CHƯƠNG 63
Henry gõ ngón tay trên vô lăng nóng hổi. Susan lại đưa chân gác lên bảng điều khiển, nhưng Henry mặc kệ. Họ chỉ mới đi được một chiều dài chiếc xe thì điện thoại Henry lại đổ chuông. Anh nghe máy.
Phía trước họ, cách vài chục mét bên tay phải, một sườn đá được níu giữ lại bằng hàng rào thép. Một tấm biển vàng cảnh báo: Sạt lở đá.
“Tìm được rồi”, giọng Claire nói. “Heather Anne Gerber. Archie đã thêm số điện thoại này vào gói cước gia đình. Anh ấy bảo đó là em gái mình.”
“Cho anh số đó”, Henry nói, xé mẩu giấy nhớ ra khỏi tập giấy gắn vào bảng điều khiển. “Lần theo số đó và gọi lại cho anh.”
Claire đọc một dãy mười số và Henry chép lại.
“Sao?” Susan hỏi khi anh cúp máy. Với túi nước đá đang chảy áp lên mặt cô, Henry gần như không nghe được bất kì điều gì cô nói.
Anh không trả lời. Thay vào đó, anh bấm số chiếc điện thoại mà Archie đăng kí cho một cô gái đã chết.
Điện thoại chuyển thẳng sang hộp thư thoại.
“Tôi đây”, giọng nói đã ghi âm sẵn trả lời. “Nhanh lên.” Hộp thư thoại kêu bíp.
“Thánh thần thiên địa ơi”, Henry nói vào điện thoại. “Tốt hơn hết cậu phải có một lý do quỷ quái chết tiệt cho tất cả chuyện này.” Giọng anh khàn đi và anh phải nuốt mạnh, quay đầu đi để che giấu cảm xúc với Susan. “Tôi đang trên đường đến đây.”
Anh cúp máy và quay sang Susan.
“Là cậu ta ấy”, anh nói.
Điện thoại của anh đổ chuông và anh bật nó lên trước cả khi hồi chuông thứ hai kịp vang lên. “Có một con đường chuyển gỗ ở cột cây số 146 ngoài Cao tốc 20 gần sông Metolius. Chúng tôi tìm được một điểm nằm trên con đường đó cách khoảng ba cây số. Flannigan đã kiểm tra và chỉ có duy nhất một ngôi nhà trên ấy thôi.”
Họ vừa đi qua cột cây số 61. Susan đã nói đúng. Đó đúng là Gretchen. Và Henry đã quay xe đúng hướng ngược lại. Không còn thời gian để tự đá mông mình nữa. “Được rồi”, anh nói. “Anh đang lên trên ấy. Đưa tất cả những người em tìm được lên ngôi nhà đó.”
“Anh biết ở đó có đám cháy, đúng không?” Claire hỏi.
Henry bật còi hiệu, tấp vào làn xe ngược chiều và đánh một vòng chữ U. Phía trước mặt, một bụm khói màu đỏ lòe đang dâng lên từ đường chân trời một cách đáng ngại. “Có”, anh nói.
Henry nói không quá mười từ kể từ lúc kết thúc cuộc điện thoại với Claire. Anh tóm chặt lấy vô lăng đến trắng bệch cả tay, đánh lái ngoặt ở các khúc cua, chiếc kính phi công của anh phản chiếu hình ảnh con đường. Giờ thì không còn xe cộ nào cản đường họ nữa. Họ vượt qua trạm xăng của Charlie Lớn và tiếp tục đi tới, lượn lờ qua những cây linh sam Douglas trong lúc còi hiệu hú vang.
Cây cối mỗi lúc mỗi cao hơn, bầu trời chỉ còn là một dòng sông hẹp trên đầu họ. Những cái bóng phủ lên đường. Túi đá đã chảy hết.
Họ rẽ qua một khúc cua và trông thấy đoạn chắn đường của Kiểm lâm ở trước mặt. Đó là hình ảnh đầu tiên về đám cháy mà Susan thấy. Một bức tường lửa màu cam tạo thành một đường cung dọc theo lưng những rặng núi dày đặc cây cối phía trước họ. Khói màu xám đã chắn hết toàn bộ bầu trời phía đông.
“Chúa ơi”, cô nói.
Henry đỗ xe gần chốt chặn. Con đường dẫn sang phía tây vẫn để ngỏ để người bỏ chạy khỏi đám cháy đi qua, nhưng đường dẫn sang phía đông đã bị mấy thanh chắn chữ A chặn lại. Một tấm biển lớn ghi: Đường cấm do cháy rừng.
Một anh lính kiểm lâm cột tóc đuôi ngựa, đang trực chiến, tiến lại chỗ ô tô. Anh ta đội chiếc mũ rộng vành tiêu chuẩn của kiểm lâm và một chiếc khăn rằn ri ướt đang buộc quanh mũi và miệng. “Các vị phải quay lại”, anh ta nói với Henry, chỉ vào con đường xuống núi.
Henry chỉ vào còi hiệu trên nóc xe. “Cảnh sát Portland”, anh bảo.
“Anh tới để bắt đám cháy à?” Anh lính kiểm lâm hỏi.
“Tôi cần vào một con đường chuyển gỗ gần Metolius”, Henry nói.
Anh kiểm lâm lắc đầu. “Ngọn lửa đã đến quá gần đường rồi. Nó đã bị phong tỏa. Anh có thể đi đường vòng.”
“Không thể”, Henry nói. “Tôi cần đi qua ngay bây giờ. Tôi nghĩ Gretchen Lowell đang ở trên đó. Cùng với Archie Sheridan.”
Kiểm lâm ngẩng đầu lên và quan sát bên núi đang bốc cháy. Trong một giây, Susan tự hỏi liệu Henry có cứ thế mà đâm vào rào chắn không.
Nhưng anh không cần làm vậy. “Nếu lửa liếm vào xe anh”, nhân viên kiểm lâm nói, “ở nguyên trong xe. Nằm lên sàn, phủ kín đầu và mặt. Thở ngắn bằng mũi. Nếu phải ra khỏi xe thì đừng chạy lên đỉnh đồi để trốn đám cháy.”
Susan cúi người tới để nói với qua Henry. “Tại sao?” Cô hỏi.
Kiểm lâm tháo khăn ra lau gáy. “Bởi vì sức nóng đi lên trên”, anh ta bảo, “và ngọn lửa sẽ nhanh hơn cô.”
Anh ta ra hiệu cho một trong số các nhân viên kiểm lâm rời rào chắn để chiếc Crown Vic có thể đi qua.
“Giờ thì đi đi”, anh ta nói. “Nếu ngọn lửa tràn ra đường thì phải chuồn khỏi đó ngay nhé.”
Henry nhìn Susan. Cô biết điều anh đang nghĩ. “Không”, cô khoanh tay lại và quay mặt ra đằng trước, “tôi ở lại với anh.”
Dọc đường quốc lộ có nhiều hoa dại; những cánh đồng hoa màu hồng và màu tím rộng lớn trải thảm phần lưng đồi phía bắc, ở đó sườn đá dâng lên một góc một trăm hai mươi độ trên đồi. Susan đã đi bốt và thả hai chân xuống sàn để có thể chồm tới và nhìn đám khói, một chùm lớn trông như một ngọn núi. Con đường im ắng đến rợn người. Họ đi được mấy cây số mà chỉ bắt gặp vài chiếc xe vàng của đội Kiểm lâm. Henry đã bật cả đèn và còi hiệu lên nên không ai để ý đến họ lần thứ hai. Họ còn nhiều việc khác trong đầu. Những cây linh sam Douglas đã nhường chỗ cho thông vỏ trắng. Ngay bên kia ngọn đồi tiếp theo, Susan có thể trông thấy hai chiếc máy bay đang thả bột chống cháy màu đỏ. Loại bột đỏ này trông như một trận băng huyết rơi ra từ bụng hai chiếc máy bay.
Một con hươu cái nằm chết bên vệ đường.
Một tấm biển lỗ chỗ vết đạn đánh dấu Bãi đỗ xe không tuyết.
Bây giờ khói đã dày đến mức Henry phải bật cả đèn pha.
Susan nhìn vào điện thoại di động. Sóng điện thoại bị yếu suốt mấy cây số cuối. Giờ thì cô không còn tí tín hiệu nào. “Tôi bị mất sóng rồi”, cô bảo.
“Tôi cũng vậy”, Henry nói.
Susan thấy bụng mình thắt lại, dường như rất giống với sợ hãi.
Trời bắt đầu mưa. Henry bật cần gạt nước và những giọt mưa làm lớp tro xám nhòe nhoẹt trên kính. Đó không phải là nước mưa.
“Cái gì vậy?” Susan hỏi.
“Tôi đã bao giờ kể cô nghe câu chuyện tôi vô tình kết hôn với một công chúa thổ dân Lummi chưa nhỉ?” Henry hỏi.
“Đó không phải là mưa”, cô nói.
Henry tăng tốc. “Tro đấy”, anh bảo.
Susan kéo cửa xe lên. Cô làm vội vã, dùng toàn bộ cánh tay vào việc đó. Lớp tro đang rơi từ trên trời xuống như tuyết, phủ cả chiếc xe và con đường trong làn bụi xám mịn.
Đường cao tốc lượn vòng và mở rộng sau khi họ vượt qua một con đèo nhô lên. Con đường bắt đầu đổ dốc vào rừng, trải rộng hết tầm mắt họ, một nửa chìm trong lửa, bầu trời cũng ngả màu cam vì nó, một kiểu hoàng hôn ảo giác kì lạ.
“Còn bao xa nữa?” Susan hỏi. Mắt cô cay xè vì khói. Khói ngày càng dày hơn và Henry phải đi chậm lại để bám lấy con đường.
“Tám cây số nữa”, Henry nói.
Ngọn lửa đã đốt tới khu rừng phía nam đường cao tốc. Mặt đất đen sì, những cột thông vỏ trắng nổi bật, cành nhánh của chúng đã bị cong vòng và trụi lá. Cánh rừng phía bắc, nơi ngọn lửa chưa vượt qua đường vẫn còn tinh khôi, những cây thông và cây tống quán sủi [30] cao lớn, đồng cỏ vẫn là một màu vàng xanh khó tin. Và rồi, chốc chốc, một cái cây đơn lẻ sẽ bốc cháy ngùn ngụt như một ngọn đuốc.
“Nó đang nhảy sang đường”, Susan nói. Ngày càng khó hít thở và Susan phải đóng ống thông hơi trên bảng điều khiển, mặc dù việc đó cũng không có tác dụng mấy.
“Tôi biết”, Henry nói.
Susan ho và giơ một tay che miệng, cố lọc lớp tro bằng những ngón tay. “Anh kiểm lâm nói nếu nó nhảy sang đường thì chúng ta nên quay lại”, cô bảo. Hít thở qua đằng mũi, kiểm lâm cũng đã nói như vậy. Nhưng mũi cô đang bị bịt bông.
“Quá muộn rồi”, Henry nói. Anh chỉ một ngón tay ra đằng sau và Susan quay lại để thấy cả hai bên đường đều đã bốc cháy.
Có một tiếng nổ và Susan phải chống tay giữ mình lại, hai tay đặt trên bảng điều khiển, nghĩ rằng có thể một bên lốp xe đã bị nổ. Nhưng chiếc xe vẫn nằm yên trên đường. Cô bị mất phương hướng một lát và quay sang Henry tìm một lời giải thích, nhưng anh chỉ cúi người trên tay lái, cố nhìn xuyên qua đám khói. Rồi cô nhận ra: chính là những cái cây. Cây cối đang phát nổ.
Susan nghe tiếng Henry nói, “Chết tiệt”, và nhìn lên đúng lúc thấy một chú nai sừng tấm đang đứng như trời trồng ngay giữa đường.
Henry giậm mạnh chân vào phanh và chiếc xe xoay vòng.
Susan nhắm chặt mắt khi quán tính của chiếc xe ấn cô sát vào cửa xe. Cô nghe tiếng kim loại va vào nhau khi chiếc xe lao vào rào chắn và mở mắt ra đủ lâu để thấy những ngọn lửa màu cam bay lên khi chiếc xe va vào nó. Chiếc xe lao xuống đồi rồi bị lật và cô bị chúc đầu xuống, hai tay chống lên nắp xe. Cô lại nhắm mắt. Tiếng nắp xe bằng kim loại trượt xuống sườn đồi và lao vào những cột than từ bộ hài cốt cây rất lớn, như tiếng một loài thú đang kêu, và cô nghĩ đến Parker trong giây phút lao qua thành cầu ấy. Thời gian trong các vụ tai nạn ô tô mới quay chậm làm sao, nên hẳn là ông ta đã có thời gian để suy nghĩ, để biết chuyện gì đang đến, ngay như cô lúc này.
Rồi mọi thứ im bặt.
Cô vẫn còn sống.
Cô thầm điểm lại các bộ phận cơ thể. Hai bàn chân, cẳng chân. Cánh tay. Bàn tay. Cô vẫn nguyên vẹn. Cô mở mắt ra. Bụi đang uốn lượn trong xe, làm mắt cô cay xè và ho.
“Cô ổn không?” Henry hỏi.
“Tôi nghĩ vậy”, Susan nói. “Chúng ta có đâm trúng nó không?” Cô không biết tại sao mình lại quan tâm đến con nai sừng tấm đến thế.
“Cô có ra ngoài được không?” Henry hỏi.
Cô vật lộn để ra khỏi xe, tháo đai an toàn và rơi bằng hai vai rồi đáp xuống với một tư thế nằm nghiêng. Trong xe đầy mảnh kính, đất đá và vai cô bị đau vì cú ngã nhưng cô vẫn bắt mình tiếp tục di chuyển. Tấm kính chắn gió đã bị vỡ và cô trườn ra ngoài mặt đất đen kịt. Nó vẫn còn ấm, vị nướng bằng than hoa vẫn còn trong miệng cô.
Cô bò ra khỏi chiếc xe, cố thoát ra khỏi đám bụi bồ hóng mà vụ đâm xe đã làm vẩn lên. Chiếc xe dừng lại nhờ một cái cây đen sì chặn lại. Nó đã bị xoay ngược hoàn toàn và đang đối diện với mặt đường, cốp xe va vào cây, thùng xe bị bật lên. Bốn bánh xe vẫn còn xoay. Susan lắc cho cành cây và mảnh kính rơi khỏi tóc mình rồi đứng lên, nhưng một cơn chóng mặt nhẹ buộc cô trở lại tư thế ngồi xổm và ho sặc sụa.
Mũi cô. Cô chạm lên mặt. Miếng băng vẫn còn. Mặt cô đau. Nhưng không đau hơn bình thường.
Cô ngước lên. Họ cách đường cái khoảng 9 mét, nhìn ra hồ. Cô chớp mắt chống lại làn khói mù mịt. Phía trên cái hồ, toàn bộ sườn đồi bao quanh đều đã bị hủy diệt, những tàn tích cháy dở của các ngọn cây, trông giống như ngày tận thế vậy.
Cô nghe thấy Henry thoát ra với một tiếng thịch, và một phút sau, anh đã trèo ra qua cửa kính chắn gió. “Điện đài toi rồi”, anh nói.
Anh đi vòng sang đuôi xe. “Chết tiệt”, anh nói. “Cốp xe nát bươm.”
Susan đi xuống nửa đoạn dốc để gặp anh. Cốp chiếc xe Crown Vic đang bao bọc cái cây ấy.
“Anh nghĩ sao?” Cô nói.
“Bộ đồ nghề cấp cứu ở trong đó”, Henry lẩm bẩm. “Súng pháo sáng, đèn pin, mọi thứ.” Anh bóp trán một phút. “Được rồi”, anh nói. “Chúng ta phải đi bộ thôi.” Anh bắt đầu đi lên sườn đồi đang tối dần.
“Đi thôi”, anh nói và quay lại.
Susan không nhúc nhích. “Kiểm lâm nói phải ở trong xe.”
“Xe bị chổng ngược rồi”, Henry nói.
Susan khoanh tay. “Tôi ở lại đây.”
“Tôi không bỏ cô lại đâu”, Henry nói, giơ một tay ra.
“Không, thật đấy”, Susan nói. “Không sao đâu. Mặc kệ tôi.”
“Thôi nào, Susan. Trời sắp tối rồi. Chúng ta sẽ có cơ hội tốt hơn ở trên đường.”
Susan nhìn chằm chằm vào anh một phút rồi quay lại chỗ ô tô, quỳ xuống bằng hai tay và hai đầu gối rồi bò một nửa người qua cửa sổ bên ghế hành khách.
“Susan”, Henry rên lên.
Cô trông thấy thứ cần tìm trên ghế sau và chộp lấy nó. “Tôi lấy túi xách đã”, cô nói. Cô bò lùi khỏi xe và đứng dậy, dừng một lát để phủi kính bám trên đầu gối chiếc quần bò.
Henry lại giơ tay ra và cô nắm lấy. “Tôi sẽ không bao giờ vào rừng nữa”, cô nói khi anh kéo cô trèo lên đồi.
Con nai sừng tấm đã bỏ đi.
“Chắc là chúng ta đã không đâm vào nó”, Susan nói.
“Tôi đếch quan tâm đến con nai”, Henry nói.
“Vậy thì sao anh phải đạp phanh?” Susan hỏi.
“Tôi chỉ muốn bảo vệ cái xe”, Henry nói.
Susan nhướng lông mày và nhìn xuống sườn đồi vào chiếc Crown Vic rúm ró. “Ồ”, cô nói.
Thứ gì đó lọt vào mắt cô ở bên kia đường và cô chạy sang nhặt nó lên. “Nhìn này”, cô vui sướng nói. “Chai nước của tôi.”
“Tuyệt vời”, Henry nói.
“Chúng ta sẽ xem anh còn châm biếm được bao nhiêu khi anh chết vì khát nhé”, Susan nói, phủi bụi và đất khỏi cái chai nhựa. Cô lôi ra hai viên Advil trong túi áo và nuốt cùng một ngụm nước trong chai.
“Chúng ta sẽ không chết vì khát”, Henry nói. Anh chỉ lên phía trước, nơi cột cây số ghi: 144. “Chúng ta gần tới nơi rồi. Chỉ cần đi bộ nốt sáu cây số nữa thôi.”
“Đi bộ á”, Susan hỏi và nhìn xuống đôi bốt Frye của mình. Cổ họng cô đau rát và lớp sương màu hồng nghẹt thở vẫn không hề loãng ra chút nào.
“Lúc chúng ta tới nơi thì toàn bộ đoàn quân cũng ở đó rồi. Nếu như giờ này họ còn chưa có mặt.”
“Vậy, kể tôi nghe chuyện đó xem nào”, Susan nói.
“Chuyện gì cơ?” Henry hỏi.
“Làm thế nào anh tình cờ kết hôn với một công chúa thổ dân Lummi ấy.”