← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 30

Ảnh chụp của Gretchen dán trên tường. Chúng được cắt ra từ tạp chí, sách báo và gắn vào bức tường khô [8] sơn trắng với một mớ đinh ghim nhựa đầy màu sắc. Những bức ảnh được cắt cẩn thận, gọn gàng, không bị rách hay cắt cẩu thả. Nó được làm với tất cả tình yêu. Bộ ảnh này nằm trong phòng khách. Không gian công cộng. Bạn sẽ thấy nó ngay khi bước chân vào căn nhà. Archie đã từng cắt một bức ảnh của Gretchen, nhưng ít nhất anh cũng có ý thức dán nó lên bức tường phía sau tủ quần áo của mình.

Anh kiểm tra khắp căn nhà trước khi quay lại với bộ ảnh. Một phòng ngủ. Giường xếp futon dùng làm ghế. Ga giường chưa trải. Có nửa ly nước trên cái bàn cạnh giường. Một tủ quần áo màu trắng. Trong tủ không có ai.

Phòng tắm nhỏ xíu và không có rèm xếp. Cũng chẳng có ai trốn trong phòng tắm. Một tủ thuốc treo phía trên bồn rửa và Archie mở nó ra. Không có Vicodin. Dù chẳng may nhưng cũng nên thử một lần.

Anh trở lại phòng khách.

Và bây giờ, ít nhất trên danh nghĩa, chắc chắn sẽ không có ai nhảy ra và bắn vào anh, Archie bèn tìm kiếm manh mối. Những bộ sưởi ấm bằng điện màu trắng ôm lấy ván chân tường, những tấm mành trắng sáng bóng treo trên cửa sổ trượt bằng nhựa. Những bức tường trắng. Thảm màu xám. Nỗ lực khiến nơi này mang đậm dấu ấn riêng rất thú vị. Một cái dreamcatcher gắn lông treo bằng dây câu chầm chậm quay trên bồn rửa. Vải batik tím phủ trên chiếc ghế dài.

Mùi bạc hà tràn ngập căn phòng. Archie có thể nếm nó trong mối hàn răng của mình.

Anh đứng ở giữa phòng khách và từ từ quay người lại. Anh phát hiện ra cuốn sách giải phẫu nằm trên bàn cà phê, một cuốn sách lớn bìa cứng đầy màu sắc. Những cuốn sách y học khác xếp hàng trên giá sách, bên cạnh những cuốn sách selfhelp của Deepak Chopra và Eckhart Tolle. Trên mặt lò sưởi là một bức tượng Phật đặt cạnh tượng thân Shiva bằng thạch cao và một mô hình giải phẫu bằng nhựa với các bộ phận có thể tháo rời. Trên những bức tường, ở hai bên của bộ sưu tập ảnh Gretchen, là những tấm ảnh lớn in hình thiên thần nhợt nhạt.

Đây là kết quả của việc cửa hàng sách Thời đại mới gặp phòng ký túc xá sinh viên y khoa.

Nó thật tuyệt vọng.

Nhưng lại rất thân thuộc.

Anh chuyển ánh mắt về phía bộ ảnh. Gretchen đã dùng các đồng phạm, những người đàn ông mà ả dụ dỗ. Anh đã nghĩ rằng tất cả bọn họ đã chết.

Archie đi về phía những bức ảnh. Trước bức tường đó không đặt bất cứ món đồ nội thất nào. Bạn có thể thẳng đến chỗ bộ ảnh. Tấm thảm ở nơi ấy phẳng phiu, như thể ai đó đã đứng tại chỗ trong nhiều giờ liền. Archie cũng đứng đó và giơ tay lên, gần như chạm vào mặt Gretchen, nhưng anh dừng lại một milimet trước khi chạm vào để giữ lại dấu vân tay kẻ đồng phạm có thể để lại.

Anh cảm thấy sự bình tĩnh lắng lại trong lòng mình.

“Xin chào, em yêu”, anh nói.

Anh đã mỉm cười. Bây giờ anh có thể nhìn vào bức ảnh của ả mà không cảm thấy đau rát trong bụng.

“Cô không còn được tung hoành nữa đâu”, anh nói.

Những bức ảnh có đủ cả ảnh màu lẫn đen trắng, được in trên giấy báo và cả giấy tạp chí bóng loáng, Gretchen trong ảnh trông thật khả ái. Archie biết tất cả trong số chúng. Anh chụp gương mặt của Gretchen qua cửa sổ sau của một chiếc xe cảnh sát. Anh chụp khuôn miệng của Gretchen. Gretchen mỉm cười với đám đông đã chờ đợi suốt đêm chỉ để thoáng thấy Gretchen khi ả được chuyển đến Salem. Một phần vai của Henry xuất hiện trong ảnh, khi anh đưa ả về phía chiếc xe tù nhân còn trống.

Tên đồng phạm đã thấy được điều gì khi nhìn ả?

Rồi Archie mỉm cười. Trong mỗi bức ảnh, ả đều nhìn vào camera. Ả đang nhìn anh.

Những kẻ đồng phạm thích điều đó. Một người đàn ông. Đó phải là một người đàn ông. Kẻ dán những bức hình này muốn kiểm soát Gretchen. Hắn cảm thấy yếu đuối trước ả. Đó là một điểm yếu đặc biệt trong tính cách của nam giới.

Archie lắc đầu. “Tên khốn tội nghiệp”, anh nói.

Anh nghe thấy tiếng Susan hỏi vọng tới từ phía sau, “Anh đang làm gì vậy?”

Cô cho phép mình bước vào căn nhà. Archie mải mê đến nỗi không nghe thấy cô mở cửa. Sự vô tâm đó sẽ khiến bạn bị giết nếu kẻ kia ra tay.

“Tôi đang nói chuyện với một bộ ảnh”, anh đáp, “của một kẻ giết người hàng loạt.”

Susan nhìn anh một lúc, rồi nhìn quanh căn nhà. “Ai sống ở đây?”

Archie nhún vai.

“Tôi đã gọi anh”, Susan nói.

“Tôi không giữ điện thoại của mình”, Archie đáp. Tay anh sờ trong túi, nơi có điện thoại Gretchen gửi tới, và rồi anh nhận ra rằng ý của Susan là cô vừa gọi tên anh. Mắt anh nhìn xuống sàn nhà. “Đóng cửa đi”, anh nói.

Susan lấy khuỷu tay đẩy cánh cửa đóng lại sau lưng. “Anh biết mấy cái cây bày ngoài hiên nhà là gì chứ?” Susan nói. “Đó là cây bẫy ruồi Venus. Venus là nữ thần tình yêu trong thần thoại La Mã. Nàng nổi danh với sắc đẹp của mình.” Cô vẫy một cánh tay về phía bộ ảnh. “Anh có nghĩ đến ai không?”

“Tôi nghĩ không ra”, Archie nói.

“Anh có bị điên không?” Susan hỏi. “Hay là anh thực sự điên rồi?”

Cô bắt đầu bước về phía Archie.

“Đừng di chuyển”, anh nói. “Hoặc chạm vào bất cứ thứ gì.”

“Anh có ngửi thấy mùi đó không?” Susan vừa nói vừa nhăn mũi. Cô hít hà không khí và cười toe toét. “Dr. Brenner’s.”

“Tôi ngửi thấy mùi bạc hà”, Archie trả lời.

Susan lắc đầu. “Đó là nước tẩy rửa tổng hợp mùi bạc hà của Dr. Bronner”, cô nói. “Hồi tôi còn bé, nhà chúng tôi sử dụng nó trong tất cả mọi việc. Gội đầu, chà nhà vệ sinh… Thứ này tẩy rửa xịn lắm đấy.” Cô bắt đầu đi về phía kệ tivi.

“Cô đang di chuyển”, Archie nhắc nhở. “Tôi nói cô không được di chuyển cơ mà.”

Cô thậm chí còn không đi chậm lại.

“Kiểm tra nó thử xem”, cô nói. Cô đến chỗ cái kệ và lướt ngón tay trên một trong những chiếc khay đốt nhang bằng gỗ xếp dọc phía trên kệ tivi.

“Cô đang sờ mó linh tinh đấy”, Archie nói.

Susan nhấc ngón tay lên và giơ nó cho Archie. Nó sạch bong. “Ai đã lau chùi những khay đốt nhang này?”

Trên kệ còn có một bức ảnh. Archie không thể nhìn rõ hình ảnh từ nơi anh đang đứng, chỉ thấy khung tre mà thôi. Nhưng khi Susan nhìn thấy nó, cô hít mạnh một hơi.

Archie chỉ mất bốn bước để tới được chỗ cô.

“Đó là cậu ta”, Susan nói, và chỉ vào bức tranh. “Đây là người mà tôi tìm thấy trong căn nhà kia.” Cô đưa tay xoa lên cánh tay nổi da gà. “Cậu ta đã sống ở đây.”

Bức ảnh chụp cảnh ngoài trời, ba thanh niên đứng trong rừng, nheo mắt nhìn mặt trời. Họ là những thiếu niên, tầm mười bảy, mười tám tuổi, cơ thể chưa hoàn toàn trưởng thành, áo phông và quần soóc để lộ đôi chân gầy còm và cánh tay yếu mềm cháy nắng. Họ chụp ảnh, nhưng lại không cười. Áo phông của cậu nhóc ở giữa có logo của Outward Bound. Cậu nhóc đội mũ bóng chày màu đỏ và kéo phần lưỡi trai sùm sụp khiến Archie không thể nhìn rõ khuôn mặt của cậu ta. Nhưng Archie nhận ra cậu bé bên phải, tóc bù xù và thân hình mảnh khảnh với hình xăm trên một cánh tay. Anh nhìn qua Susan để xem cô có thấy vẻ ngạc nhiên trên mặt anh không. Cô không thấy điều đó. Sự chú ý của cô vẫn cố định trên bức ảnh.

“Người nào?” Archie hỏi.

“Người đứng giữa”, Susan trả lời.

“Tốt”, Archie nói.

“Tốt ư?”

“Thật tốt vì chúng ta đã xác định được cậu ta là ai.”

Cô quay lại nhìn anh. “Sao anh không hỏi tôi có chắc chắn là cậu ta hay không?” Cô hỏi.

Archie đành nói đùa với cô. “Thế cô có chắc là cậu ta không?”

“Cậu ta lớn hơn thế này”, Susan nói. “Chắc tầm hơn hai mươi. Nhưng đúng là khuôn mặt đó.” Cô nheo mắt lại. “Anh có vẻ chẳng ngạc nhiên gì.”

“Cũng dễ hiểu thôi mà”, Archie nói. “Người ta muốn chúng ta tìm ra cậu ta là ai. Đây là điều nằm trong tính toán.”

“Vậy tại sao hung thủ không bỏ luôn ví tiền vào túi cậu ta?” Susan lẩm bẩm.

“Bởi vì ở đây có chuyện muốn kể cho chúng ta”, Archie nói. Anh lại nhìn quanh căn hộ. Mùi bạc hà rất mạnh và ở rất gần.

Sự cố gắng tẩy rửa này là một nỗi ám ảnh. Nhưng cậu ta còn chẳng có thời gian dọn giường cơ mà? Tại sao phải cố gắng làm việc đó? Mành thậm chí đã bị phủ bụi. Lò sưởi điện chẳng còn sáng bóng. Không có mảng bám cà phê trên quầy bếp; không có mẩu vụn trên bàn cà phê. Hơn nữa màn hình tivi trông như đã nhiều năm không được làm sạch.

Archie bước sang một bên để có thể có được góc phù hợp, sau đó anh nhìn thấy những chữ cái được viết lên lớp bụi bằng đầu ngón tay.

Phát.

“Con người cần phải kể chuyện cho người khác nghe”, Archie nói. Anh nhìn ra phía sau tivi và thấy một chiếc máy quay kỹ thuật số nhỏ xíu nằm gọn trong góc của tủ kệ, một sợi dây màu đen cắm vào ổ video của tivi. “Vì việc đó khiến cuộc sống của họ trông có vẻ quan trọng.”

Điều khiển máy quay nằm trên bàn cà phê, bên cạnh điều khiển tivi. Archie lấy bút ra khỏi túi và sử dụng nó để bật chiếc điều khiển lên, sau đó nhấn nút “Phát” trên điều khiển máy quay.

Hình ảnh căn phòng họ đang đứng xuất hiện trên tivi với góc nhìn nghiêng nghiêng. Một chiếc ghế đã được kéo tới phía trước bức tường dán ảnh. Đột nhiên, một thanh niên xuất hiện trên camera. Cậu ta lớn tuổi hơn, mái tóc nâu dài hơn, cơ thể đầy đặn hơn một chút, nhưng Susan nói đúng, cậu ta chính là cậu nhóc đứng giữa bức ảnh.

Cậu ta loay hoay với máy ảnh trong khoảng một phút, cho đến khi nó cân bằng, sau đó lùi lại và ngồi xuống ghế. Áo thun màu xám. Quần jean. Chân trần. Chuỗi hạt đeo trên cổ.

“Lạy Chúa”, Susan nói. Cô rút quyển sổ ra khỏi túi, mở nó ra, ngồi xuống đi văng và nhìn chằm chằm vào màn hình. Archie nghĩ đến việc bảo cô đứng dậy, giảng cho cô nghe về những bằng chứng mà cô vừa làm chúng dính lên quần, nhưng anh không thực sự có năng lượng để làm việc đó.

Người chết nhìn ai đó đứng ngoài camera. “Nó đang ghi hình phải không?” Kẻ đó hẳn đã gật đầu, vì người chết cười ngại ngùng trước ống kính. “Được rồi”, cậu ta nói. Cậu ta bắt tréo chân ở đầu gối, những ngón tay nắm chặt lấy đầu gối và nghiêng người về phía trước. “Nếu bạn nhìn thấy thứ này, ừm, thì mọi thứ đã có chuyện chẳng lành rồi.” Cậu ta hít một hơi, phồng má, rồi thở dài. “Vì vậy, tôi nghĩ mình nên giải thích”, cậu ta nói. “Khi tôi lên tám tuổi, anh trai tôi mắc bệnh mono [9] . Lúc đó, anh ấy mười hai tuổi. Chúng tôi không biết anh ấy mắc bệnh. Anh ấy đã kêu ca về chứng đau họng trong suốt một tháng nhưng bố mẹ tôi chỉ nghĩ rằng anh ấy bị cảm. Bệnh mono có thể làm cho lá lách sưng to. Đó là lý do tại sao người ta khuyên người bệnh không được tham gia vào các hoạt động nặng trong vòng sáu tuần. Nhưng khi anh tôi đang học thể dục thì bị mấy đứa trẻ khác xô vào. Đó là một điều tồi tệ.”

Archie ngồi xuống chiếc ghế dài bên cạnh Susan.

“Bạn có thể sống mà không cần lá lách”, người chết nói.

“Đó là những gì họ làm khi lá lách bị vỡ. Họ chỉ cần lấy nó ra. Chỉ là một thủ thuật cắt bỏ mà thôi.”

“Anh ấy đã ở trong bệnh viện một tuần. Các bạn trong lớp làm cho anh ấy một tấm thiệp.”

“Đó là khi tôi bắt đầu nghĩ về chuyện đó.”

Khóe miệng nạn nhân nhấc lên. “Chúa ơi, nghe có vẻ điên rồ phải không?”

“Anh có thể tạm dừng được không?” Susan hỏi, tay viết nguệch ngoạc.

“Không”, Archie đáp.

“Tôi đã từng chơi trò nằm viện. Giả vờ như tôi cũng đã bị cắt đi lá lách. Tôi quấn băng gạc và làm mọi thứ.”

“Nhưng sau tất cả, đó cũng chỉ là một trò chơi. Tôi muốn nó được lấy ra khỏi người. Nó giống như một thứ ngoại lai bị mắc kẹt trong tôi, như một khối u. Tôi thực sự bị ám ảnh bởi nó. Nghe này, tôi biết chuyện này nghe điên rồ thế nào. Tôi đã tham gia đủ loại trị liệu rồi.”

Người chết đưa một tay xuống khung xương sườn và đặt nó lên chỗ vị trí lá lách của mình, và Archie nhận ra rằng anh đang trong tư thế tương tự, tay anh tìm thấy vết sẹo mà Gretchen để lại trên người mình. Archie bèn đặt tay xuống giữa hai đùi và giữ nguyên ở đó.

“Tôi tìm thấy một bác sĩ ở Tijuana, anh ta nói rằng anh ta sẽ tiến hành phẫu thuật”, người chết nói tiếp. “Sau khi anh ta từ bỏ vào phút cuối, tôi thực sự chán nản. Thế rồi một người bạn đã liên lạc với tôi qua trang web này và họ nói rằng có thể giúp tôi. Xin lỗi bố mẹ và mọi người. Tôi biết mình có thể chết.” Cậu ta liếm môi. “Nhưng nếu có thể lấy nó ra khỏi cơ thể mình thì tôi sẽ cảm thấy tốt hơn.”

Video kết thúc và màn hình chuyển sang màu xanh.

Susan vẫn đang viết vội vàng. Archie có thể cảm thấy mạch đập dồn dập trong cổ họng.

“Đó không phải là Gretchen”, Archie nói. “Cô ta không giết cậu ấy.”

“Mà là những người hâm mộ”, Susan nói, không nhìn lên. “Những kẻ muốn giống cô ta.” Cô dừng viết, đặt bút vào quyển sổ và quay sang nhìn Archie. Mặt cô tái nhợt. “Họ như đang tuyển chọn.”

Archie lắc đầu. “Còn cô lại nghĩ tôi bị điên.”