CHƯƠNG 13
Archie vẫn không chắc anh đồng ý để Sarah Rosenberg trị liệu cho mình vì cần được giúp đỡ, hay là vì muốn có cái cớ để ngồi trong căn phòng mà Gretchen Lowell đã chuốc thuốc mê để bắt giữ anh.
Đây là buổi trị liệu sáng thứ Hai của anh. Không còn những ngày Chủ nhật ghé qua nhà tù bang để thăm Mỹ nhân đoạt mạng nữa, nhưng thứ Hai nào anh cũng dành một giờ ngồi đối diện với cái bàn gỗ lớn của Gretchen. Trên một trong những chiếc ghế bành kẻ sọc bọc đệm dày của ả. Anh nhìn chiếc đồng hồ quả lắc của ả, thời gian đã bị kẹt lại ở 3 giờ 30 phút. Anh nhìn giữa những tấm rèm nặng nề bằng nhung màu xanh lục, ra ngoài cây anh đào rậm lá bên ngoài cửa sổ.
Chỉ có điều không có thứ gì ở đây thuộc về Gretchen. Ả đã dùng tên giả để thuê lại căn nhà từ một nhà tâm lý học đã đi nghỉ ở Ý. Đây là nơi cuối cùng cảnh sát lần được theo dấu vết Archie. Nhưng đến lúc ấy thì Gretchen đã chuyển anh sang một ngôi nhà khác. Nhà tâm lý học, Tiến sĩ Sarah Rosenberg, và gia đình chị đã quay trở lại; chiếc thảm đã bị Archie đánh đổ cà phê chứa thuốc mê giờ đã được thay thế.
“Hôm nay tôi muốn nói chuyện về Gretchen Lowell”, Rosenberg nói.
Đây là buổi thứ tư của họ. Và là lần đầu tiên chị nhắc đến Gretchen. Archie ngưỡng mộ sự kiềm chế của chị. Anh hớp chậm rãi một ngụm cà phê từ cốc giấy mà anh đã đặt trên tay ghế. “Được”, anh nói. Anh cảm thấy ấm áp và dễ chịu, vừa đủ hứng khởi để có thể thư giãn, không đủ hứng tới mức làm Rosenberg chú ý.
Rosenberg mỉm cười. Chị có thân hình dẻo dai với mái tóc tối màu xoăn tít buộc túm sau gáy, có lẽ già hơn Archie đôi chút, mặc dù ai thoạt trông cũng đoán Archie lớn tuổi hơn. Anh thích chị ta. Chị giỏi hơn chuyên gia tâm lý của cơ quan mà anh đã phải gặp suốt sáu tháng. Nhưng vì lí do nào đó, Archie vẫn luôn thấy thoải mái hơn khi nói chuyện với phụ nữ.
“Tôi muốn nói về sáu tuần mà anh quen biết cô ta trước khi cô ta để lộ mình”, chị nói.
Đó là một điều mà văn phòng anh không muốn nói tới, cái thực tế Gretchen đã xâm nhập vào cuộc điều tra lâu đến thế trước khi để lộ mình. Việc đó làm họ có vẻ không mẫn tiệp lắm. Archie thở dài và nhìn sau lưng Rosenberg ra ngoài cửa sổ. “Một ngày nọ cô ta cứ thế xuất hiện”, anh nói. “Cô ta bảo mình là một chuyên gia tâm thần học. Cô ta đã điều khiển vài buổi tư vấn nhóm. Tôi cũng đã tham vấn cô ta về hồ sơ tội phạm.” Anh xoa bóp gáy và mỉm cười. Mùi cà phê thoảng lên từ trong cốc. Anh đã mang theo cà phê bởi nếu không mang theo, đôi khi anh cảm giác mình vẫn ngửi thấy mùi tử đinh hương. “Có vẻ như cô ta có vài thông tin trong cuộc”, anh nói.
Rosenberg ngồi trên một chiếc ghế kẻ sọc khác, chỗ Gretchen từng ngồi. Chị bắt tréo chân và cúi người. “Như thế nào?” Chị hỏi.
Một chú sóc bỗng nhảy lên một cành anh đào, làm lá của nó rung rinh. Archie uống thêm một ngụm cà phê nữa rồi đặt nó trở lại tay ghế. “Cô ta là người đầu tiên gợi ý rằng kẻ sát nhân có thể là một phụ nữ”, anh nói.
Rosenberg giữ một tập giấy ghi chú màu vàng trên đùi và viết điều gì đó. Chị mặc chiếc quần rộng màu đen, áo sơ mi xanh lục và đi đôi tất vàng cùng màu với cuốn sổ. “Phản ứng của anh với chuyện đó là như thế nào?” Chị hỏi.
Archie để ý thấy chân trái của anh bắt đầu run không ngừng. Anh thúc gót xuống sàn nhà. “Chúng tôi gần như đã cạn kiệt mọi đầu mối khác”, anh nói.
“Cô ta có mời tư vấn cá nhân không?” Rosenberg hỏi.
“Có”, Archie nói.
“Cô ta tư vấn cho anh chứ?” Chị hỏi.
Anh lôi hộp thuốc ra và cầm nó trong nắm tay đặt trên đùi. “Vâng.”
“Chỉ mình anh à?”
“Vâng.” Nếu Rosenberg để ý tới chiếc hộp, chị cũng không nói gì.
“Hai người đã nói về chuyện gì?” Chị hỏi.
“Vẫn là những chuyện như tôi và chị nói với nhau đây”, Archie nói. “Công việc của tôi.” Thực tế anh đã cởi mở với Gretchen hơn. Anh đã chia sẻ tất cả mọi thứ. Sự căng thẳng của cuộc điều tra. Áp lực mà nó đặt lên mối quan hệ của anh với Debbie. “Cuộc hôn nhân của tôi.”
Rosenberg nhướng một bên chân mày. “Hẳn là anh khá buồn bực khi nhận ra mình đã chia sẻ tất cả những ý nghĩ riêng tư ấy với một kẻ giết người.”
Khá buồn bực. Đó cũng là một cách nói. Điều buồn cười là ở chỗ, lúc đó, anh thấy mừng vì có người tâm sự cùng. Quá tệ vì ả lại rạch mặt người khác làm thú vui. “Cô ta là người giỏi lắng nghe”, Archie nói.
“Vậy là anh dành nhiều thời gian với cô ta hơn những người khác”, Rosenberg nói, bút của chị đặt sẵn trên tập ghi chép.
“Vâng”, Archie nói. “Tôi đoán vậy.”
“Anh đã có những buổi tư vấn ở đâu?” Chị hỏi.
Archie giơ một tay lên. “Ngay đây.”
Rosenberg ngồi thẳng dậy và nhìn xung quanh văn phòng tại nhà của mình. “Tôi hiểu vì sao cô ta lại tư vấn cho anh về một vụ án ở đây, nhưng việc kia là bất thường. Chuyện cô ta đã thực sự trị liệu cho anh trong nhà cô ta.”
“Tại sao?” Archie hỏi. “Chị đang làm thế đấy thôi.”
“Tôi là nhà tâm lý”, Rosenberg nói. “Cô ta bảo mình là chuyên gia tâm thần.” Chị viết điều gì đó vào sổ ghi chép, vừa viết vừa lắc đầu.
“Cô ta có phải chuyên gia tâm thần học thật đâu”, Archie nhắc nhở chị.
Rosenberg nhìn lên từ cuốn sổ. “Anh đã bao giờ nghi ngờ cô ta chưa?” Chị hỏi.
Chân anh lại run. Archie không buồn ngăn nó lại nữa. Cảm giác khá tốt, một nơi để nguồn năng lượng bồn chồn được thoát ra. Anh nâng cốc cà phê lên nhưng không hề uống. “Đến tận lúc loại thuốc tê liệt mà cô ta lén thả vào cà phê của tôi phát tác”, anh nói. Anh đặt cái cốc giấy lên sàn, mở hộp thuốc trên đùi mình, lấy ra một viên và nuốt chửng.
“Cái gì đấy?” Rosenberg hỏi.
“Altoid [9] “, Archie nói.
Rosenberg mỉm cười. “Tôi không chắc là anh nên nuốt chúng.”
Archie cười với chị. “Tôi đang đói.”
Rosenberg cúi người, thả chân rồi lại bắt tréo. “Tôi không thể giúp anh nếu như anh không trung thực với tôi”, chị nói.
Archie nhìn xuống hai bàn tay mình. Đôi khi anh nghĩ anh có thể trông thấy đường viền mờ mờ của nơi từng có chiếc nhẫn cưới. “Đôi khi tôi nghĩ về cô ta”, anh khẽ nói.
“Về Gretchen Lowell à”, Rosenberg nói.
Archie nhìn lên. “Tôi hình dung mình ngủ với cô ta”, anh nói.
Rosenberg đặt bút lên cuốn sổ. “Cô ta đã bắt giữ anh mười ngày”, chị nói. “Anh đã bất lực. Có lẽ những ảo tưởng của anh là một cách để chơi trên cơ cô ta.”
“Thế ra là nó hoàn toàn lành mạnh à”, Archie nói.
“Có thể hiểu được”, Rosenberg nói. “Chứ tôi không nói là nó lành mạnh.” Chị với tay qua và đặt một bàn tay lên cánh tay Archie. Chị mang nhẫn trên tất cả các ngón tay. “Anh có muốn vượt qua nó không? Để bỏ thuốc? Để vượt qua chuyện đã xảy ra? Để hạnh phúc với gia đình mình?”
“Có”, Archie nói.
“Đó là bước đầu tiên.”
Archie xoa gáy. “Có bao nhiêu cả thảy?”
Rosenberg mỉm cười. “Bớt được một bước.”
Có năm viên Vicodin [10] xếp hàng như năm phím piano nhỏ trên bàn làm việc của Archie. Anh lùa tất cả vào tay rồi nuốt trôi bằng chỗ cà phê lạnh còn lại sau buổi gặp Rosenberg.
Lúc đó là giữa buổi sáng và họ vẫn đang chờ báo cáo của phòng khám nghiệm về những cái xác mới. Archie liếc sang câu chuyện của Susan Ward trên tờ Người đưa tin đang đặt trên đùi anh. Đứa trẻ bí ẩn dẫn cảnh sát tới những cái xác mới. Thậm chí nó còn không được lên trang đầu. Nó nằm ở mục Đô thị, bị đè nén bởi các bài về cái chết của ngài Thượng nghị sĩ. Có lẽ cha mẹ của đứa trẻ bí ẩn kia sẽ đọc câu chuyện và kết nối sự việc lại với nhau. Archie muốn ít nhất chứng minh được với Henry là anh đang không điên. Trong lúc đó, họ đang giữ chú chó poodle. Để phòng khi anh đã bỏ qua đầu mối nào đó.
Archie chạm vào mạn sườn phải, chỗ chuột rút lâu năm của anh đã trở lại. Vicodin không giúp được gì.
Anh mở ngăn kéo bàn, và lại là Gretchen ở đó. Đêm hôm trước anh đã quay lại chỗ thân cây để lấy cuốn sách. Anh tự nhủ mình chỉ không muốn xả rác, không muốn một trong các nhân viên hiện trường tìm thấy nó, anh muốn kết thúc bằng việc cho nó một mồi lửa… Vậy thì tại sao anh lại mang nó về văn phòng, phủi hết bùn và đặt nó vào ngăn kéo bàn mình?
Raul Sanchez ló đầu vào cửa văn phòng Archie làm anh đóng sầm ngăn kéo lại. Sanchez đã bỏ mũ FBI và cởi áo khoác gió ra để mặc bộ vest nâu cùng cà vạt. Bạn gần như không thể nhận ra nó là loại kẹp sẵn. “Đi gặp Thị trưởng”, anh ta giải thích. “Họ đang lên kế hoạch cho một đám tang trước công chúng ở Waterfront rồi. Loa đài. Lều chõng. Toàn bộ món hổ lốn ấy.” Anh ta cười với chỗ chơi chữ. “Giao thông ở trung tâm sẽ tắc cứng cho mà xem.”
“Tôi sẽ chuồn khỏi thành phố”, Archie nói. Trông thấy người ta khóc lóc thương tiếc Castle hơi vượt quá sức chịu đựng của anh lúc này.
“Anh có tới lễ tang của Parker không?” Sanchez hỏi.
“Có”, Archie nói. Đám tang Parker là vào chiều hôm đó. Đám này thì chẳng có lều trại gì. Không có đội kiểm soát đám đông. Gia đình ông ta hẳn đã phải vượt muôn vàn trắc trở để sắp đặt được nhanh như thế. Archie nghĩ anh biết tại sao.
Sanchez do dự rồi bóp gáy. “Nồng độ cồn trong máu ông ta là 0,24.” Anh ta nhìn vào Archie đầy ẩn ý, rồi gãi cái cằm râu ria. “Tôi nghĩ là anh sẽ muốn biết.”
Archie nhắm chặt mắt lại. “Chết tiệt.” Họ sắp đưa ông ta vào lòng đất vừa kịp thời gian.
“Chúng ta sẽ chờ đến sau đám tang của ông ấy”, Sanchez nói. “Mai mới công bố.”
“Cảm ơn anh”, Archie nói.
Sanchez quay người định đi.
“Anh có nhận được tin nhắn của tôi về việc tại sao Parker lại đi gặp Castle không?” Archie hỏi. “Câu chuyện của Susan Ward đó?”
“Điên rồ hết sức”, Sanchez nói và quay lại. Anh ta nhún vai. “Nhưng vẫn chẳng thay đổi được kết quả xét nghiệm máu.”
Archie thở dài và dựa người lên ghế, hai bàn tay khoanh trước ngực. Hộp thuốc bằng đồng ấn vào một bên đùi. Gretchen Lowell cười với anh trong ngăn kéo bàn. “Không”, anh nói.
Susan loay hoay với đường viền trắng trên chiếc váy nâu. Cô quyết định không mặc đồ đen. Nó tang tóc quá. Chiếc váy nâu là một thiết kế hoài cổ, thân chữ A, tay áo chờm vai với đường viền trắng và hai chiếc khuy trắng lớn ở ngực. Cô đã kẹp gọn mái tóc xanh ra sau. Vì vài lí do, nó có vẻ quá lòe loẹt và bất kính trong dịp này.
Có khá nhiều người ở nhà thờ, có lẽ tới vài trăm người. Susan nhận ra nhiều gương mặt từ tòa báo. Các hàng ghế gỗ chật cứng người, còn đằng sau thì chỉ được đứng. Cơn mưa đã tạnh và mặt trời đang ló ra qua những tấm kính màu, thảy những khung ánh sáng hình thang nhiều màu lên sàn gỗ.
Parker được đặt phía trước bệ thờ, trong một chiếc bình sứ tráng men.
Susan ngồi hàng ghế thứ ba. Cô đã đến sớm. Susan gần như không bao giờ đến sớm. Nhưng cô đã đến trước giờ tang lễ một tiếng, và sau hai mươi phút khóc lóc trong xe ở bãi đỗ, cô vào trong và chiếm được hàng ghế phía trên.
Cô trông thấy Derek, anh ta ngồi ở đằng sau cùng vài phóng viên trong thành phố. Anh ta cố bắt gặp ánh mắt cô, nhưng cô lảng tránh.
Rồi cô trông thấy Archie Sheridan đi vào cùng gia đình anh và ngồi sau cô vài hàng ghế ở phía đối diện. Anh mặc bộ vest đen và đi giày đen bóng loáng, ngồi choàng tay sau vợ cũ. Cô ấy mặc chiếc váy đen sát nách, để lộ hai cánh tay thon thả rám nắng. Con trai họ mặc bộ vest xám và cô con gái nhỏ thì mặc chiếc váy xám đục lỗ. Trông bọn họ như một tấm ảnh mẫu của những bộ cánh nên mặc tới đám ma vậy.
Susan nhìn xuống nhìn trang phục của chính mình. Cô trông như đang làm việc cho Mr. Steak.
Ông chủ của tờ Người đưa tin, Howard Jenkins, đọc điếu văn. Vài phóng viên lớn tuổi hơn trong tòa báo phát biểu. Cùng trang lứa với họ không còn mấy ai. Hầu hết nhân viên trên năm mươi tuổi của tờ Người đưa tin đều đã nhận được những lời đề nghị về hưu và lĩnh một lần tiền để tờ báo tiết kiệm được khoản lương hưu.
Parker là một tượng đài. Parker là phóng viên của các phóng viên. Parker là người chuyên đào bới chuyện xấu xa, một người hùng địa phương, một chiến binh cho những người bị hại, một quán quân, một viên ngọc quý, nhân viên của năm chết tiệt.
Chúa ơi, toàn lời lẽ vớ vẩn. Susan ngồi dậy, ép mình đi qua bốn mươi cái đầu gối, chân và ví tiền, rồi đi nhanh hết sức có thể để ra ngoài cửa, vào hành lang, xuống cầu thang trải thảm và ra khỏi nhà thờ.
Nhà thờ đá cổ kính có một cái sân nhìn ra Park Blocks. Vài chiếc bàn với những chiếc khăn trải bàn màu hồng bay phất phơ đã được dọn ra để phục vụ đồ uống sau tang lễ. Trên đó có một chiếc bình lớn bằng bạc đựng cà phê và một bát thủy tinh đựng rượu hoa quả. Vài chiếc đĩa đựng trứng ác quỷ phơi dưới nắng. Mấy chai Wild Turkey xếp thành một hàng liền nhau. Susan cười.
Ở bên kia phố, trong công viên, mọi người đi bộ lướt qua. Giờ cao điểm giữa trưa làm con phố bị nghẽn. Hai tay Susan đang run rẩy.
Archie Sheridan đã xuất hiện ở cửa ngay khi cô vừa chạy qua. “Cô ổn chứ?” Anh lặng lẽ hỏi.
Susan quay đầu xấu hổ và lục tìm trong túi. “Tôi chỉ cần điếu thuốc thôi mà”, cô nói và lôi ra một bao màu vàng.
Archie đi xuống mấy bậc cầu thang đá và dựa vào bức tường nhà thờ bên cạnh trong lúc cô tìm bật lửa.
“Theo luật thì Parker đã say trong lúc lái xe lao khỏi cầu”, anh nói. “Họ sẽ công bố chuyện đó vào ngày mai.”
Susan giơ bật lửa lên đầu điếu thuốc. Ngọn lửa liếm và nhảy lên, rồi nó phẳng ra khi cô rít vào. Sau đó nó sẽ lại bùng lên, nhưng cô vẫn thấy tiếc khi nó tàn đi. “Lúc nào mà Parker chẳng say nếu căn cứ theo luật”, cô nói. “Anh biết mà.” Cô thả chiếc bật lửa lại túi mình. “Ông ấy nghiện rượu mà.”
Archie thọc hai tay vào túi quần và nhìn chằm chằm vào những viên sỏi rải đường. “Cồn trong máu ông ấy lên đến 0,24, Susan à.”
Tiếng đàn organ vang lên bên trong nhà thờ. “Khi các Thánh tiến lên.” Susan thậm chí không biết chuyện Parker có đạo.
Cô lắc đầu. Việc này thật điên rồ. Họ không thể đổ hết tội cho Parker. Đó là Castle kia mà. Lão già đó mới là con quái vật, là tên khốn, là kẻ bệnh hoạn; Parker là nạn nhân. “Còn Castle thì sao?” Cô hỏi. “Ông ta vẫn có thể tóm lấy tay lái chứ.”
“Xét nghiệm máu của Castle cho kết quả sạch sẽ”, Archie nói. “Không có xét nghiệm nào kiểm tra được những thôi thúc tự sát cả.”
Tiếng nhạc organ nổi lên to hơn khi cánh cửa bên cạnh nhà thờ mở ra. Vài người lang thang xuống dưới sân. Rồi lại thêm mấy người nữa. Susan theo dõi họ bước tới chỗ mấy cái trứng ác quỷ và bắt đầu ăn, dường như không hề lo ngại khuẩn salmonella. Một người phụ nữ trạc lục tuần bước tới chỗ Archie và anh hôn lên má bà.
“Margery”, anh nói. “Tôi rất tiếc.”
Đó là vợ của Parker. Susan chưa bao giờ gặp bà, nhưng đã trông thấy bà trong nhà thờ, cùng hai cô con gái độ ngoài ba mươi của bà, và kết nối câu chuyện với nhau. Parker từng nói con gái ông rất giống vợ, và ông nói đúng. Họ là những người phụ nữ có mái tóc dày với cần cổ dài và dáng đứng thẳng tưng, cặp mắt to đảo qua đảo lại dưới phần tóc mái dày dặn. Tóc Margery đã ngả bạc, các con gái bà thì tóc nâu.
Margery lau vệt trứng ác quỷ còn trên miệng. “Cậu đến đây thế này thật tử tế quá”, bà nói với Archie. Bà ôm anh, đầu tiên là cầm bím tóc tết dày của mình và hất nó qua vai. Rồi bà cười với Susan. Bà có cặp mắt xanh nhạt, giống mắt Parker, và nước da trắng của bà kết hợp với mái tóc bạc khiến bà gần như người bạch tạng.
“Cô là Susan”, bà bảo.
“Sao bà biết?” Susan hỏi. Cô đưa tay lên chạm vào mái tóc xanh ngọc. “À phải.”
“Quentin nghĩ cho cô nhiều lắm.”
Susan thấy khóe mắt cay cay. “Tôi cũng mến ông ấy lắm”, cô nói. Cô liếc sang Archie, những mong anh ra dấu cho cô là anh sẽ bảo vệ kí ức về Parker, bảo vệ gia đình ông khỏi ẩn ức là chính ông đã có lỗi.
Nhưng Archie đang nhìn qua cả hai người họ tới chỗ Debbie đứng cùng hai đứa con ở gần cửa ra của sân sau.
“Tôi phải đi rồi”, anh nói.
“Đang điều tra vụ án à?” Margery hỏi.
“Hôm nay là sinh nhật con gái tôi”, Archie nói.