ của anh ta. Archie trông thấy và gật đầu, một cử chỉ rất khẽ, gần như không thấy được. Susan cũng liếc đồng hồ của mình. Đã gần 8 giờ rưỡi.

“Salem?” Cô hỏi. Cô đã xem Archie và Gretchen trong một buổi gặp gỡ hàng tuần của họ. Nó vẫn ám ảnh cô.

Archie bóp gáy và nhăn mặt, giống như anh bỗng bị đau ở đâu đó. “Tôi không còn xuống đó nữa”, anh nói.

Susan giật mình. “Thật ư?”

Mặt Archie không có chút biểu cảm nào. “Chúng tôi đang tạm thời nghỉ ngơi”, anh giải thích. Đó là kiểu bạn vẫn mô tả về một khoảng thời gian thử chia tay, chứ không phải một cuộc điều tra án mạng đang tiếp diễn. Chúng tôi tạm thời nghỉ ngơi. Gặp gỡ những người khác. Khám phá các lựa chọn của mình.

Gretchen Lowell. Mỹ nhân đoạt mạng. Nữ hoàng Ma quỷ. Susan mới gặp ả một lần. Tóc vàng. Da trắng sứ. Ngoài đời ả thậm chí còn đẹp hơn trong tất cả các bức ảnh.

Susan mới mười sáu tuổi khi họ phát hiện ra nạn nhân đầu tiên của Mỹ nhân đoạt mạng, và đến bây giờ Gretchen Lowell vẫn làm cô có cảm giác mình ở tầm tuổi đó.

Hồi ấy, gần như ngày nào cũng có các bài báo, hầu hết được Quentin Parker viết. Đó là lần đầu tiên Susan biết đến Archie Sheridan, qua một bức ảnh trên báo, đứng đằng sau chiếc bục trong buổi họp báo hoặc đứng cạnh một thi thể mới nào đó.

“Tôi đã không gặp cô ta”, Archie nói. “Kể từ sau vụ Kẻ bóp cổ sau giờ học.”

Một cơn rùng mình bất giác làm lông trên cánh tay Susan dựng lên. Cô đổi đề tài. “Tôi nghe nói anh đã quay về với gia đình”, cô nói.

Archie mỉm cười và nhặt thứ gì đó ở ống quần lên. “Chúng tôi đang cố gắng”, anh nói bằng giọng dịu dàng.

Susan cười. “Tốt lắm. Rất tốt.”

Họ ngồi đó một lát, hoàn toàn im lặng với vẻ kì quặc. Ít nhất với Susan là kì quặc. Archie có vẻ không sao. Nhưng cô không thích sự im lặng. Nó làm cô có cảm giác như mình sắp sửa buột miệng nói một điều gì đó sẽ làm cô hối tiếc. Hoặc sắp khóc. Mà chính xác đó là điều đã xảy ra.

“Ôi Chúa ơi”, cô nói, quệt nước mắt trên má và nhìn vào nó, hoảng hồn cứ như thể nó là máu.

Archie đặt tay anh lên tay cô. Anh không nói gì. Anh chỉ chờ đợi trong lúc cô khóc.

“Đôi khi tôi sợ, những lúc ở một mình”, cô nói lắp bắp. Cô thò tay vào túi tìm một tờ khăn giấy cũ và xì mũi. “Chẳng phải thảm hại lắm hay sao?”

Archie vẫn ngồi bất động. Anh siết tay cô. “Không hề”, anh khẽ nói.

Susan nhắm mắt lại. Đôi khi cô ước mình có thể quay lại trước đó ba tháng, trước vụ án đã mang họ lại với nhau. Rồi cô nhớ ra Archie, tất cả những gì anh đã phải trải qua, và cảm thấy mình là đồ khốn.

“Tôi xin lỗi”, cô nói. “Parker làm tôi cảm thấy thương thân trách phận.”

“Sợ hãi cũng không sao cả, Susan”, Archie nói. “Cô sẽ ổn thôi. Cô không thảm hại chút nào.”

Cô cười với anh và gật đầu mấy lần. Anh luôn gọi cô là “Susan”. Không bao giờ là “Sue”, hoặc “Suzy”, hay “Suze” cả. Cô thích điều đó ở anh.

“Anh có thực sự nghĩ màu ngọc lam nguyên tử này ổn không?” Cô hỏi.

Cô có thể thấy Archie nhìn sang tóc cô, cân nhắc từ ngữ cẩn thận. “Tôi thích chuyện cô cả gan nhuộm màu này”, anh nói.

Cô quệt hai má và mũi bằng lòng bàn tay và cánh tay, rồi bắt đầu đứng dậy đi ra khỏi xe.

Archie ngăn cô lại bằng cách đặt một tay lên cánh tay cô. “Có thể tôi sẽ cần cô giúp một việc khác”, anh nói. “Tôi có một thi thể cần phải nhận dạng. Tôi có thể nhờ cô đưa lên báo. Tôi sợ câu chuyện sẽ bị chìm nghỉm trong tất cả mớ hỗn độn này.”

“Cô gái trong công viên à?” Susan hỏi.

Archie nhướng một bên chân mày ngạc nhiên. “Ừ.”

“Hãy cho tôi biết anh cần gì”, Susan nói. “Tôi sẽ làm những gì có thể.”

Vừa bỏ đi cô vừa thoáng nghĩ có phải Archie đang cài cô một chút, khi muốn cô giúp anh đăng bài, và có phải cô hơi dễ bị sai khiến không. Rồi cô đẩy những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Archie đâu có toan tính đến thế.