← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 33

Lake Oswego là nơi những người giàu có sinh sống. Archie không nói rõ địa chỉ cho Susan. Chỉ cho biết nó ở gần hồ. Thị trấn được đặt tên theo hồ. Hồ là nơi những người thực sự giàu có sinh sống. Người giàu và nước có quan hệ gì đây?

Susan gọi cho Derek để Người đưa tin có thể đăng bài về Fintan English. Anh ta sẽ viết nó. Cô sẽ là đồng tác giả. Người đưa tin có tin sốt dẻo. Mọi người đều vui vẻ.

Sau khi cúp máy, Archie hỏi mượn điện thoại của cô.

“Không phải họ đã trả lại điện thoại khi thả anh ra rồi sao?”

“Là kiểm tra xong”, Archie nói, cầm lấy chiếc điện thoại của cô. “Không phải là thả. Tôi không bị tống giam.” Anh gọi đến một số được lưu trong trí nhớ. “Archie Sheridan đây”, anh nói. “Tôi cần gặp cậu ấy. Cậu ấy có ở đó không?” Anh ngừng lại. “Ngay bây giờ”, Archie nói. Rồi anh cúp máy.

Tất cả đều bí ẩn.

Họ lái xe qua First Addition. Đó là phần cũ nát của Lake Oswego, nơi người ta vẫn có thể sống với mức lương thấp hơn cả thấp. Nơi ấy có cây và sân vườn, những tiệm Sears đặt hàng dụng cụ của hãng Craftsmans qua thư và một siêu thị nơi bạn có thể mua chịu đồ tạp hóa. Thị trấn trở nên nổi tiếng khi Bruce Springsteen kết hôn với Julianne Phillips - một người mẫu lớn lên ở đây - tại một nhà thờ ở First Addition. Cuộc hôn nhân chỉ kéo dài bốn năm nhưng mọi người vẫn nói về nó.

“Hồ Không Da Đen”, Susan nói.

Archie nhướng mày. “Tôi không nghĩ họ gọi nó bằng cái tên đó nữa.”

“Hồi học trung học tôi đã từng dự tiệc ở đây”, Susan nói. “Họ có những loại thuốc tốt nhất đấy.”

Họ đi qua một trung tâm thương mại mới được xây dựng. Nó có mặt tiền của một nhà nghỉ trượt tuyết trên núi cao, na ná giống Swiss Pavilion ở Epcot Center. “Đúng là đám nhà giàu nhàn rỗi”, Archie nói.

Họ lái xe một lúc trong im lặng với những tấm kính cửa xe được hạ xuống. Cuối cùng, Susan cảm thấy bồn chồn và chuyển đài phát thanh sang alternative rock. Cô đã có một vài chiếc iPod nhưng chúng luôn bị lấy cắp khỏi xe của cô. Đó là những gì Portland dành cho bạn. Đầy rẫy những người theo chủ nghĩa hòa bình và người ăn chay, nhưng nếu bạn đỗ xe trên đường thì rất có thể ai đó sẽ nạy khóa và bán chiếc iPod của bạn trên Craigslist.

Họ đi tiếp qua vài đường ray xe lửa và đi qua làn xe riêng dẫn đến Câu lạc bộ du thuyền Oswego, sau đó qua một cây cầu đá kỳ lạ. Vịt bơi trên hồ. Lúc này khu dân cư trở nên ẩn dật và yên tĩnh hơn. Những ngôi nhà trông giống như những ngôi nhà bên bãi biển với bến cảng nơi những chiếc xuồng máy bập bềnh chờ đợi. Khi họ tiếp tục đi vòng quanh hồ, những ngôi nhà trở nên lớn hơn và giao thông ngày càng vắng vẻ. Mọi người đi qua đều mỉm cười và vẫy tay với họ. Những ngôi nhà trông giống như đã được đặt hàng từ một catalog của Pottery Barn và được lắp ráp từ những bộ chi tiết có sẵn. Những chiếc xe ở đây đều là Land Rover, Volvo và BMW. Cũng có vài chiếc Civic nhưng Susan khá chắc rằng chúng thuộc về những người ở độ tuổi đại học từ Brown đến đây nghỉ hè.

Archie chỉ dẫn cho cô đi qua thùng thư Người đưa tin bằng nhựa màu vàng, đi lên một làn đường riêng đến một đôi cổng sắt. “Dừng lại ở đây”, anh nói.

Susan không thể nhìn thấy ngôi nhà, nhưng cánh cổng khá ấn tượng.

“Ai sống ở đây vậy?”

“Tên ông ấy là Jack Reynold”, Archie đáp.

Susan nhướng mày. “Ông ta giàu đấy”, cô nói.

“Ông ấy rất giàu có”, Archie nói. Có một máy liên lạc trên chiếc cột dài bằng một chiếc ô tô trước cổng sắt. Nó trông giống như một máy đặt hàng hamburger vậy.

Archie tháo dây an toàn và ngả sang bên Susan. Sự đột ngột xâm chiếm không gian của cô khiến bụng cô đau nhói. Mái tóc sẫm màu với vài sợi bạc của anh chỉ cách mặt cô vài inch.

Khi bạn đỏ mặt, bên trong dạ dày của bạn cũng sẽ chuyển sang màu đỏ. Khoa học về cảm xúc đã từng là bài viết đầu tiên của Susan được lên trang nhất trong chuyên mục Đời sống .

Archie bấm một nút có chữ “nói chuyện” và nói “Archie Sheridan đây”. Không nghe thấy tiếng ai đáp lời, nhưng đèn đỏ phía trên loa chuyển sang màu xanh lá cây và cánh cổng mở ra. Archie ổn định chỗ ngồi.

“Cô có thể đi vào rồi”, anh nói.

Susan hắng giọng. “Được”, cô nói.

Họ lái xe qua cổng và đi lên một cây cầu. Đó không phải là một cây cầu dài, chỉ khoảng hai mươi feet, được xây bằng những tảng đá lớn thô ráp.

“Đây là một hòn đảo.” Susan nói. “Họ sống trên một hòn đảo chết tiệt.”

“Dừng ở đây”, Archie vừa nói vừa chỉ một khu vực đỗ xe được lát gạch, có bốn chiếc xe đang đậu. Có một chiếc Volvo màu bạc, một cặp Prius và một chiếc xe bán tải đề tên của một công ty làm vườn.

Susan đậu xe bên cạnh chiếc xe bán tải.

Có rất ít cách để một người có thể giàu đến nỗi mua được đảo ở Oregon. Susan đoán người này đã dừng sản xuất đồ công nghệ cao đúng lúc. Hoặc phát minh ra vải thun nỉ hay cái gì đó tương tự. Dù làm gì đi chăng nữa thì ông ta cũng đã làm rất tốt. Cô tự hỏi liệu có bao giờ tiểu sử của ông ta được đăng trên tờ Người đưa tin hay không.

“Người này có quan hệ thế nào với cậu nhóc mà anh nhận ra trong bức ảnh?” Cô hỏi.

“Mười hai năm trước, Gretchen đã giết con gái ông ấy”, Archie nói. “Cậu nhóc trong bức ảnh là con trai của ông ấy.”

“Anh có thường tới đây không?” Susan hỏi.

“Đã từng”, Archie đáp. “Nhưng đó là chuyện của mấy năm trước rồi.”

Hai năm, Susan tự hiểu. Vì Gretchen đã bắt và giam cầm anh.

Archie mở cửa rồi ra khỏi xe. Susan cũng làm như vậy. Cô liếc nhìn xung quanh. “Tôi đoán tôi không cần phải khóa nó”, cô nói.

Đó không phải là một hòn đảo lớn. Susan đoán nó rộng khoảng một mẫu đất, mặc dù cô thực sự không biết chính xác một mẫu đất lớn như thế nào. Ngôi nhà đã cũ, hoặc ít nhất trông nó cũ kỹ, giống như một phiên bản dựng phim của biệt thự Tudor. Nó được làm từ gạch cùng vữa và gỗ, có mái dốc, cửa sổ cao, một vài ống khói và mái hiên. Một nhà giàu mới nổi hoài cổ.

“Ở đó”, Archie nói. Nhưng anh không nhìn vào nhà. Anh đang nhìn về phía bên trái ngôi nhà, nơi một bến tàu kéo tới bên hồ và một người đàn ông mặc vest đang vẫy.

Trông người này chưa đủ già để có một đứa con hai mươi tuổi. “Đó có phải là anh ta không?” Susan hỏi.

“Đó là luật sư của ông ấy”, Archie nói.

Khi họ đến gần hơn, Susan nhìn thấy một người đàn ông khác, đang nhảy xuống boong một chiếc thuyền buồm nho nhỏ. Ông ta khoảng sáu mươi tuổi, rám nắng và đẹp trai với mái tóc dài màu xám cùng những nét đối xứng gồ ghề. Ông ta mặc quần jeans lửng với áo phông cũ và đi chân trần. Ông ta thấy Archie và cười tươi rói.

“Chào, Jack”, Archie nói. Anh quay sang vị luật sư. “Leo”, anh nói tiếp.

Leo đưa tay ra và Archie nắm lấy nó. “Lâu lắm mới gặp anh”, Leo nói. “Chúng tôi đã gửi hoa đến bệnh viện sau khi Gretchen bị bắt.”

“Tôi nhớ chứ”, Archie nói. “Các vị thật chu đáo.” Anh hất đầu về phía Susan. “Đây là Susan Ward”, Archie nói. “Cô ấy là phóng viên của tờ Người đưa tin.”

“Nhà báo chứ”, Susan nói. “Nhưng anh muốn gọi là gì cũng được.”

Jack Reynold nháy mắt với cô. Ông ta trông giống như George Hamilton ở độ tuổi trung niên vậy. “Tất nhiên”, ông ta nói với Susan. “Tôi đã đọc những bài báo của cô. Cô làm tốt lắm.”

Susan cảm thấy dạ dày của mình đỏ lên.

Jack nhảy xuống thuyền với một ống nước trong tay, đi đến đầu vòi rồi tắt nó đi. “Đưa cô ấy đi một vòng quanh hồ nhé”, Jack nói. Ông ta nhìn lên bầu trời quang đãng, được đóng khung bởi những dải cây xanh quanh hồ. “Hãy tận hưởng tiết trời này khi chúng ta có thể.”

“Chúng ta cần nói chuyện về Jeremy”, Archie nói.

Jack vòng ống nước quanh một cái đinh được đóng vào lan can bến tàu. “Nó vẫn ổn chứ?” Jack hỏi.

Susan đột nhiên cảm thấy mình thừa thãi, giống như cô đang xâm nhập vào một cuộc trò chuyện riêng tư. Cô lùi lại một bước. Và rồi cảm thấy tự ti về điều đó, cô là một nhà báo, sau tất cả, cô lại tiến lên một bước.

Archie bắn sang cho cô một cái nhìn rồi nói tiếp. “Tôi nghĩ thằng bé có thể liên quan đến một số người có mối quan tâm nguy hiểm đến Gretchen Lowell.”

Jack kết thúc việc quấn ống và quay lại nhìn Archie. Những giọt nước cuối cùng bị kẹt trong ống nước rỉ ra khỏi miệng vòi thành từng giọt nhỏ xuống bến tàu.

“Chắc hẳn ông đã theo dõi tin tức”, Archie tiếp tục. Anh nói chuyện thẳng vào vấn đề. “Chúng tôi đã xác định thi thể được phát hiện trong ngôi nhà bỏ hoang ở Bắc Portland. Đó là một chàng trai trẻ tên là Fintan English. Chúng tôi vừa ở nhà cậu ta và tôi thấy một bức ảnh của Jeremy ở đó. Có vẻ như English đã tìm thấy một vài người trên internet, những người hâm mộ Gretchen, họ đã phẫu thuật lấy đi lá lách của cậu ấy và cậu ấy đã chết trong quá trình thực hiện.”

Jack liếc qua luật sư của mình. “Chúng tôi đã không gặp Jeremy trong nhiều tháng qua”, ông ta nói.

Luật sư gật đầu đồng ý.

Archie nhướng mày. “Tôi cho rằng ông có cách để tìm ra cậu ta”, anh nói.

“Có phải cậu ta mất tích rồi không?” Susan hỏi. “Như vụ mất tích của Costa-Grasras?”

Họ lờ cô đi.

“Jeremy ra sao rồi?” Archie hỏi.

Luật sư ngập ngừng, nhìn qua Susan một giây trước khi tiếp tục lên tiếng. “Nếu anh muốn hỏi thì cậu ấy vẫn say mê Gretchen. Nếu có chuyện xảy ra thì tức là mọi việc đã trở nên tồi tệ hơn”, anh ta nói. Ánh mắt anh ta rơi xuống bến tàu. “Cậu ấy đã xăm một trái tim lên ngực. “Khi cô ta trốn thoát”, vị luật sư nhìn ra hồ, “cậu ấy đã ăn mừng.”

Susan nhận ra rằng miệng mình đang há hốc ra. Có lẽ cô đã hiểu lầm. “Chẳng phải Gretchen đã giết chị gái cậu ấy sao?” Cô hỏi.

Mọi người đều nhìn cô khiến cô có chút giật mình, giống như cô vừa tự kéo quần xuống vậy. “Xin lỗi”, cô nói.

Jack nhìn chiếc thuyền của mình. Thân tàu bằng sợi thủy tinh va nhè nhẹ vào bến tàu. “Jeremy gặp vài khó khăn”, Jack nói. “Một trong số đó là rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Cô có hiểu biết nhiều về thuyền bè không?” Ngay lập tức Susan nhận ra rằng ông ta đang hỏi cô.

“Không nhiều lắm”, cô đáp. Sự thật là vụ việc bị bắt cóc và giam giữ làm con tin trên một chiếc thuyền cách đây vài tháng đã làm cô chán nản với tàu thủy.

“Nó là một chiếc thuyền buồm”, Jack nói. “Đẹp chứ hả?”

“Chắc chắn rồi”, Susan nói.

“Jeremy vẫn còn vị thành niên khi chị gái nó bị sát hại”, Jack nói. “Từ đó nó dần hứng thú với việc theo dõi vụ án.” Ông ta dừng lại. Một con hải âu sà xuống bến tàu và kêu quang quác. “Một ngày nọ, nó trở nên lẫn lộn”, ông ta nói tiếp. “Nó đã lãng mạn hóa Mỹ nhân đoạt mạng. Nó đã vẽ những bức tranh về một người đàn ông, luôn là một người đàn ông. Đó hình ảnh tưởng tượng của nó về Mỹ nhân đoạt mạng với đôi cánh đen to và những cái sừng. Các nhà trị liệu cho biết nó bị thu hút bởi sức mạnh của kẻ giết người. Khi Gretchen bị bắt, Jeremy đã chìm vào tình yêu.”

“Thằng bé là một đứa trẻ mong manh”, Archie nói nhẹ nhàng.

Jack vẫn chăm chú nhìn chiếc thuyền. “Nó luôn tôn sùng cậu.”

Con hải âu bay đi. Chiếc thuyền lắc lư. “Ông có biết cậu ta đang ở đâu không?” Archie hỏi.

Miệng của Jack Reynold mím lại một cách quyết tâm. “Tôi có thể tìm thấy nó”, ông ta nói.

Archie bước một bước về phía Jack. “Hãy tìm cậu ta”, anh nói. “Hãy đưa cậu ta ra khỏi chuyện này. Nhưng trước tiên tôi muốn biết cậu ta ở đâu và có dính dáng tới ai.”

Jack mỉm cười, nhưng đôi mắt ông ta lóe lên một tia tối tăm hơn. “Còn điều gì khác tôi có thể làm cho cậu không, Archie?”

“Có. Tôi cần một khẩu súng”, Archie nói. “Và một chiếc điện thoại di động trả trước.”