← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 25

Trong suốt bốn mươi năm, Carol Littleton luôn đến Vườn hồng Portland ba buổi sáng mỗi tuần. Bà đã lấy chồng ở đó. Ông ấy từng là một người thuộc Hoàng gia Hoa Hồng. Bà cũng từng có danh hiệu Nữ hoàng Hoa Hồng năm 1939. Họ đã mua một ngôi nhà đối diện với khu vườn và cho đến khi chồng bà qua đời mười năm trước, họ thường xuyên đi dạo trên những con đường lát đá, qua những bức tường đá thấp, qua những cổng vòm hoa hồng, bước dọc theo hàng dài những bụi hồng với những đóa hoa đầy đặn mà gai góc.

Mười năm gần đây, bà đã có một điểm đến cụ thể trong khu vườn, đó là Neville Chamberlain. Tất cả các thành viên của Hoàng gia Hoa Hồng đều được phong tước dưới loài hoa hồng mà họ chọn, loài hoa hồng ấy cùng tên với họ, và Neville Chamberlain là của chồng bà.

Vườn hồng có những quy tắc về việc rải tro cốt của những người thân. Carol hiểu chứ. Nếu những thứ đó chất đống lên thì ai muốn đến một vườn hoa hồng và nhìn thấy những mảnh tro cốt của người khác trên mặt đất?

Ở đây có quy tắc.

Nhưng bạn cũng có thể lách luật.

Từ năm 1997 đến nay, thỉnh thoảng bà vẫn rải vài thìa tro cốt của chồng mình ở đây.

Lúc 8 giờ sáng, trong vườn không có nhiều người, vì vậy bà rất ngạc nhiên khi thấy một cặp đôi ngồi trên băng ghế nhìn ra thành phố. Đó là một băng ghế đẹp. Vườn hồng nằm trên một ngọn đồi, băng ghế có một góc nhìn đẹp về trung tâm thành phố, và núi Hood ở phía xa bên kia. Carol và chồng bà đã nhiều lần ngồi trên băng ghế đó.

Bà bước xuống con đường dẫn về phía họ, tay bà cầm một túi zip chứa đầy tro. Bà vẫn còn cách họ bốn mươi feet khi mùi hôi thối bốc lên.

Mũi bà không còn thính như xưa nữa. Bởi thời còn trẻ, bà đã hút quá nhiều thuốc. Đó là lý do tại sao bà thích hoa hồng, chúng là một trong số ít những loài hoa mà bà thưởng thức.

Thứ mùi này hôi đến nỗi như xộc thẳng vào mặt bà. Bà không biết hai vợ chồng trên băng ghế chịu đựng nó bằng cách nào. Nó có mùi như mùi của động vật chết. Có thể là một con gấu mèo hoặc một con sóc.

Khi đến gần hơn, Carol rút chiếc khăn tay trong túi ra và đưa lên mũi.

“Cho phép tôi”, bà hỏi cặp đôi kia, “mùi này kinh quá phải không?”

Cả hai đều mặc áo khoác dài và đội mũ, quá ấm cho ban ngày nhưng cũng có thể chấp nhận với tiết trời trước khi mặt trời mọc. Những đêm hè ở Portland vẫn lạnh buốt. Nhưng mặt trời đã lên và Carol có thể thấy khá rõ rằng cặp đôi này không cần áo khoác để giữ ấm.

Cặp đôi này cũng không còn trẻ nữa.

Carol ấn chiếc khăn tay vào mặt chặt hơn. Trong một giây, một quầng đen bao quanh tầm nhìn do huyết áp của bà giảm xuống, nhưng rồi bà hít ba hơi thở sâu và dài. Đừng ngất đi. Bà tự nhủ.

Bà từng là một y tá thời chiến tranh, đóng quân tại một căn cứ không quân bên ngoài London. Bà đã nhìn thấy xác chết. Thậm chí bà còn nhìn thấy những xác chết tồi tệ hơn thế này.

Đừng ngất. Nếu mày ngất thì mày sẽ ngã, nếu mày ngã thì mày sẽ gãy xương hông, nếu bị gãy xương hông thì mày phải rời khỏi ngôi nhà, phải từ bỏ việc đi bộ, phải từ bỏ Otis.

Hai thi thể trên băng ghế gần như được bao phủ bởi áo khoác dài và mũ, nhưng bà có thể nhìn thấy khuôn mặt họ. Họ trông giống những hình nộm bằng sáp bị đặt quá gần lửa. Miệng họ há hốc.

Bà nhìn quanh vườn và không thấy ai. Khu vườn là một mê cung với hàng rào, cây bụi, tường và cổng. Có thể có người khác ở đó, chỉ là bà không thể nhìn thấy mà thôi.

“Xin chào?” Bà hét lớn. “Có ai ở đó không?”

Sau đó, bà dùng hết sức lực già nua hét lên, “Xin chào?”

Bà ở đây một mình. Bà đưa tay bao lấy túi tro trong túi và nắm nó thật chặt.

Một con bướm màu vàng sáng bay qua và chui vào chiếc mũ của một trong hai người kia.

Không được đặt thi hài trong công viên. Đó là quy định.

Carol Littleton không có điện thoại di động. Nhưng bà đã có một vòng cổ cảnh báo y tế với nút bấm báo động. Đó là một thứ ngu ngốc. Con gái bà đã bảo bà đeo một cái. Người ta nói nó có phạm vi năm trăm feet.

Còn bà đang ở cách nhà một tòa nhà.

Bà nhìn xung quanh lần nữa, vẫn chẳng thấy một bóng người. Một ngàn feet dưới kia, con người, xe hơi trong thành phố và sự náo nhiệt của đô thị đã tạo ra tiếng ồn ã không đổi. Carol nhớ được âm thanh ấy, nhưng bà không thể nghe thấy nữa.

Bà nhìn lên tòa nhà trước mặt, về phía căn nhà của mình. Năm trăm feet. Có thể sẽ đủ gần.

Bà nhấc chiếc khăn ra khỏi miệng, màu son đỏ lem nhem trên đó tựa như máu, bà tìm mặt dây chuyền bằng nhựa với bàn tay run rẩy và nhấn nút.