CHƯƠNG 66
“Cậu vẫn còn sống”, Henry nói. “Và cô ta đã trốn thoát.”
Có một cái bình phun sương ngay phía trên giường bệnh của Archie. Đó là thứ đầu tiên anh trông thấy. Điều thứ hai anh nhìn thấy là Henry, đứng phía trên anh. Rồi đến Debbie, ngồi trên ghế ở bên kia giường, tờ tạp chí mở ra trên đùi.
Ôi Chúa ơi. Debbie!
“Cô ta đã bỏ chạy vào trong đám cháy”, Henry nói. “Có rất nhiều khói.” Anh đưa một tay lên đầu. “Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm trong khu vực đó. Có thể cô ta đã bị kẹt trong đám cháy. Nhưng tôi không tin cho đến khi chúng ta tìm được thi thể.”
Archie lại nhắm mắt và cuộn người nằm nghiêng. Da anh nóng bừng với mồ hôi và cả người đau nhức. Anh cựa mình trên giường, cố tìm một vị trí chấp nhận được. Cử động làm bụng anh quặn lên. Hai bàn tay run mạnh đến nỗi anh phải kẹp chúng giữa hai đầu gối. Anh mở bừng mắt. Thậm chí ánh sáng cũng làm anh đau. “Có chuyện gì với tôi thế?” Anh hỏi một cách yếu ớt.
“Cai nghiện”, Henry nói. “Cậu đang được dùng một loại thuốc kháng ma túy gọi là naloxone. Cậu đã bị sốc thuốc. Naloxone chặn các cơ quan thụ cảm chất gây nghiện của cậu. Vậy nên, cậu bị cắt cơn, anh bạn.”
Archie lục lọi trí nhớ để tìm một manh mối nào đó cho những gì đã xảy ra nhưng không nhớ nổi. Ga trải giường lạnh lẽo và ẩm ướt vì mồ hôi của anh. Kí ức cuối cùng anh có là Gretchen đang ôm anh. Một nỗi đau trào lên cơ thể như điện, và Archie phải cuộn người trong tư thế co quắp. Họ đã tìm được anh quá sớm. Nhưng anh không hiểu làm thế nào ả lại thoát được. Rồi anh thấy cổ họng nhức buốt và giơ một bàn tay run rẩy lên, để những ngón tay lần theo lớp băng thô ráp quanh cổ. Anh không biết chuyện đó đã xảy ra như thế nào. Nhưng anh biết một điều: Ả đã trốn thoát. Mọi chuyện hóa ra là công cốc.
Anh bắt đầu cười rũ.
“Cô ta dùng cậu làm con tin”, Henry nói. “Cô ta đã dùng naloxone để cứu cậu, rồi lại cứa cổ họng cậu.”
“Tôi đã ngủ với cô ta”, Archie nói. Đó chỉ là một nửa sự thật.
Tờ tạp chí trượt khỏi đùi Debbie, rơi xuống sàn nhà trải nhựa.
Henry cúi xuống trên đầu Archie và đặt một bàn tay lên vai anh. “Đừng bao giờ nói to chuyện đó thêm lần nào nữa”, anh bảo.
“Tôi chỉ nghĩ là cả hai người nên biết”, Archie nói. Anh nuốt mạnh làm cổ đau buốt. “Tôi không chắc là mình có thể xin ít thuốc giảm đau cho cái cổ họng đâu nhỉ”, anh nói.
Hai bàn tay Debbie siết lại, khớp ngón tay trắng bệch, giống như đó là tất cả những gì cô làm được để không bóp cổ anh bằng hai bàn tay. Anh không trách cô. Anh ước gì cô sẽ thử làm điều đó. Anh ước gì cô sẽ đặt một cái gối qua đầu anh và làm anh nghẹt thở đến chết. Đó sẽ là một việc làm nhân đạo.
“Nó không có thật”, cô nói. “Bất kể điều gì anh nghĩ là anh đã có với cô ta.”
Anh phải tập trung để nói chuyện. Mọi cơ bắp trên người anh đều đang khát oxy và đau nhức nhối. Trong vài năm qua, anh đã nghĩ chuyện cai nghiện sẽ như thế nào.
Thế này còn tệ hơn.
“Anh đã tưởng rằng mình có thể bắt được cô ta”, anh nói một cách bất lực.
Một y tá xuất hiện trong bộ quần áo phẫu thuật màu quả đào. Cô ta chỉnh lại giọt dịch truyền của Archie. “Cái này sẽ giúp anh ngủ được”, cô ta bảo.
Archie gật đầu biết ơn.
Henry bóp sống mũi mình. “Có lẽ lần sau cậu nên cho chúng tôi vào trong kế hoạch.”
Cả hai đều biết Henry đã có thể ngăn anh lại.
“Anh đã để tôi đi”, Archie nói. “Anh để tôi vào nhà vệ sinh một mình. Như thế không giống anh.”
Debbie quay sang nhìn vào Henry.
Henry nhìn Debbie rồi lại nhìn Archie. “Tôi sẽ không bao giờ để cậu mang chính mình ra làm mồi nhử”, anh bảo Archie. “Cậu may mắn vì còn sống đấy.”
May mắn vì còn sống. Để làm gì? Tất cả những chuyện này là để làm gì?
“Anh tìm thấy lời thú tội chứ?” Archie hỏi.
“Có”, Henry nói.
Ít nhất cũng có cái đó. Anh đã hoàn thành xong một việc.
“Cậu có thể đóng nó lại”, Henry nói với tiếng gầm gừ. “Cậu có thể đóng lại vụ án đó. Một đứa trẻ bỏ nhà ra đi không nơi nương tựa. Và cậu đã khép lại vụ án. Như thế có đáng không?”
Archie nhắm mắt lại và cười. Anh có thể cảm thấy thuốc ngủ đã vào cơ thể mình. Đó là một niềm vui bé mọn.
“Có”, anh nói.
Chắc hẳn anh đã ngủ gật vì khi Archie tỉnh lần nữa, Henry đang đứng phía trên anh ở bên giường kia. Debbie đã ra về.
Archie nghiêng sang và nôn. Henry lấy cái bô bằng nhựa màu hoa hồng tới trước mặt anh và anh nôn vào đó, cả người run bần bật. Khi đã nôn xong, anh nằm xuống giường, ngực phập phồng.
Henry biến mất trong nhà tắm cùng với cái bô. Archie nghe tiếng giật nước và bật vòi, rồi Henry quay lại với cái bô rỗng và đặt nó lên chiếc khay cạnh giường.
“Cậu xong rồi chứ?” Henry hỏi.
Archie không biết Henry đang nói về cái gì.
“Cậu đã nôn mửa suốt một tiếng vừa rồi”, Henry nói. “Cậu không nhớ à?”
Archie cuộn người nằm nghiêng. “Không”, anh nói.
“Rosenberg đã đến thăm cậu”, Henry nói. “Cả Fergus cũng ở đây”, anh nói. “Nhớ không?”
Archie lắc đầu. Người đang phủ chăn nhưng anh vẫn thấy lạnh. Anh kéo chăn lên tận vai. Hai tay và chân anh đều run rẩy. Cảm giác như đau từ trong xương.
“Ông ấy bảo cậu cố chịu naloxone trong mười hai giờ, rồi họ có thể cho cậu thêm thuốc giảm đau. Làm cậu dịu đi.”
“Còn bao lâu nữa?” Archie hỏi.
Henry nhìn đồng hồ và nhướng hai bên lông mày. “Bảy tiếng”, anh nói.
Archie thấy axit dâng lên cổ họng nhiều hơn và anh lại nghiêng một bên người, kéo đầu gối lên đến ngực. “Cứ nói chuyện với tôi đi.”
Henry ngồi xuống. “Susan đã ở cùng tôi”, Henry nói. “Khi chúng tôi tìm thấy cậu.”
Archie nhăn mặt. Anh không định khiến Susan gặp nguy hiểm. Nhưng anh đã biết, khi anh cho cô manh mối về Heather Gerber, rằng nếu cô tìm ra thì cô sẽ theo đến cùng. Không đời nào có chuyện cô sẽ để Henry lần theo manh mối ấy một mình. Nếu anh khiến cô bị giết, anh sẽ không thể tha thứ cho chính mình. “Cô ấy ổn không?” Anh hỏi.
“Cô ấy muốn nói chuyện với cậu”, Henry bảo. “Tôi đã bảo cô ấy có thể viết ra tất cả. Nếu bỏ lại một vài chi tiết.”
Henry kể tiếp cho Archie nghe chuyện Susan thoát khỏi vụ đầu độc khí gas và Bennett, anh ta vẫn đang hôn mê ở trên đây một tầng, và chuyện Susan đã xác định được hai cái xác khác ở công viên.
Archie nghĩ đến John Bannon và Buddy Anderson. “Tôi cần nói chuyện với cô ấy”, anh bảo. “Nhưng trước tiên”, anh nói, bụng lại quặn lên, “tôi sẽ cần dùng cái bô kia lần nữa.”
Các bác sĩ và y tá đến rồi đi. Anh đã có rất nhiều mũi khâu ở cổ. Ả đã bỏ qua khí quản và động mạch. Họ tiếp tục bơm đầy naloxone vào người anh.
Debbie đã quay lại. Cô không mang theo hai đứa trẻ và anh cũng không hỏi. Tốt hơn là chúng không nên nhìn thấy anh lúc này. Chúng đã chứng kiến quá nhiều rồi.
“Anh đã đẩy nó ra khỏi cơ thể được chưa?” Cô hỏi.
Anh nhắm mắt lại. “Chưa”, anh nói.
“Anh đã muốn gì, Archie?”
Anh đã muốn gì ư? Anh đã muốn chết. Đó mới là kế hoạch.
Anh quay đầu tránh mặt cô. “Muốn ngủ”, anh nói.
Archie trông thấy một bóng người ở ngưỡng cửa. Mất một lúc anh mới nhận ra đó là một đứa trẻ. Đầu tiên anh tưởng đó là Ben. Anh cười và cố ngồi dậy. Anh đã muốn đó là Ben.
Nhưng nó không phải Ben. Nó là thằng bé trong công viên. Anh ra hiệu cho thằng bé đi vào, và nó làm theo. Nó vẫn đang mặc bộ quần áo lúc ở trong rừng, chiếc áo phông con vịt và quần soóc thụng.
“Chào”, thằng bé nói, giơ một tay lên vụng về.
“Cháu nhớ chú không?” Archie hỏi. “Ở trong rừng ấy?”
Thằng bé tìm cái gì đó để làm với hai cánh tay gầy nhang, khoanh lại rồi thọc tay vào hai túi quần. “Cháu xin lại cái tổ chim, được không?” Nó hỏi.
“Đó là vật chứng”, Archie giải thích.
“Ồ”, thằng bé nói.
Sự tình cờ vĩ đại khiến thằng bé có mặt ở đây, bắt đầu thấm vào Archie qua cơn mê mụ. Có phải nó tới để gặp Archie? “Cháu làm gì ở đây?” Archie hỏi.
Thằng bé nhún vai. “Mẹ cháu làm việc ở đây”, nó bảo.
Archie nghĩ về việc đó. Cũng có thể lắm. “Chú muốn đồng sự của chú gặp cháu”, anh nói.
Thằng bé lùi lại. “Cháu rất tiếc”, nó nói. “Cháu phải đi.” Nó hạ giọng xuống. “Chú cũng nên đi. Mẹ cháu bảo bệnh viện rất nguy hiểm.” Nó nhìn quanh phòng bệnh. “Chú có thể bị lây nhiễm chéo.”
“Chào”, Susan nói. Archie đang nằm mơ. Anh nhìn lên đồng hồ treo tường. Suốt đêm và sáng nay anh hết tỉnh lại mê. Cuối cùng Fergus cũng đến vào buổi trưa và cho anh liều moóc-phin. Anh đã cắm nó vào ống dịch truyền, giống như Gretchen đã làm vào những ngày cuối cùng bắt cóc anh.
“Anh tỉnh chưa?” Susan hỏi.
Archie ngái ngủ nhìn quanh phòng để tìm thằng bé trong công viên. “Đứa bé đi đâu rồi?” Anh hỏi.
Susan cũng liếc quanh phòng rồi nhướng mày. “Làm gì có đứa bé nào”, cô nói.
Archie xoa mặt mình và nhìn Susan. Henry nói cô bị gãy mũi, nhưng Archie vẫn chưa chuẩn bị tâm lý để đối diện sự thật. Cô có một cái băng và hai mắt tím đen, có lẽ chỉ qua một đêm. “Cô có sao không?” Anh hỏi.
“Tôi cần nói chuyện với anh”, cô bảo. “Về Davis và Nixon. Về Molly Palmer.”
“Ai là Davis và Nixon?” Archie hỏi.
“Hai cái xác trong công viên”, Susan sốt ruột nói. “Henry bảo là đã kể cho anh nghe rồi mà.”
“Đúng vậy”, Archie nói.
“Dù sao thì”, Susan nói tiếp, “chúng ta sẽ nói đến chuyện đó.” Cô kéo hai chân lên ghế. “Nhưng có việc này anh cần biết trước. Sáng nay họ đã có một tuyên bố. Họ đã chỉ định một Thượng nghị sĩ mới phục vụ nốt nhiệm kì của Castle.” Màu sắc trên má cô tăng lên. “Đó là Thị trưởng. Là Bud Anderson.”
“Buddy ư?” Archie hỏi.
“Tôi đã đến gặp và nói chuyện với ông ta”, Susan kể tiếp. “Tôi bảo với ông ta là rốt cuộc Người đưa tin sẽ cho đăng bài về Castle và tôi sắp công bố chuyện ông ta nói dối trong bài phát biểu trước công chúng về việc không biết vụ hiếp dâm theo luật định kia. Đó là tội cản trở công lý. Tôi đã bảo ông ta là Henry sẽ mở lại cuộc điều tra Nixon/Davis, và rằng mọi chuyện sẽ vỡ lở hết.”
Trí não Archie vẫn còn mờ mịt. Anh cố theo kịp. “Người đưa tin sẽ đăng câu chuyện Castle sao?”
Susan lắc đầu. “Không, tôi đã nói dối.”
“Tại sao cô lại kể cho tôi nghe chuyện này?” Archie hỏi.
“Bởi vì Buddy nói rằng ông ta sẽ chịu ghi âm”, Susan nói. “Tiết lộ tất cả. Những điều ông ta biết và thời điểm biết.” Cô ngừng lời để nhấn mạnh. “Sau khi ông ta nói chuyện với anh.”