CHƯƠNG 8
Có hoa trên bàn làm việc của Parker. Một chậu violet châu Phi, một bó tulip vàng và một bó hoa gì đó màu hồng tươi mà chắc là Parker sẽ rất ghét. Một trong mấy cô gái ở phòng Nhân sự tầng ba đã mang nó lên đây.
Tất cả hoa đều không được cắm nước. Chúng sẽ chỉ nằm đấy, héo tàn, rồi chết và thối rữa. Việc đó thì có ích gì cho ai chứ, Susan không thể hiểu nổi. Ai đó chết, thế là phải giết luôn những thứ xinh đẹp à?
Tòa báo Người đưa tin nằm ở trung tâm thành phố. Nó được xây dựng từ một trăm năm trước rồi biến thành nạn nhân của một công cuộc cải tạo không may vào những năm 70. Các tầng nhà bị đục đẽo, ốp gạch, gắn đầy đèn huỳnh quang và hạ trần. Bàn của Susan nằm trên tầng năm. Tầm nhìn rất ấn tượng, có lẽ đó là điều tốt đẹp duy nhất có thể nói về nơi đó. Nó quá yên tĩnh so với Susan, quá mực thước, và bất kể nhiệt độ ngoài trời thế nào thì trong đó cũng quá lạnh.
Các ngày Chủ nhật ở Người đưa tin thường như ở Siberia. Tất cả tai to mặt lớn đều ở nhà. Tờ báo ngày Chủ nhật đã được in. Ngày thứ Hai chưa đến. Mọi việc được điều hành bởi một biên tập viên cấp cao trót rút phải lá thăm ngắn, và thường thì ông ta dành cả ngày ngồi tại bàn chơi xếp bài tây hay lướt net để đọc các trang web hay blog tin đồn. Có rất nhiều chuyện ngồi lê đôi mách. Không ai biết nhiều chuyện đồn thổi hơn báo chí, dù họ thừa nhận hay không.
Ngày Chủ nhật cụ thể này lại là ngày làm việc toàn thời gian. Một Thượng nghị sĩ đương chức đã chết. Parker, một thành viên của tòa báo cũng chết. Họ đã có sẵn bản tin buổi tối để in, và một website đòi hỏi câu chuyện sốt dẻo mỗi phút để cạnh tranh với các bản tin truyền hình. Hầu hết nhân viên phòng tin tức đều đã đến, các biên tập viên ngôn từ, những cây bút chuyên mục. Nhưng ở đây còn có cả các biên tập viên chính, trợ lý biên tập, thực tập sinh, nhân sự, lễ tân, cả người phê bình truyền hình dự định viết một bài về cách đài truyền hình đưa tin câu chuyện nữa. Ai nấy đều muốn dự phần vào vụ việc. Thảm kịch càng lớn thì bạn càng muốn tham gia. Chính điều đó phân biệt cánh phóng viên với những người bình thường.
Susan mặc một cái áo nỉ có mũ, trùm qua váy đen mà cô vẫn cất trong bàn làm việc và gục đầu xuống hai bàn tay. Molly Palmer đã ngãng ra và không trả lời các cuộc gọi của Susan. Cô lại bấm số điện thoại di động của cô ta lần nữa. Không thấy gì. Họ đã lên kế hoạch đăng bài về Thượng nghị sĩ vào số báo hôm sau. Nó sẽ là một ngày tổng tiến công. Ảnh chụp Castle trên trang nhất. Một dòng tít lớn, đậm nét thông báo cái chết của ông ta. Đó là kiểu báo giấy mà người ta vẫn còn bỏ tiền mua và Susan muốn bài báo của mình xuất hiện trên đó.
Susan lùi lại trên ghế để xem Ian đã ra khỏi cuộc họp chưa. Cánh cửa phòng họp vẫn đóng im ỉm. Ian đã vào đó cả tiếng với Howard Jenkins và một tập hợp các cấp quản lý của Người đưa tin, những người đang lên kế hoạch đăng tin về Castle và quyết định số phận câu chuyện của cô. Cô đã tưởng mình được thêm vài điểm thành tích với chuỗi bài về Archie Sheridan và Kẻ bóp cổ sau giờ học. Nhưng rốt cuộc, nó chỉ là chuyện làm chính trị trong tờ báo mà thôi. Và không có Molly xác tín cho câu chuyện của mình với các nhân viên tra soát sự thật, tờ Người đưa tin sẽ chỉ đăng bậy thôi.
Susan lại bấm số của Molly. Không thấy gì.
Chết tiệt. Molly không hẳn là một đối tượng sẵn lòng. Cô ta chỉ đồng ý gặp mặt trực tiếp hai lần. Và liên lạc với cô ta khó hơn lên trời. Molly sẽ tắt điện thoại và quên không bật cả mấy ngày sau.
Susan đã làm một đoạn xích bằng kẹp giấy dài chín mươi phân và tết sáu bím nhỏ trên mái tóc xanh của mình. Bây giờ cô lại tháo mấy chiếc kẹp ra và đặt nó lại hộp giấy, tháo bím tóc ra rồi bện lại.
Cô có thể ngửi thấy mùi mật hoa ngọt ngào thoang thoảng từ những bông hoa trên bàn Parker.
Dãy màn hình tivi được gắn trên tường, bên trên các biên tập viên câu chữ đều đang đưa tin trực tiếp về vụ tai nạn của ngài Thượng nghị sĩ và Parker. Susan không thể nhìn lên. Cô muốn ra khỏi văn phòng. Cô muốn tìm Molly. Cô muốn làm một việc gì đó.
Susan nghe một giọng hỏi, “Em có sao không?” Cô ngước lên và trông thấy Derek Rogers. Cặp lông mày vàng cát của anh ta nhíu lại lo lắng. Cô hầu như luôn né tránh anh ta kể từ khi nói lời chia tay. Cô đã cố giải thích rằng anh ta không phải tuýp người cô thích như thế nào. Anh ta là người dứt khoát và trách nhiệm. Cô thì lộn xộn. Anh ta uống cà phê cùng sữa và đường. Cô chỉ uống cà phê đen.
Sự thực là, anh ta muốn có một cô bạn gái. Còn cô thì không muốn làm bạn gái của bất kì ai vào lúc này.
“Anh không thể tin được là ông ấy đã ra đi”, anh ta nói, cái lúm ở cằm càng sâu thêm. Rồi lắc đầu. “Thật là một câu ngốc nghếch”, anh nói. “Ai cũng nói vậy, đúng không?” Cả Susan và Derek đều vật lộn để giành sự chú ý của Parker. Đó là một trong vài điểm chung ít ỏi của họ.
“Em biết anh cũng thực sự quý mến ông ấy”, cô nói.
“Nếu em muốn nói chuyện”, Derek đề nghị, “em đã có số của anh.”
Sao anh ta phải tử tế thế cơ chứ?
Cánh cửa phòng họp mở ra và Susan đẩy ghế lùi lại. Nó lăn nhanh đến nỗi cô suýt bị oằn nguời ra sau.
Ian nhìn sang và giơ ngón cái gọi cô tới.
“Có nhiệm vụ rồi”, cô bảo Derek và đứng dậy, đi trên lối trải thảm giữa các bàn làm việc để vào phòng anh ta. Nó có một chiếc cửa sổ, nhưng chỉ nhìn vào phòng tin tức. Trong phòng có nhiều tấm bảng dán đầy các mẩu báo theo chuyên mục, để anh ta có thể kêu từng phóng viên vào và lật qua lật lại từng câu từng chữ trong bài của họ, cho đến khi bạn muốn khóc hay thọc dao vào cổ anh ta.
Cô đã quyết định là sẽ bỏ việc nếu họ không cho chạy bài. Hoặc đâm anh ta. Tùy xem kiểu nào thôi thúc nhất. Có khi là việc đâm chém.
Anh ta ra hiệu cho cô ngồi xuống và cô thả phịch người xuống ghế.
“Chúng ta sẽ cho chạy bài”, anh ta nói. “Nhưng sẽ phải thay đổi đôi chút.”
Susan giật gấu áo nỉ. “Thay đổi ư?”
Ian tóm đuôi tóc nhỏ của mình. “Thượng nghị sĩ là một người nổi tiếng trong bang này. Ông ta được yêu mến. Chúng ta phải giới thiệu câu chuyện trong ngữ cảnh đó. Ông ta tằng tịu với một thiếu nữ. Và đó là một sự suy xét rất sai lầm.”
Susan có thể cảm nhận câu chuyện đang tuột khỏi tay mình. Suy xét sai lầm ư? Ngày hôm qua nó vẫn còn là câu chuyện thế kỉ. “Nó không phải là một cuộc tình”, cô nói. “Lúc ấy cô ta mới vị thành niên.”
“Sao cũng được”, Ian nói. Anh ta bấm chuột trên máy tính, một văn bản Word bật lên trên màn hình. “Tôi sẽ cố gắng cơ cấu lại câu chuyện. Tôi sẽ tham khảo ý kiến cô về các chỗ biên tập. Chúng ta định đăng bài này. Nhưng không phải trong loạt điếu văn ngày thứ Hai. Làm thế có vẻ không hợp tình cho lắm.”
Hợp tình? “Parker là biên tập viên của tôi”, Susan nói.
Cô nhìn Ian đánh dấu một câu trong bài của mình và bấm nút xóa. “Tôi biết việc này với cô rất khó khăn”, anh ta nói.
“Parker là biên tập viên của tôi”, Susan lặp lại. Sau lưng Ian, gắn trên tấm bảng tin là những bức ảnh của Castle qua các năm, nhìn ông ta đầy tự mãn và kiêu ngạo. Ai đó đã viết vài ý tưởng lên những mẩu giấy và gắn chúng cạnh mỗi bức ảnh.
Toàn bang thương tiếc cho người con thân yêu. Thượng nghị sĩ qua đời trong một vụ tai nạn. Nhà bảo trợ cho người nghèo tử nạn thương tâm trên cầu.
Không một dòng nào nhắc nhớ đến Parker. Ông ấy phải may lắm mới được nêu tên.
Ian nhấc điện thoại trên bàn lên và bấm số 9 để gọi ra ngoài. Susan nhìn thấu cử chỉ ấy. Anh ta không thực sự cần gọi điện; mà chỉ là một tín hiệu vụng về từ phía anh ta rằng cuộc họp đã chấm dứt. “Chúng tôi cần thông tin liên lạc với nguồn tin của cô”, anh ta lơ đãng nói, “để gọi cho Molly Palmer.”
“Không hề gì”, Susan nói.
Cô giậm bước về bàn mình, ngồi xuống ghế và chậm rãi xoay tròn. Ai đó lại để thêm một bó hoa trên bàn Parker, một túm cẩm chướng tím ngắt và hoa sao trắng. Chúng được gói lại bằng giấy màu xanh lá và thắt ruy băng đen. Hàng chữ vàng in trên ruy băng là: Cầu chúc ông an nghỉ.
Susan lôi điện thoại di động ra khỏi túi áo nỉ và bấm số.
“Tôi phải ra khỏi đây”, cô nói vào điện thoại. “Anh có còn muốn vài dòng về cô Jane Doe của anh không?”
“Tôi đang ở trong công viên đây”, Archie Sheridan trả lời. “Cô tới gặp tôi được không?”
Archie ngồi trên đất ẩm, chỉ cách chỗ cô gái bị giết vài mét. Thời tiết đã thay đổi, ánh nắng đã biến mất, thế chỗ nó là màn mưa phùn buồn bã. Công viên mang mùi của cái chết. Những khúc cây mục, cành gãy rục, dâu chín rữa. Archie phủi ít đất trên quần và nhắm mắt lại.
Đây là nơi mọi chuyện bắt đầu. Archie và Henry tiếp nhận một cuộc gọi báo có một cô gái đã chết tại phần cao hơn của công viên. Cô gái vẫn còn trẻ. Thiêu. Bị tùng xẻo nhiều chỗ. Đó là chuyện từ mười ba năm trước. Nạn nhân đầu tiên của Mỹ nhân đoạt mạng. Vụ án mạng đầu tiên mà Archie điều tra.
Archie liếc xuống cuốn sách bìa mềm đặt trên nền đất. Gretchen đang nhìn lại anh. Anh không biết tại sao mình lại mang theo nó, tại sao không để nó trong xe, tại sao anh không ném nó vào thùng rác ở trạm xăng gần nhất. Anh biết một điều: Thằng nhóc Jacod Firebaugh này sắp bị mắng cho thủng màng nhĩ.
Bỗng có tiếng sột soạt phía sau anh trên lưng đồi. Dương xỉ oằn mình dưới chân người, đất lở xuống, cành cây gãy. Archie giật lùi cảnh giác, mắt mở to, trong một giây anh lần ngay xuống khẩu súng bên hông, đặt nhẹ bàn tay lên bao da. Anh quay lại và thấy một đứa trẻ đang đứng phía trên mình vài mét ở lưng chừng đồi.
Cậu bé khoảng mười hai tuổi, vẫn đang thở hổn hển do chuyến đi xuống đồi, những cành dương xỉ rung rinh đằng sau. Cậu có dáng vẻ mỏng manh, làn da trắng và mái tóc đen, miệng gắn niềng răng lấp lánh. Cậu mặc một chiếc áo thun Oregon Ducks và quần soóc dài đến đầu gối, túi và nắp nặng trịch, hai bắp chân thẳng và gầy nhằng như chân chim. Cậu đang cầm hộp cơm bằng kim loại kiểu Peanuts cũ. “Chú là thanh tra ạ?” Cậu hỏi.
“Ừ”, Archie nói, đưa tay khỏi khẩu súng.
Cậu bé ngồi cạnh Archie, khoanh chân kiểu Ấn Độ, đặt hộp cơm trên đùi.
Archie nhặt cuốn Nạn nhân cuối cùng lên và chuyển nó sang phía bên kia, tránh khỏi cậu bé. “Chú giúp được gì cho cháu không?” Archie hỏi.
“Cháu ổn”, cậu bé nói.
Cả hai ngồi im lặng một lát, nhìn dòng nước lặng lờ trôi bên dưới.
“Chú có con không?” Cuối cùng cậu bé hỏi.
“Hai đứa”, Archie trả lời. “Sáu và tám tuổi.”
Cậu bé gật đầu hài lòng. “Cháu muốn cho chú xem một thứ.”
Archie nhìn cậu. Cậu cô đơn. Tìm kiếm sự chú ý. Archie không có thời gian chiều chuộng cậu ta. Nhưng có điều gì đó trong mắt cậu, một sự nghiêm túc đủ làm Archie phải đồng ý. Thế thì đã sao. Anh sẽ nhìn vào pháo đài hay bất kể cái gì mà cậu bé có, rồi về nhà với gia đình mình.
Archie đứng dậy.
“Đừng quên cuốn sách của chú”, cậu bé nói và chỉ vào cuốn Nạn nhân cuối cùng.
Archie nhìn xuống khuôn mặt Gretchen, hình nền màu hồng, những chữ cái mạ vàng. “À, ừ nhỉ”, anh nói rồi cúi xuống nhặt nó lên.
Cậu bé lần mò trèo lên trên vài mét. Archie bước cẩn thận trên đoạn đê bằng bùn phía sau cậu ta, nhớ lại chàng cảnh sát đã lạc bước. Nhưng cậu bé trở nên sốt ruột và giơ một cánh tay hết kiên nhẫn ra. Archie nhét cuốn sách vào lưng quần và cầm tay cậu, cậu bé dẫn anh lên đồi, quay về đường chính và bắt đầu đi bộ về phía tây, vào sâu hơn trong rừng. Mưa mau hơn và đã trở thành một màn nước rơi lộp độp liên tục xuống thảm lá xanh trên đầu. Hai ống quần Archie đen kịt bùn và lòng bàn tay anh bám đầy đất vì cố giữ thăng bằng trên đồi. Ánh sáng nhanh chóng nhạt đi. Cậu bé đang đi với độ dốc tới bốn mươi độ, dấn bước nhờ có mục đích, bàn chân cậu di chuyển gấp đôi. Archie phải cố lắm mới theo kịp. Cậu bé dừng bước, nhìn vào Archie, rồi nhìn lên một lưng đồi khác.
“Thật à?” Archie hỏi.
Cậu bé trèo thêm mấy bước lên đồi rồi quay ra đưa tay cho Archie. Anh nắm tay cậu lần nữa và để cậu dẫn lên. Cả hai đi được nửa đường thì Archie cảm nhận một chỗ đau âm ỉ bên dưới mạn sườn phải. Anh nhăn mặt, bàn chân trượt trong bùn và ngã khuỵu xuống gối, làm bùn chuồi hết vào hai ống quần. Phải mất một phút anh mới lấy lại được hơi thở trước khi để cậu bé kéo mình đứng dậy và họ lại bắt đầu trèo. Archie cố thở trong cơn đau. Nó không phải là chuột rút. Không đau nhói như thế. Nó là loại đau đớn dịu nhẹ hơn, lan rộng hơn. Đầu tiên Archie tưởng là do cuốn sách bị nhét vào cạp quần anh đã ấn mạnh vào bụng, nhưng khi anh đẩy nó sang bên trái thì cơn đau vẫn còn ở bên phải. Tuy nhiên, anh vẫn lấy sách ra khỏi quần và kẹp nó dưới nách, tập trung vào cậu bé. Đôi giày màu xanh ngập bùn của cậu ta lúc nào cũng ở trước anh vài mét, và chỉ vài phút sau, cơn đau kì lạ đã dịu dần. Ở đỉnh đồi, mặt đất phẳng ra. Trên đó đầy cây cối. Cậu bé nhìn lên Archie. “Cháu thu thập tổ chim”, cậu nói.
Archie thôi không cố phẩy một loại lá nhớp nháp nào đó ra khỏi chiếc quần ẩm sì của mình. “Hay lắm”, anh nói.
“Cháu tìm được một cái ở chỗ này cách đây vài tuần.” Cậu bé dùng mũi giày chỉ xuống mặt đất. “Ngay đây.”
“Giỏi”, Archie nói.
“Có cái gì đó sai sai với nó”, cậu bé nói.
“Với cái tổ à?” Archie hỏi.
Cậu bé nghiêm nghị nhìn Archie rồi lại ngồi xuống, khoanh chân, đặt hộp cơm trưa lên đùi và mở nó ra. Bên trong là một cái tổ chim. Cậu cẩn thận nhấc nó ra khỏi hộp cơm và đưa cho Archie.
Archie đỡ lấy. Mặt trời đã lặn thêm một ít và công viên trở nên rất lạnh. “Cháu đã tìm thấy cái này ở đây”, anh lặng lẽ nói. “Ngay chỗ này.”
Cậu bé nghiêm túc gật đầu. “Có gì đó sai sai đúng không chú?”
“Ừ”, Archie nói. Anh lấy điện thoại di động ra và gọi Henry, cánh tay vẫn kẹp chặt cuốn sách.
“Tôi đây”, anh nói. “Tôi đang ở Công viên Forest. Cử đội Tìm kiếm Cứu nạn ra đây. Và một chú chó nghiệp vụ nữa. Tôi nghĩ chúng ta có một cái xác khác.”
Ngoài cành cây và dây leo là những thứ đã được thu thập trên mặt đất, cài vào tổ chim này còn có những sợi tóc dài màu vàng.
Khi Archie nhìn lên, cậu bé đã biến mất.