CHƯƠNG 28
Đám đông chen chúc bên vành đai bảo vệ hiện trường tại Vườn Hồng. Có rất nhiều micro và sổ tay, Henry đếm được mười hai chiếc xe tải trên đường lên đồi, nhưng chủ yếu là những người tò mò hóng chuyện.
Trong những ngày này, dường như cư dân Portland được chia thành hai nhóm, những người muốn rời khỏi hiện trường vụ án của Gretchen càng xa càng tốt, và những người muốn tiếp xúc với những thi thể của ả.
Henry đỗ xe, ra ngoài và luồn qua dây bảo vệ.
“Whatley”, anh hét lên với một cảnh sát tuần tra tóc đỏ. “Hãy đưa những người này ra khỏi đây.”
Whatley bất lực nhìn quanh đám đông.
“Dịch chuyển dây bảo vệ”, Henry nói. “Sử dụng bình xịt hơi cay nếu cần.”
Claire gặp anh ở lối vào công viên và dẫn anh đến hiện trường vụ án. Cô mặc một chiếc áo phông có in hình tiểu bang Alaska. Người vợ thứ ba đã mua nó cho anh. Họ đã nhanh chóng mặc quần áo khi có cuộc gọi báo về vụ giết người tại viện tâm thần. Chiếc áo phông gần như dài tới tận đầu gối của Claire. Cô đành sơ vin lệch một bên, để có thể kẹp súng vào thắt lưng cùng với cặp kính Ray-bans đỏ.
“Anh ấy thế nào rồi?” Cô hỏi.
“Cậu ấy sẽ ở cùng anh một thời gian”, anh đáp.
“Lẽ ra em không nên treo tất da chân của mình trên vòi hoa sen nhỉ?”
“Em có dùng tất da chân đâu”, Henry nói.
“Em biết”, cô đáp. “Nhưng nghe có vẻ buồn cười mà.”
Họ dọn sạch một phần hàng rào và Henry có thể thấy một nhóm cảnh sát tập trung quanh cặp đôi đang ngồi trên băng ghế.
Henry nhét miếng kẹo cao su cam thảo vào miệng và chộp lấy đôi găng tay cao su. “Chúng ta có gì?” Anh hỏi Claire.
Họ đã quây tròn băng ghế. Những cảnh sát khác lùi lại. “Hãy gặp ông bà Doe đi”, Claire nói.
Henry phải thấy một cảnh khủng khiếp. Những thi thể rõ ràng đã được chôn cất. Họ thực sự được ướp xác. Các đặc điểm trên khuôn mặt khó có thể nhận diện, nụ cười để lộ hàm răng nâu. Điều đó thật tốt. Bởi nó có thể giúp so sánh hồ sơ nha khoa.
“Rõ ràng đây không phải quần áo ban đầu của thi thể”, Claire tiếp tục. “Em đã kiểm tra nhãn hiệu và mấy cái túi. Không có gì. Nhưng em tìm thấy thứ này.” Cô giơ một cái túi bằng chứng với một sợi nhựa nhỏ bên trong. “Đây là một trong những sợi nhựa dùng để treo nhãn mác.”
“Những sợi nhựa dẻo?”
“Em không nghĩ đó là tên khoa học”, Claire nói. “Tuy nhiên người ta thường sử dụng chúng tại các cửa hàng giá rẻ để gắn thẻ giá. Vì vậy, em đã điều động mấy đơn vị cảnh sát quanh đây tới một số cửa hàng lớn để xem liệu có bất kỳ món đồ đáng yêu nào trông quen thuộc không.”
“Cô ta đã mua cho họ những bộ trang phục này và mặc chúng lên hai thi thể để họ ít bị để ý hơn hay sao?” Henry nói. Chuyện này thật vô nghĩa. Mùi hôi thối chắc chắn sẽ mau chóng dẫn ai đó tới thôi.
Claire nhìn xuống hai thi thể. Cô không nhai kẹo cao su. Henry luôn ngưỡng mộ điều đó. Cô có một dạ dày thép. “Anh có nghĩ họ có khớp với danh sách nạn nhân không?” Cô hỏi.
Gretchen đã thú nhận rất nhiều vụ giết người, nhưng ả cam đoan là còn nhiều hơn thế. Và đội đặc nhiệm đã giữ một danh sách những người mất tích trong suốt mười năm giết chóc của ả. Không cái tên nào trong số đó có kết quả khả quan. Tại sao Gretchen lại khai quật những nạn nhân cũ lên? Trừ khi họ không phải là nạn nhân.
“Em cử ai kiểm tra các nghĩa trang chưa?” Henry hỏi.
“Em vừa mới làm đây”, Claire đáp. “Đến giờ vẫn chưa thấy ai báo cáo về việc khai quật trái phép.”
Henry nổ một phát bong bóng kẹo cao su và đến gần để xem xét hai thi thể.
Anh không thể phân biệt hai thi thể này liệu có đầy đủ hai con mắt lúc được chôn cất hay không.
Henry nghe thấy giọng nói của Lorenzo Robbins đằng sau. “Bình tĩnh nào, Quincy”, anh ta nói. “Đó là công việc của tôi.”
Henry bước sang một bên còn Robbins mặc bộ đồ bảo vệ màu trắng quỳ xuống bên cạnh thi thể. Robbins trói những nỗi kinh sợ của bản thân bằng một sợi dây cao su, giống như nó đã rơi ra từ một tờ báo, đeo một đôi găng tay cao su màu tím và tiến hành kiểm tra sơ bộ bên ngoài thi thể.
“Họ không chết cùng lúc”, Robins nói. “Một nạn nhân có thể chết từ ba hoặc bốn năm trước, người kia thì khoảng hai năm.”
Henry nheo mắt nhìn. Anh chẳng thấy điểm gì khác nhau. “Làm sao anh biết?” Henry hỏi.
“Vì tôi là một nhân viên pháp y”, Robins nói. “Còn anh thì không.” Anh ta rút ra một cây bút và chiếu nó vào hốc mắt của mỗi thi thể. “Ngoài ra, đôi mắt đã được lấy đi”, anh ta nói tiếp.
Henry tiến lại gần để nhìn vào hốc mắt.
Robbins đẩy anh ra. “Mau đi làm nhiệm vụ của cảnh sát đi”, anh ta nói.
Henry quay sang Claire. “Khung thời gian của chúng ta là bao nhiêu?”
“Công viên mở cửa lúc 7 giờ 30”, Claire đáp. “Không khó để vào đây trước giờ đó. Chỉ cần nhảy qua cổng là được. Những người bảo vệ nói rằng họ đã dọn sạch công viên vào giờ đóng cửa tối qua, 9 giờ tối. Vì vậy, hai thi thể này được đưa tới đây trong khoảng giữa 9 giờ tối qua, đến sáng hôm sau, bà lão tìm thấy họ sau 8 giờ một chút. Bà ấy đã nhấn chuông báo động. Khu đất bị giày xéo khá nát. Bà ấy nói với họ những gì mình tìm thấy và họ nghĩ rằng bà bị đột quỵ. Họ bèn gọi xe cứu hỏa, nhân viên y tế khẩn cấp… Toàn bộ lực lượng đã chạy tới đây.”
Henry nhìn ra quang cảnh rộng lớn của Portland. Đường chân trời nơi phố thị. Những ngọn núi. Nếu bỏ qua những chiếc trực thăng đưa tin mà anh có thể nhìn thấy đang tiến lại từ xa thì có điều đáng để chú ý. Henry đánh dấu vào bản đồ hiện trường vụ án. “Gorge”, anh nói. “Biệt thự Pittock. Vườn Hồng. Chúng có điểm chung là gì?”
Robbins nhìn lên. “Có chữ O?”
Claire liếc nhìn thành phố. “Chúng đều có điểm nhìn tuyệt vời”, cô nói.
“Và chẳng có đôi mắt nào có thể cảm nhận được hết”, Henry nói.
“Dù sao đi nữa, họ cũng không thể nhìn thấy được”, Robbins nói. “Họ chết rồi mà.”
“Ôi, vì Chúa”, Henry nói. “Đây là một phép ẩn dụ.”