CHƯƠNG 45
Susan đứng yên, bàn tay sẵn sàng để gõ cửa, chỉ cách cánh cửa phòng Debbie tại Arlington có mấy phân. Bennett đang ngồi trên ghế nhìn cô khuyến khích.
Cô đã suýt thu đủ can đảm để theo đuổi đến cùng - cô muốn xem Debbie ra sao, nhưng không muốn tỏ ra là kẻ đeo bám - đúng lúc ấy, cánh cửa mở ra và Henry Sobol đứng ở đó. Susan thoáng thấy Debbie, mắt đỏ ngầu đang ngồi trên sofa với hai đứa con cuộn tròn hai bên, trước khi Henry đóng cửa lại.
“Giờ không phải lúc thích hợp đâu”, anh bảo, giọng điệu không cho phép tranh cãi.
Susan lùa bàn tay đã đưa lên mái tóc xanh ngọc. “Tin mới nhất là gì?” Cô hỏi.
Cô có thể nói Henry cũng đã không ngủ. Anh vẫn đang mặc bộ quần áo từ đêm hôm trước, và cái đầu cạo nhẵn đang mọc đám tóc sau 5 giờ chiều. Giọng anh ồm và cụt lủn. “Có một cuộc họp báo lúc 6 giờ”, anh bảo.
“Không phải lỗi của anh”, Susan nói. Cô hối tiếc về những lời ấy ngay sau khi chúng vuột ra khỏi miệng, nhưng vẫn lúng túng nói tiếp. “Vì đã không ở cùng anh ấy. Anh ấy rồi sẽ tìm được thời điểm để chuồn đi nếu đó là điều anh ấy muốn.”
Cặp mắt xanh của Henry tối lại. Anh liếc vào cánh cửa đóng kín và hạ giọng thành tiếng gầm ghè. “Cậu ấy không chuồn đi. Cô ta đã ép cậu ấy. Hiểu chưa?”
Susan lùi lại một bước nhỏ xíu. “Vâng.”
Cặp lông mày rậm của Henry nhướng lên rồi anh quay người chực bỏ đi.
“Tôi muốn tham gia”, Susan nói và làm chính mình ngạc nhiên.
Henry dừng chân. “Cái gì?”
Susan hơi ưỡn vai ra. “Tôi muốn tham gia cuộc điều tra”, cô nói. “Đó là cái giá của tôi.” Những lời nói tuôn ra trước khi cô có thể ngăn lại. “Tôi có thể giúp ích. Tôi sẽ không ngáng đường anh. Tôi chỉ muốn làm gì đó.”
Henry nhắm mắt một lát. “Đừng có nói chuyện vớ vẩn ấy vào lúc này.”
“Tôi sẽ công bố mọi chuyện”, Susan đã lấy lại tự tin, nói. “Trừ khi anh cho phép tôi tiếp cận cuộc điều tra. Tôi biết Archie. Tôi biết rất nhiều về vụ Mỹ nhân đoạt mạng. Tôi có thể giúp tìm ra họ.” Trong giờ phút ấy, thậm chí cô tin như thế. Molly đã chết. Câu chuyện về Castle bị hoãn. Nhưng cô có thể giúp trong vụ này. Cô có thể làm được. “Tôi phải giúp tìm ra họ. Xin anh đấy.”
Tất nhiên Susan sẽ không bao giờ phản bội Archie. Nhưng cô đang đánh cược vào thực tế là Henry không dám mạo hiểm tin cô. Cô muốn anh đồng ý, nhưng đồng thời cô cũng muốn anh phát hiện ra trò dọa dẫm của cô. Bởi nếu anh đồng ý thì có nghĩa anh đã không tin tưởng cô.
“Được rồi”, Henry bảo. “Cô được tham gia.”
Susan chưa bước vào văn phòng của Đội đặc nhiệm kể từ sau khi kết thúc vụ Kẻ bóp cổ sau giờ học. Nó nằm trong một ngân hàng cũ ở mạn Đông, thành phố đã mua lại và phân cho Sở cảnh sát như một diện tích thêm cho khối văn phòng. Ngân hàng là một tòa nhà một tầng, hình vuông, và nằm giữa bãi đỗ xe. Bên mé đông của nó vẫn còn một cây ATM có thể rút tiền mặt.
Họ đã sửa chữa một chút cho nơi này: lột hết tấm thảm cũ, bỏ các quầy thu ngân, lắp thêm bàn làm việc và máy tính màn hình phẳng. Nhưng trông nó vẫn giống một ngân hàng. Nó vẫn còn cả khoang hầm cũ. Chiếc đồng hồ cũ vẫn còn ghi: Giờ giao dịch với bạn bè. Bên trong vẫn còn được chiếu sáng bằng những bóng đèn huỳnh quang đủ để đếm từng nốt ruồi trên mặt một kẻ cướp ngân hàng từ đoạn băng an ninh. Không lợi lộc gì. Susan kéo chiếc áo thun của mình. Cô đã đi ngay với Henry, không có thời gian thay đồ. Bây giờ cô hối hận vì đã không dành mấy phút mặc áo ngực.
Claire Masland ngồi cạnh Susan bên chiếc bàn họp trong phòng nghỉ giải lao cũ của ngân hàng. Căn phòng có đầy cảnh sát. Không ai ngủ cả. Họ bốc mùi như một đội bóng nào đó. Susan đưa cốc cà phê giấy lên miệng. Cô đã lấy cà phê từ một cái bình trên bàn. Nó có mùi hạt dẻ. Loại cảnh sát nào lại đi uống cà phê pha mùi nhỉ?
“Những đứa trẻ mới trong tòa nhà à?” Claire hỏi.
Susan nhìn xuống áo phông của mình. “Trớ trêu nhỉ”, cô nói.
“Được rồi”, Henry nói. “Bắt đầu thôi.” Anh vươn tới và giở một tấm bản đồ Oregon lên bàn họp. Nó được phủ đầy các giấy nhớ Post-it khác màu. “Các đoạn chắn đường đã được đánh dấu”, anh nói. “Chúng ta đã gửi bản tin đến tất cả các sân bay, bến xe buýt, bến tàu và bến cảng. Chúng ta đã đưa ảnh của cả hai lên sóng. Báo chí đã đăng tải.” Anh xoa gáy và nhìn lên mọi người. “Chúng ta còn thiếu gì nữa?”
Jeff Heil quan sát tấm bản đồ qua vai Henry. “Anh nghĩ cô ta vẫn còn trong tiểu bang à?” Anh ta hỏi một cách nghi ngại. Bản đồ chỉ có một mảnh nhỏ của Washington phía trên và California phía dưới, bên phải là rìa đất Idaho sát kề Oregon, vùng biên giới tạo thành một hình mặt nghiêng mờ ảo nhìn ra biển Thái Bình Dương.
“Lần này cô ta không đi xa đâu”, Claire nói.
“Có lẽ chúng ta nên kiểm tra mọi tầng hầm ở Gresham”, ai đó nói.
Henry lắc đầu và nhìn xuống bản đồ. “Không nghĩ là tôi đã loại nó ra”, anh nói. Vai anh nhô lên và hạ xuống với một hơi thở sâu. Rồi anh nhìn lên khắp phòng cho đến khi mắt dừng lại ở Lorenzo Robbins, từ văn phòng pháp y. Anh ta đã đi vào trong lúc Henry đang nói, và đứng ngay bên trong cửa. “Chúng ta có gì ở hai hộp cơm trưa?” Henry hỏi anh ta.
Robbins khoanh hai tay và dựa lên cửa. Có vài phong bì bìa vàng được kẹp dưới nách anh ta. Susan không quen nhưng đã thấy anh ta đi qua đi lại vài lần. Những bím tóc vàng làm anh ta rất dễ nhận diện. “Nó là tim của đàn ông. Tầm ngoài ba mươi. Chúng tôi đã so với mẫu ADN từ nhà của tay lính gác bị mất tích. Tên anh ta là Rick Yost.”
“Anh có biết anh ta chết như thế nào không?” Henry hỏi.
“Anh ta chết không phải do trụy tim”, Robbins nói.
Henry thở dài thườn thượt và tiếp tục, “Có gì từ chiếc pin điện thoại và đạn không?” Anh hỏi Mike Flannigan.
Đột nhiên Susan thấy tỉnh táo hơn. Cô ngồi thẳng dậy một chút. Thực tế họ đã tìm được pin điện thoại và đạn, chưa được tung ra với báo chí. Cô giơ tay lên.
Henry nhìn thấy cánh tay cô trong không trung và nhăn mặt. “Chúng tôi đã tìm thấy pin điện thoại và một nắm đạn của Archie trong một cái cống gần công viên”, anh giải thích. “Chúng ta đợi đến phần đặt câu hỏi sau, được không?”
Susan hạ tay xuống và cầm cốc cà phê hương hạt dẻ.
“Chỉ có dấu vân tay của anh ấy”, Flannigan nói. “Chắc là anh ấy đã ném chúng ra khỏi xe.”
Susan ghét cà phê hạt dẻ gần bằng cà phê vani, và nó thì gần bằng việc cô ghét tất cả các loại cà phê pha mùi khác. Nhưng cô vẫn hớp một ngụm và nuốt ực. Chỉ có dấu vân tay Archie. Anh đã tự mình chui vào xe ô tô. Rồi tự mình ném cả pin lẫn đạn đi.
“Được rồi”, Henry nói và xoa sống mũi. “Tạm thời chúng ta giữ bí mật chuyện đó.” Anh nhìn quanh phòng vào các cảnh sát đang tập hợp. Anh có vẻ mệt mỏi, Susan nghĩ. Cặp mắt xanh của anh vằn máu; chỗ tóc lởm chởm trên cái đầu hói ngả xám. “Hãy chuẩn bị sẵn sàng cho buổi họp báo”, anh bảo.
Anh bước ra khỏi bàn và tất cả cảnh sát đều đứng dậy, chuẩn bị ra khỏi phòng. Susan nhìn chằm chằm vào cốc cà phê của mình. Rồi cô cảm thấy ai đó chạm vào cánh tay mình và nhìn lên. Cô trông thấy Lorenzo Robbins đang đứng giữa Claire và cô. Anh ta gí một chiếc phong bì cho Claire. “Giờ cái này là của cô hả?” Anh ta hỏi. “Đây là những phát hiện của tôi về mấy cái xác trong công viên.”
Susan xoay người. “Vụ Archie đang làm à?”
Robbins nhìn sang Claire. Claire nhún vai. “Nói tiếp đi”, cô ấy bảo. “Thực tế là cô ấy làm việc ở đây.”
“Đó là một đôi”, Robbins kể với Susan. “Một nam một nữ, cuối độ tuổi hai mươi. Đã chết khoảng hai năm.”
“Hử”, Claire nói thản nhiên.
Susan nhìn từ Robbins sang Claire. “Vậy họ có liên quan gì đến vụ giết Molly hay không?” Cô hỏi.
Claire cầm phong bì từ tay Robbins và mở nội dung bên trong. “Tôi không biết. Có rất nhiều người vô công rồi nghề trên thế giới này, và nơi ấy lại là một chốn tuyệt vời để vứt xác nữa.”
“Vậy chúng ta sẽ làm gì?” Susan hỏi.
Claire đóng tập hồ sơ. “Một vụ án vào ngõ cụt thôi. Nó có thể chờ thêm vài ngày.”
Susan nghĩ đến xác Molly trên cái cáng ở nhà xác. “Vụ Molly bị giết có cụt đâu”, cô bảo.
Claire lại gần Susan. Cô ấy thấp hơn Susan nhưng khỏe hơn và Susan phải đấu tranh với bản năng bước lùi lại. Căn phòng đã trống vắng chỉ còn vài cảnh sát vẫn đứng quanh bản đồ. Nhưng Claire vẫn hạ giọng. “Archie đang ở bên ngoài với Gretchen Lowell”, cô ấy nói với Susan. Giọng cô ấy bình thản, mắt vững vàng, nhưng có điều gì đó quyết liệt trong dáng điệu làm Susan nghẹn họng. “Cô ta đã có anh ấy cả đêm. Cô nghĩ giờ này cô ta đã đóng bao nhiêu cây đinh vào người anh ấy rồi?”
Susan không định từ bỏ một cách dễ dàng như thế. “Cái chết của Molly có thể liên quan đến các vụ giết Parker và ngài Thượng nghị sĩ nữa”, cô nói.
Claire đảo mắt thất vọng. “Họ không bị giết, Susan ạ. Họ lao ra khỏi đường. Đó có thể là tự sát. Đó cũng có thể là tai nạn. Nhưng chúng tôi không có bằng chứng nào cho bất kì điều gì hơn thế cả.”
Susan lắc đầu. “Gretchen Lowell đã vứt xác Heather Gerber ở đó. Một kẻ sát nhân nào đó cũng đã vứt một cặp đôi ở đó hai năm trước. Và giờ là Molly Palmer ư?”
“Chỉ vì nghe thấy tiếng vó ngựa, không có nghĩa đó là một con ngựa vằn.”
“Câu ấy có nghĩa gì chứ?” Susan hỏi.
“Gần như lúc nào cũng là ngựa”, Claire nói, hai tay xòe ra. “Những tiếng vó ngựa.” Cô ấy lùa một bàn tay vào mái tóc ngắn. “Tôi phải thu dọn. Henry muốn tôi có mặt ở buổi họp báo.”
Buổi họp báo. “Tôi cũng vậy”, Susan nói. “Chờ tôi một phút.” Cô quay đi và bắt đầu thu nhặt sổ ghi chép, và hất đổ luôn cốc cà phê của mình ra khắp bàn, vẩy cả cà phê lên tấm bản đồ. Susan há hốc miệng kinh hoàng và lao tới tìm mấy miếng khăn giấy trên mặt kệ cạnh lò vi sóng.
“Chúa ơi”, Claire thốt lên. “Tôi sẽ gặp cô ở ngoài kia.” Cô ấy quay người rời khỏi phòng.
Hai cảnh sát vẫn còn lảng vảng cạnh bản đồ, một trong số họ là Mike Flannigan, anh ta nhấc tấm bản đồ lên khỏi mặt bàn ướt. Susan ném giấy ăn lên vũng cà phê trên bàn rồi chạy tới và bắt đầu thấm cà phê trên bản đồ, hai người đàn ông đã đặt nó lên thảm.
Hóa ra cô đã làm vẩy cà phê đến tận Trung tâm Oregon. Đèo Santiam. Bend. Prineville. Cô lúng túng với đám giấy ăn, cẩn thận không làm vướng vào những mẩu Post-it đã đánh dấu chốt chặn. Trong lúc thấm cà phê, cô để ý thấy không có miếng Post-it nào ở ngã tư I-5 và Cao tốc 22. “Không có chốt chặn ở 22 à”, cô nói.
“22 chẳng dẫn đến đâu cả”, Flannigan giải thích. “Chỉ đi lên núi thôi.” Anh ta lấy tờ bản đồ từ tay Susan và cẩn thận cuộn nó lại. “Có một đám cháy trên đó.”
“Tôi tưởng họ đã kiểm soát được”, Susan nói.
“Gió đổi chiều”, Flannigan nói. “Đám cháy lan rộng ít nhất là 1,6 ki-lô-mét vuông. Chúng tôi không cần chốt chặn đường. Sáng nay, kiểm lâm đã đóng chặn đường 22 rồi.”