← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 52

Susan mang thư vào: một tờ The Nation, tờ rơi quảng cáo của một hợp tác xã, hai hóa đơn và một gói nhỏ đề địa chỉ chuyển hoàn từ ACLU. Cô thả chúng lên bàn bên cùng với chìa khóa của mình. Nhà của mẹ cô rất ngột ngạt. Tất cả cửa sổ đều bị đóng lại. Ban ngày họ giữ như vậy. Đó là cách duy nhất để chống lại cái nóng. Bạn giữ cho cửa sổ và rèm cửa đóng chặt đến khi mặt trời lặn và rồi bạn mở toang chúng ra để cầu xin một làn gió thoảng. Susan không biết người ở thời Victoria đã sống sót như thế nào.

Mắt Susan cay xè vì kiệt sức. Chỉ cần vài tiếng ngủ vùi là cô sẵn sàng lao vào công việc. Cô đi lên gác, vào phòng mẹ. Cô sẽ không ngủ trên cái võng nếu không buộc phải như thế. Phòng của mẹ cô được sơn màu đỏ và có lẽ bà là người sở hữu chiếc giường nước cuối cùng ở khu vực trung tâm Portland này. Susan bật cái quạt bàn trên nóc tủ của bà Bliss để không khí luân chuyển.

Đã nhiều năm, cô không thức nguyên đêm và Susan đã quên mất nó như thế nào. Cô thực sự mệt đến buồn nôn. Cô duỗi thẳng người trên giường của bà Bliss nhưng chuyển động bập bình do nước bên dưới tấm nhựa chỉ càng làm cô chóng mặt hơn. Cô nằm đó một lát nhưng mỗi lần xoay người thì một sóng nước lại làm chiếc giường nước rung lắc. Giờ cô còn bị đau đầu. Cảm giác như ai đó siết một cái vòng sắt quanh đầu cô vậy.

Chỉ có một giải pháp: đi tắm. Cô nhìn đồng hồ. Đã gần 11 giờ trưa.

Cô đứng dậy, đi vào nhà tắm ở cuối hành lang trên gác và xả nước ra cái bồn có chân sắt uốn, lấy đầy nước mát và một vốc to xà phòng tạo bọt mùi khuynh điệp. Có hàng chục ngọn nến viền quanh bồn tắm, một tập hợp mùi hương và màu sắc khác nhau mà bà Bliss đã cẩn thận sắp xếp để tạo nên một trải nghiệm tắm bồn hoàn hảo.

Susan đánh bật lửa lên và giơ nó vào một cái bấc. Nó bắt lửa độ một giây rồi tắt ngóm. Cô thử lần nữa. Nó vẫn tắt. Cô thử một cây nến khác. Lại tắt. Susan đành chiều một tiếng rên phẫn nộ. Đúng kiểu mẹ cô, mua những cây nến rẻ nhất ở một cửa hàng đồ nhập khẩu. Cô nhìn chằm chằm vào bật lửa trong tay rồi nhún vai và đặt nó xuống bên cạnh một trong các cây nến.

Cảm giác thật tuyệt khi được cởi bộ quần áo đã mặc suốt hai mươi bốn giờ. Cô nhồi chúng vào trong chiếc giỏ Guatemala mà mẹ cô dùng để thay sọt đựng quần áo bẩn trong nhà tắm. Bây giờ đầu cô đã đau thật sự. Thậm chí cả mắt cũng đau. Cô nhận ra không chỉ vì mình bị thiếu ngủ, mà còn là do căng thẳng nữa. Parker. Archie Sheridan. Cô cần nghĩ mọi chuyện bớt đi. Không thúc ép bản thân quá nhiều. Cô sẽ chẳng giúp ích được gì cho ai nếu cứ như thế này.

Cô bước vào trong bồn và từ từ chìm xuống làn nước mát, để cho mùi hương the mát dễ chịu của khuynh diệp tràn qua người. Cô đang chú ý đến chỗ sơn móng chân bị trầy xước thì nghe thấy tiếng chú ong. Nó đang vo ve trên đầu cô và đậu xuống bồn rửa mặt trong nhà tắm, điều này khá lạ vì ngôi nhà đã bị đóng cửa suốt hai ngày rồi nên ong không thể nào vào trong được. Cô đang ngẫm ngợi chuyện này, đầu tựa lên thành bồn tắm thì chú ong còn làm một việc lạ lùng hơn. Nó bay lên không trung, vo ve thành vòng tròn rồi dừng lại giữa chừng và rơi bộp xuống sàn.

Susan ngồi thẳng trong bồn và nhìn xuống. Bà Bliss đã sơn sàn gỗ trong phòng tắm bằng màu xanh dương nhạt, và nằm trên nền xanh đó, như một con thuyền giữa biển, là chú ong chổng chân lên trời, chết ngỏm.

Susan cảm thấy chóng mặt. Trong một lúc cô không nhớ nổi mình đang làm gì, tại sao cô lại về nhà. Archie Sheridan đã mất tích. Cô phải quay lại với văn phòng Đội đặc nhiệm. Cô phải tìm Henry.

Mẹ cô ở đâu?

Cô nhìn xuống con ong. Cô từng viết một bài về gia đình năm người ở hồ Oswego, họ đã thoát chết trong gang tấc khỏi một vụ rò rỉ khí gas các-bon mô-nô-xít. Không mùi. Không vị. Lũ thú cưng cứ thế lăn ra chết. Một con chuột hamster và một con chim. Bà mẹ đã đủ thông minh để lôi tất cả ra khỏi nhà. Chỉ nửa tiếng nữa là cả nhà đã chết rồi.

Susan đẩy mình ra khỏi bồn tắm, xà phòng tắm trượt trên cơ thể trần truồng của cô xuống sàn nhà, cô lập tức bị trượt chân và đập mặt vào gò bồn rửa. Cú sốc từ cơn đau làm đầu óc tỉnh táo và cô nắm chặt khăn tắm, quấn nó quanh người tới ngực và bắt đầu chạy xuống nhà.

Ra khỏi nhà. Cô phải nhắc đi nhắc lại điều đó trong đầu. Bởi nếu cô dừng lại, cô sẽ bắt đầu nghĩ đến việc ngủ. Về chuyện nhắm mắt lại dù chỉ một giây sẽ dễ chịu thế nào, rồi ra khỏi nhà khi nào cô tỉnh ngủ. Nhưng cô sẽ không tỉnh lại.

Ra khỏi nhà ngay.

Cô để tuột mất cái khăn. Cô không biết là từ khi nào. Chắc là cô đã đánh rơi nó. Nhưng cô vừa trần truồng vừa lập cập đi xuống cầu thang, nước mắt chảy ròng ròng trên má. Không, nó không phải là nước mắt. Nó là máu. Vì cú đập đầu vào bồn. Cô đang chảy máu. Máu chảy xuống miệng cô, một mùi tanh ngọt.

Cô đã ra đến cửa trước và trông thấy ai đó đang đứng bên kia cửa kính. Phải mất một phút cô mới nhận ra anh ta từ bộ đồng phục. Đó là cảnh sát Bennett, từ Arlington, người bảo vệ họ, vệ sĩ đã được phân cho họ.

Anh ta đã tới để cứu cô.

Cô vươn tay ra cửa và xoay nắm đấm để mở nó, nhưng nó không xoay. Nó đã bị khóa. Cô đã bị khóa trái trong nhà. Cô dùng tay ra hiệu cho Bennett, chỉ vào nắm đấm cửa để báo là nó bị kẹt, để bảo anh ta cho cô ra.

Anh ta chỉ đứng nguyên ở đó.

Cô lại xoay nắm đấm cửa, nhưng nó không lùi bước. Có cái gì đó rất sai. Cái khóa đang ở đúng chiều. Đáng lẽ cửa phải mở. Cô gõ vào kính, hai bàn tay để lại vết ướt trên cửa. “Con ong chết rồi”, cô hét.

Bennett cứ đứng ở bên kia cánh cửa nhìn cô chằm chằm, rồi anh ta giơ chùm chìa khóa lên. Hôm đó là một ngày nắng rực rỡ và sau lưng anh ta, Susan có thể trông thấy bầu trời xanh, không một gợn mây, khóm tre mà mẹ cô đã trồng trong cái chậu tráng men ở hiên trước nhà, và bụi đỗ quyên yêu thích của Susan, điểm xuyết vài bông hoa đỏ thẫm.

Cô đang chóng mặt. Nó nhắc cô nhớ đến cái lần ở trường đại học khi cô ăn quá nhiều bánh sô cô la hạnh nhân và ngất xỉu trên ghế lười của một người bạn. Cô đã ngủ úp mặt vào tay và thức dậy cùng vết hằn của đồng hồ đeo tay trên má. Cô đã bắt đầu ngã xuống đất.

Có một việc mà đáng lẽ cô phải làm. Ra khỏi nhà.

Cô có thể gọi ai đó. Nhưng điện thoại lại ở xa quá.

Lúc ấy có một tiếng động, cô ngước lên và trông thấy mặt Bennett đang gí vào cửa kính, mắt nhắm nghiền. Anh ta ở đó một lát, giống như đứa trẻ đang ịn mặt vào kính để trêu đùa. Rồi anh ta trượt xuống khỏi lớp kính, khuất tầm mắt và Susan nghe tiếng cơ thể anh ta chạm phải hiên gỗ.

Cánh cửa mở ra và ai đó đỡ cô dậy, bắt đầu lôi cô ra khỏi nhà. Cô cảm nhận được gót chân mình đập vào thanh cửa, rồi vào các bậc thang xuống dưới sân trước, và cô đã ở trên đám cỏ. Cỏ vừa mát lại vừa mềm, cô mừng vì cuối cùng mình cũng được ngủ. Cô ngước lên và trông thấy mẹ mình.

“Chào mẹ”, Susan nói giọng ngái ngủ.

“Mẹ đã đánh hắn bằng bức tượng”, bà nói.

Susan ép mình tỉnh táo. Hít thở đi, cô tự nhủ. Ngực cô phập phồng, hít căng oxy, đầu cô tỉnh ra theo từng hơi thở. “Chúa ơi, mẹ”, cuối cùng cô nói. “Mẹ đã giết một cảnh sát.” Cô nhắm mắt lại. “Gọi 911 đi. Gọi Henry. Đừng vào nhà. Rò khí các-bon mô-nô-xít đấy.” Susan nhổm dậy và tóm lấy hai ve áo bộ vest vải polyester của mẹ. “Dùng điện thoại của nhà hàng xóm ấy”, Susan nói.

Rồi cô gập người xuống cỏ và ngất xỉu.