CHƯƠNG 39
Archie sánh vai cùng Susan, họ bước đi bên cạnh nhau, theo sau cô gái vài bước. Anh biết họ đang đi đâu. Anh đã ở dưới tầng hầm này cả chục lần. Anh bước xuống cầu thang, xuống hành lang này, rẽ ở cuối đường và tiến vào phòng lò hơi cũ.
Bảy năm trước, Gretchen đã giết một người đàn ông ở đây. Archie đã khám nghiệm hiện trường vụ án, kiểm tra mọi tổn thương trên thi thể và nhìn người đàn ông ấy bị mổ xẻ trên bàn phẫu thuật pháp y. Bảy năm trước, Archie đã thông báo cho vợ con của người đã khuất. Anh đã đến nhà họ, bấm chuông vào giữa đêm để báo tin chồng và cha của họ đã chết.
Trước đây, ở tầng chính của nhà kho là một bộ nội thất văn phòng đã qua sử dụng. Bàn kim loại, tủ hồ sơ, những tấm vách ngăn văn phòng làm bằng thép, hàng trăm chiếc ghế văn phòng màu xanh nhạt và màu mận được xếp thành hàng dài ba trăm feet.
Không có phòng trưng bày tạm thời. Các tầng trên trống rỗng, cửa sổ đều bị bịt lại.
“Ở đây có chuột nữa không?” Archie hỏi cô gái.
Susan cứng người.
Cô gái nhún vai. “Thỉnh thoảng vẫn trông thấy chúng”, cô ta đáp.
Một giọt nước rơi từ đường ống nào đó tạo thành âm thanh vang vọng khắp tầng hầm bê tông. Nhưng không khí dưới đó thật mát mẻ và dễ chịu. Trần nhà thấp, thậm chí trông còn thấp hơn thực tế và Archie khom lưng một chút theo phản xạ khi họ bước đi.
Khẩu súng được nhét vào dây lưng, dưới áo, ở phần eo. Anh thường đeo súng trong bao da đeo vai, nhưng nó đang nằm trong một cái hộp ở đơn vị lưu trữ. Bây giờ anh có thể cảm nhận khẩu súng ở sau lưng, giống như tay ai đó đẩy anh đi, chỉ dẫn cho anh đi sâu vào tầng hầm. Sẽ rất khó để vớ lấy nó một cách nhanh chóng, nhưng nó luôn ở đó nếu họ cần và ở nơi mà những kẻ nghiệp dư có thể không kiểm tra. Thường là thế hoặc dùng băng keo dán sau cổ, anh vẫn không thể hiểu chính xác cách người ta thực hiện điều đó trong những bộ phim về cảnh sát. Hơn nữa anh cũng chẳng có băng keo.
“Hai vị im lặng thật đấy”, cô gái nói.
“Chúng tôi đang tập trung vào việc bị dẫn đến cái chết của chính mình”, Susan nói.
Họ đã đến phòng lò hơi. Thật dễ để nhận ra. Có một biển hiệu lớn màu vàng có dòng chữ màu đen viết hoa PHÒNG LÒ HƠI. Cánh cửa bằng thép màu xám. Cô gái gõ lên nó hai lần, rồi một lần, cuối cùng là hai lần nữa.
“Nghiêm túc đấy hả?” Susan nói, đảo mắt nhìn Archie. “Một kiểu gõ bí mật sao?”
“Họ tới rồi đây”, cô gái gọi to. “Thanh tra Sheridan và một cô bạn nào đó.”
“Susan Ward”, Susan nói với theo.
Cánh cửa mở ra.
Susan quay sang Archie. “Tôi đang nghĩ không biết mỗi năm có bao nhiêu người chết trong tầng hầm”, cô nói.
Phòng lò hơi tối om. Archie và nhóm của anh đã sắp xếp đèn công suất cao khi họ ở dưới đó, chiếu sáng mọi mạng nhện và vết máu loang. Nếu không có những bóng đèn công suất cao xác định mọi ngóc ngách và vết nứt ấy, căn phòng dường như rộng hơn, không thể định hình, mọi góc đều cong. Ánh sáng từ hội trường hắt thành hình chữ nhật màu vàng cong queo trên sàn. Bụi bay lơ lửng trong không khí. Nước di chuyển trong đường ống trên cao.
Người mở cửa đã chìm vào bóng tối, lui vào sau chiếc lò hơi ngừng hoạt động. Người đó đã bước năm bước. Archie đếm, lắng nghe tiếng giày khẽ di chuyển lên sàn xi măng. Lò hơi có kích thước bằng chiếc xe đầu tiên của Archie. Anh có thể lờ mờ thấy bóng dáng của ba người bên cạnh nó.
Một chùm sáng từ đèn pin chiếu vào mặt anh. Anh quay đầu, nheo mắt lại rồi nhìn thẳng về phía trước, vào trong ánh sáng. Susan đang đứng bên cạnh, anh đưa tay ra và chạm vào cổ tay cô bằng đầu ngón tay để đảm bảo cô vẫn ở bên cạnh. Anh có thể cảm nhận được khẩu súng găm sâu vào lưng mình.
Anh đã nghĩ rằng Gretchen để lại những thi thể trong công viên và tại biệt thự nhằm thu hút sự chú ý của anh, nhưng chính những người này đã làm điều đó để được gặp ả. Họ muốn gây ấn tượng với ả. Họ muốn đến gần ả hơn hơn nữa. Họ muốn lợi dụng anh. Để đến với ả.
“Tôi tới rồi đây”, anh nói vọng vào trong chùm sáng. “Giờ thì sao?”
Ánh sáng chiếu xuống và một người đàn ông bước tới. Archie đang không nhìn thấy gì bởi bóng tối ập đến đột ngột, và phải mất một lúc anh mới có thể chớp mắt đẩy những điểm tối khỏi tầm nhìn của mình. Người đàn ông ở độ tuổi hai mươi hoặc ba mươi, với bộ râu mềm mại chưa được cắt tỉa và có một cái khuyên nong cỡ nắp chai ở tai. Anh ta trông giống một người đóng gói đồ tạp hóa tại một cửa hàng thực phẩm tự nhiên.
Anh ta mỉm cười với Archie, để lộ mấy chiếc răng như được mài nhọn. “Chúng tôi không dám chắc anh sẽ đến”, anh ta nói.
Những ngón tay của Susan bao quanh bàn tay của Archie.
“Đã khá lâu kể từ lần trước tôi đến đây”, Archie nói.
Có răng là tốt. Có răng tức là họ có thể tìm ra anh chàng này là ai. Cảnh sát yêu thích những người chỉnh sửa cơ thể. Hình xăm ư? Một nửa thế giới này đều có hình xăm. Chỉ cần ném một quả bóng len vào trường Đại học Oregon thì quả bóng ấy sẽ đập vào một cô gái trong hội nữ sinh với hình xăm con bướm trên mắt cá chân. Nhưng mài mấy chiếc răng trắng như ngọc của bạn thành răng nanh cá mập sẽ khiến bạn trở nên đặc biệt. Mọi người sẽ nhớ đến bạn.
Archie mỉm cười.
Khuôn mặt của Cá Mập nao núng. “Sao thế?” Anh ta nói.
“Cậu không phải là người chịu trách nhiệm, đúng không?” Archie hỏi.
Susan siết chặt tay anh. Anh liếc nhìn cô và cô hất đầu về phía chiếc lò hơi, nơi một trong những bóng hình kia vừa bước về phía trước.
“Những người còn lại trong hội người hâm mộ đâu rồi?” Archie nói.
“Chúng tôi giống một tập thể hơn”, Cá Mập nói.
Cô gái bật cười.
Archie nheo mắt nhìn về bóng hình vừa bước về phía trước: nam giới, cao, nhưng Archie không thể nhận diện rõ ràng hơn. “Jeremy?” Anh lên tiếng.
Hình bóng kia không di chuyển.
“Tôi không nghĩ đó là Jeremy”, Susan nói khẽ.
Archie không thích cách tiến triển của chuyện này. Anh quay sang cô gái. “Ở đây vẫn còn một vệt máu chứ?”
Cá Mập chiếu đèn pin xuống sàn gần bức tường đối diện. “Ở đây”, anh ta nói.
Archie giả vờ không nhìn thấy. “Bật đèn lên đi”, anh nói. “Không khí rất tuyệt. Ác mộng kinh hoàng trên đường Elm. Nhưng nếu cậu bật đèn lên, tôi có thể chỉ cho cậu thấy những gì đã xảy ra.”
Archie tập trung vào Cá Mập, anh quan sát khi ánh mắt anh ta lướt qua người đàn ông đứng bên cạnh lò hơi để tìm kiếm sự cho phép. Người đàn ông đó hẳn đã gật đầu, bởi vì Cá Mập nói, “Được thôi.”
Có người bật đèn lên. Không có gì trang hoàng. Chỉ là ba bóng đèn tròn. Không ai bận tâm đến việc lắp đèn huỳnh quang nhỏ gọn ở đây. Có lẽ họ đang chờ mấy cái bóng tròn này cháy trước đã.
Archie quay trở lại lò hơi. Người đàn ông vẫn đứng đó. Hắn mặc quần đen, áo phông màu xám và chụp một chiếc tất nylon trên đầu. Hắn tỏ vẻ thư thái. Tay hắn nhét trong túi quần. Đằng sau hắn là hai chàng trai ở độ tuổi đôi mươi, không đeo mặt nạ.
“Tôi kể đây”, Archie nói.
“Bắt đầu đi”, người đàn ông đeo mặt nạ nói.
Archie chuyển sự chú ý sang vết máu. Susan buông tay ra khỏi tay anh. “Đi về phía trước”, cô thì thầm và Archie bước cách cô một bước.
Đã bảy năm trôi qua nhưng nó vẫn ở đó, đậm nét như trong trí nhớ của anh: một đám máu, bằng chiều dài cơ thể con người trượt từ tường xuống. Ai đó đã quét sạch bụi bặm một cách cẩn thận.
Bảy năm. Nhưng thật khó để xóa vết máu ra khỏi bê tông. Bạn phải tốn công sức với nó. Mài mòn nó. Sử dụng lửa, bào mòn, cạy lên, san bằng, cọ rửa, phun hóa chất lên trên. Nhưng chẳng có lý do gì để lãng phí công sức vào một phòng lò hơi cũ. Ai thèm để mắt đến nó cơ chứ?
Anh ngập ngừng một giây. Susan không cần nghe những gì anh sắp nói. Anh nhìn sang chỗ cô.
“Đi về phía trước”, cô thì thầm lần nữa.
“Cô ta trói anh ta vào một cái ghế”, Archie nói. Anh nhìn xung quanh phòng. Anh không nhìn mọi người. Anh đang tìm cái ghế. Nó đã bị dời đi. Ít nhất đã có ai đó làm ăn đàng hoàng để thoát khỏi vụ này. “Đó là một chiếc ghế văn phòng được lấy từ một cửa hàng trên tầng. Nó có màu xanh nhạt.” Anh không biết tại sao nhưng chi tiết đó luôn thu hút anh, thậm chí đến tận sau này anh vẫn nhớ màu xanh da trời của tấm vải bọc ghế như được lấy từ phòng chờ của nha sĩ. “Cô ta có lẽ đã dùng hết cả cuộn băng keo.” Một trăm tám mươi feet. Một công nghệ kĩ thuật hình sự đã đo được như thế. Mất bốn mươi phút để bóc nó ra trước khi nạn nhân được chuyển đến nhà xác. Anh liếc nhìn Susan. Cô đang mang khuôn mặt của giới báo chí đầy khách quan. Làm tốt lắm, cô gái. Archie nghĩ. Và sau đó anh thầm trách bản thân vì đã hạ mình đến vậy.
Anh đưa tay chạm vào ngực, cảm nhận những vết sẹo dày dưới lớp áo sơ mi. “Cô ta đã xăm lên ngực anh ta. Cô ta luôn làm thế. Nhưng những vết cứa trên cơ thể này lại mang niềm đam mê khác thường.” Anh ném cho Cá Mập một nụ cười hiểm ác. “Lớp băng keo đã ngăn anh ta không bị chảy máu.” Cô gái đã tiến một bước gần hơn với Cá Mập và lại nghịch cái khuyên đeo trên lông mày. “Băng keo rất có tác dụng trong việc đó”, anh nói. “So với những thứ khác.” Cá Mập đang cười, nhưng đó là một nụ cười vô hồn như một loại mặt nạ khác.
Người đàn ông đeo mặt nạ vẫn hoàn toàn yên lặng.
Archie cần phải khiến câu chuyện trở nên tồi tệ hơn. Tệ hơn thật nhiều.
Archie tiếp tục, “ở vị trí dưới môi dưới của anh ta khoảng một inch, mở ra một vết cứa hai inch.” Anh đi về phía cô gái. Chính là cô ta. Nếu anh có thể nắm bắt bất kỳ ai trong số họ, thì người đó sẽ là cô ta. Anh nhấc tay và vuốt ngón tay cái dọc theo môi dưới của cô nàng. Cô ta vẫn bất động, nhưng không chùn bước trước anh. Cô ta vẫn giữ vững lập trường của mình. Archie ấn ngón tay cái vào cằm cô gái. Anh để hình ảnh đó ngấm sâu vào lòng họ. “Sau đó cô ta đâm cái kim xuyên qua lưỡi anh ta.” Anh đưa tay lên mặt cô gái và gõ vào một trong những chiếc khuyên xuyên qua lông mày của cô ta. “Là đầu kim tiêm dài 2 inch”, anh nói. “Tổng cộng có ba cái. Và rồi cô ta rút cái kim thứ ba ra.”
Cô gái quay đầu lại. Không nhiều nhưng đủ để rời khỏi tay Archie. Anh nhìn nó ở giữa không trung rồi nắm bàn tay lại và buông tay sang một bên. Cô ta chỉ là một đứa trẻ.
Anh quay sang Cá Mập và những người khác.
“Đường mạch lớn ở lưỡi của anh ta bị tổn thương và dường như chảy máu rất nhiều. Anh dừng lại. Khuôn mặt của Susan vẫn không thể xuyên thủng, nhưng cô đã khoanh tay trước ngực. Một giọt nước đen đặc nhỏ xuống từ cái khớp gỉ sét của ống cống phía trên đầu.
“Anh ta phải mất mười sáu giờ để chết. Anh ta đã mất năm lít máu. Nhưng cuối cùng, anh ta lại chết vì nghẹt thở. Cái lưỡi sưng lên làm anh ta ngạt thở.” Anh nhìn lại cô gái. Chú Archie đang thẳng tay dọa dẫm họ. “Có còn vui nữa không?” Anh hỏi.
Cô gái lùi lại một bước nhỏ. Cánh tay cô nàng nổi đầy da gà, nhưng có lẽ chỉ vì tầng hầm quá lạnh mà thôi.
“Bốn ngày sau, chúng tôi mới tìm thấy anh ta”, Archie kể tiếp. “Ngồi đây trong bóng tối, bị trói chặt vào ghế, cái lưỡi ứ máu sưng lên, đôi môi tím ngắt, miệng há hốc.”
“Còn đôi mắt anh ta thì sao?” Archie nghĩ rằng mình đã phát hiện ra một nụ cười đằng sau chiếc mặt nạ, nhưng vì đường nét trên mặt người đàn ông bị làm phẳng bởi chiếc tất nylon nên anh không dám chắc.
Những tình tiết về đôi mắt đã không được công khai.
“Lạy Chúa”, Susan khẽ nói.
“Đó là phần thưởng mà chúng ta dành cho những kẻ phạm tội”, người đàn ông đeo mặt nạ nói.
Một thanh niên phía sau nhếch mép cười.
Archie hạ giọng. Bây giờ là lúc phải tỏ ra nghiêm túc. “Chuyện này phải kết thúc ngay bây giờ”, anh nói. “Dù là gì cũng vậy. Về nhà với bố mẹ đi”, anh nói với cô gái. “Về kí túc xá bệnh nhân của cậu đi”, anh nói thêm với Cá Mập. “Tôi không quan tâm các cô cậu đi đâu. Nhưng Gretchen Lowell là một kẻ tâm thần. Cô ta không phải là anh hùng phản diện. Đây là đời thực.” Anh nói với tất cả bọn họ. “Người đàn ông ấy tên là Cẩn Giang. Họ làm chủ một cửa hàng tiện lợi ở trung tâm thành phố. Sau khi anh ta qua đời, cậu con trai mới mười mấy tuổi đã phải bỏ học cấp ba để cứu cửa hàng khỏi nợ nần. Anh ta là một con người bằng xương bằng thịt.”
Cô gái giật nhẹ phần rìa trắng của chiếc quần soóc jeans rách mình đang mặc. “Anh ta muốn thế mà”, cô gái nói.
“Câm miệng”, người đàn ông đeo mặt nạ cắt ngang.
“Fintan muốn chúng tôi làm điều đó”, cô gái nói. “Anh ta đã cầu xin chúng tôi. Chúng tôi không biết anh ta sẽ chết.”
“Câm miệng, Pearl”, người đàn ông đeo mặt nạ nhắc lại.
Cô gái đang dao động. Archie đã tiếp cận cô ta. Việc đó đã có tác dụng. “Jeremy ở đâu?” Archie hỏi cô gái.
“Jeremy là một phần của gia đình chúng ta”, Cá Mập nói.
“Ngoài anh ra, Jeremy là người duy nhất sống sót sau khi gặp Gretchen Lowell”, người đàn ông đeo mặt nạ nói và đi về phía Archie. “Jeremy là người đặc biệt.” Hắn vỗ vào giữa ngực Archie. “Giống anh.”
“Lúc đó Jeremy còn là một đứa trẻ vị thành niên”, Archie nói. “Cậu ấy không nhớ gì cả.”
“Có chứ”, người đàn ông đeo mặt nạ nói. Hắn ra hiệu cho Cá Mập. “Cho anh ta thấy đi.”
Cá Mập kéo áo lên và nhe hàm răng cá mập của mình thành nụ cười đáng sợ. Archie cảm thấy cơn rùng mình chạy dọc sống lưng. Gretchen không có mục đích cụ thể. Ả làm mọi thứ điên rồ mà ả thấy thích ngay lúc đó. Nhưng nó thường có vài điểm liên quan, như cứa vào cơ thể người chẳng hạn. Archie hiểu biết về những dấu vết hay vết rách trên ngực nạn nhân của ả như một người quản lý hiểu rõ một bộ sưu tập tranh vậy.
Anh nhớ vết thương của Isabel Reynold. Thậm chí độc đáo hơn, Gretchen đã xăm một hình tam giác trên khung sườn bên phải của cô gái, điều mà ả chưa từng làm với nạn nhân nào khác.
Ngực của Cá Mập cũng có dấu vết như thế.
“Jeremy đã làm điều đó cho tôi”, anh ta nói. “Trông nó thế nào?”
Cơn rùng mình biến thành lạnh buốt. Những bức ảnh nhà xác đã được niêm phong. Nếu Jeremy đã khắc dấu vết đó vào ngực Cá Mập, tức là cậu ta đã nhớ lại chuyện đó. Cậu ta biết chuyện gì đã xảy ra. Cậu ta là một nhân chứng. Với lời khai của Jeremy, họ có thể kết thúc vụ án. Archie hắng giọng. “Tôi cần nói chuyện với cậu ta”, anh nói.
Người đàn ông đeo mặt nạ di chuyển, cái mặt đeo tất nylon đến ngay trước mặt Archie. Anh có thể thấy được mái tóc nâu ngắn bên dưới chiếc tất. “Bắt đầu nhìn chúng tôi với ánh mắt nghiêm túc rồi sao?” Người đàn ông đeo mặt nạ hỏi.
Archie đã nghe nói về những vết sẹo hay vết khắc, nhưng chuyện này thì thế nào? Anh kéo áo sơ mi của Cá Mập xuống. “Cậu nghĩ việc này sẽ khiến cô ta thích thú? Rằng cô ta sẽ coi nó là một lời khen ngợi điên cuồng hay sao?”
“Tôi biết tại sao cô ta lại ở đây”, người đàn ông đeo mặt nạ nói, chĩa ngón tay cái về phía Susan. “Cô ta muốn viết một bài báo. Nhưng còn anh, tại sao anh ở đây?” Hắn quay về phía Susan nói. “Cô có thắc mắc điều đó không?”
“Tôi đang tự hỏi tại sao anh là người duy nhất đeo mặt nạ”, Susan nói.
Có một sự thay đổi nhỏ trong thái độ của người đàn ông đeo mặt nạ, giống như một võ sĩ hít vào trước khi ra đòn. Archie vẫn ở gần vết máu và còn cách quá xa. Anh bước tới gần Susan và cố gắng thu hút sự chú ý của người đàn ông đeo mặt nạ. “Tôi đến vì Jeremy”, Archie nói.
Nhưng mọi thứ đã được định sẵn.
Cá Mập bước ra phía sau Susan và vòng tay ôm lấy cô, ghim hai tay sang hai bên. Miệng cô hé mở vì ngạc nhiên hơn là sợ hãi, cô vật lộn tìm thứ gì đó trong túi nhưng Cá Mập đã rút chiếc túi ra khỏi tay cô và ném đi chỗ khác.
Archie có thể thấy điều đó xảy ra, thấy người đàn ông đeo mặt nạ đưa thứ gì đó sắc nhọn và ánh bạc lên mặt Susan - một đầu kim tiêm. Cá Mập siết chặt tay. Susan vùng vẫy nhưng người đàn ông đeo mặt nạ đã cầm cây kim chuẩn bị đâm vào làn da đỏ ửng mịn màng của cô, còn cô thì chỉ biết sững người.
Khuôn mặt mờ nhạt của người đàn ông đeo mặt nạ hướng về phía Archie. “Tôi nghĩ anh đến đây vì chuyện khác”, hắn nói.
Không ai di chuyển. Cây kim gần chạm vào mặt Susan, gần đến nỗi chỉ cần Susan di chuyển một chút là nó sẽ xuyên qua da. Đôi mắt Susan mở to.
“Những đường mạch chính của động mạch lưỡi đều đi qua lưỡi”, người đàn ông đeo mặt nạ tiếp tục. “Đây là đường mạch lớn mà anh vừa nói đến. Anh đã bao giờ ăn phô mai Manchego chưa? Cảm giác cắm một cây kim qua lưỡi ấy mà. Nó giống như cắt dao qua phô mai Manchego ấy.”
“Để tôi đoán nhé”, Susan nói. “Anh làm việc trong ngành dịch vụ ăn uống phải không?”
Cá Mập đặt một tay lên trán Susan và ngửa đầu cô ra sau, giữ chặt đầu cô vào vai anh ta.
Cô không biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng Archie đã ra tay. Và anh không thể dừng lại. “Rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi”, anh nói.
Người đàn ông đeo mặt nạ trượt một đầu kim qua má Susan. Nó đi vào một cách dễ dàng, giống như một cái đinh đính vào bảng tin. Làn da bị đẩy nhích sang bên kia một chút rồi đầu kim nằm ở sát dưới mắt cô. Nó xảy ra ngay lập tức. Susan hầu như không có thời gian để khóc. Thế là xong. Cây kim luồn nhẹ dưới má cô.
Khẩu súng liên tục ép vào lưng Archie. Anh có thể lấy được nó, nhưng khẩu súng nằm dưới áo và anh phải dò dẫm để tìm. Việc đó sẽ mất vài giây. Và chỉ với vài giây đó, chúng sẽ làm tổn thương cô nhiều hơn trong cơn hoảng loạn, nhưng nếu Archie không làm gì thì sao?
Đôi mắt của Susan điên dại trong sự tức giận và hoài nghi. Cô vùng vẫy để giơ tay lên, nhưng Cá Mập đã ôm cô quá chặt.
“Chết tiệt!” Susan hét lên. “Mày chọc vào mặt tao rồi đấy, đồ khốn!” Cô nhìn Archie, đôi mắt cầu xin anh làm gì đó. Cô biết anh có súng. Việc cô nghĩ tại sao anh không dùng đến nó cũng đã nảy lên trong đầu cô.
Người đàn ông đeo mặt nạ lên tiếng, “rất giống những quả nho đông lạnh.” Hắn đặt một cây kim khác xuống phía cằm của Susan. “Đây có phải là nơi mà Gretchen đã ra tay với thằng nhập cư đáng quý của anh không?”
Susan ngừng vùng vẫy và nhắm nghiền mắt. Một vệt máu nhỏ xíu chảy xuống cằm và cổ cô, luồn dưới cổ áo sơ mi trắng.
Archie dồn tất cả sự bình tĩnh trong cơ thể và tập trung vào Susan. “Susan”, anh nói. “Hãy nhìn tôi.”
Anh hơi e ngại rằng cô sẽ lờ mình đi. Anh đã đưa cô xuống đây, đi vào đây. Không có phương án dự phòng. Không có gì báo trước. Và một kẻ điên đeo mặt nạ vừa đâm kim vào má cô. Lúc này có lẽ sự tin tưởng chẳng còn bao nhiêu trong dòng tình cảm của cô.
Nhưng cô mở mắt ra.
Archie cố gắng thể hiện sự tự tin để truyền thêm dũng khí vào ánh mắt cô. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi”, anh nói với Susan.
Cô gật đầu. Đó là một cử chỉ rất nhỏ. Cũng có thể nó chỉ là điều Archie tưởng tượng ra mà thôi.
Với đôi mắt không rời khỏi Susan, anh hỏi người đàn ông đeo mặt nạ, “Mày muốn gì?”
Archie phải đưa Susan ra khỏi đây.
“Tôi muốn anh chấp nhận làm cho tôi một chuyện”, người đàn ông đeo mặt nạ nói.
“Tao sẽ không giúp mày thoát tội đâu”, Archie đáp.
“Tôi muốn anh khắc vào người tôi.”
Lời nói của hắn trôi bảng lảng trong không khí như những hạt bụi. Mọi người chờ đợi. Archie có thể nghe thấy tiếng Susan thở.
Cá Mập bắt đầu lục lọi trong túi, sau đó họ nghe thấy tiếng một cái hộp mở ra. Archie quyết không rời mắt khỏi Susan. Anh không thể nhìn ra chỗ khác. Anh làm điều đó ít nhất là vì Susan. Anh có thể giữ cô bình tĩnh lại.
Susan trông thấy thứ Cá Mập cầm trong tay một giây trước khi Archie nhìn thấy. Anh phát hiện được nỗi sợ hãi hiển hiện trong mắt cô. Nhưng Archie đã biết nó là gì. Vì vậy, khi Cá Mập đưa lưỡi dao lên cổ Susan, Archie không phản ứng gì cả.
Giải quyết thôi.
Hơi thở của Susan lúc này trở nên gấp gáp. Archie lo cô sẽ bị tăng thông khí. Anh muốn cô phải giữ được tỉnh táo.
Anh đưa tay về phía trước, nắm lấy tay phải của cô và siết chặt nó. Chạm vào mới thấy tay cô thật lạnh. Anh có thể cảm nhận mạch máu của cô đập dưới lòng bàn tay anh.
Nhưng cô nhìn anh và siết chặt tay anh lại.
Archie có một kế hoạch.
Anh đưa tay phải ra với lấy con dao. Cá Mập giữ nó trong lòng bàn tay. Nó lớn hơn con dao mổ mà Gretchen đã xăm sống vào ngực Archie, nhưng không đẹp bằng. Con dao này là loại dùng một lần, bằng nhựa và thép.
Archie nắm tay quanh cán dao bằng nhựa.
“Xăm vào đâu?” Anh hỏi gã đàn ông đeo mặt nạ.
Anh có thể ngửi thấy mùi chua trong hơi thở của gã đàn ông đeo mặt nạ; nghe thấy tiếng răng của Cá Mập kêu lập cập; cảm thấy nhịp mạch đập của Susan bật vào ngón tay anh.
Nếu có ai đó bước vào đây, người ấy sẽ nghĩ rằng bốn người họ đang có một cuộc thảo luận thân mật, gã đàn ông đeo mặt nạ ép bên cạnh Susan, Cá Mập ở đằng sau cô, Archie đối mặt với Susan, nắm chặt tay cô.
“Vén áo tôi lên”, gã đàn ông đeo mặt nạ nói.
Archie siết chặt tay Susan, sau đó thả ra.
Anh tiến lên một bước. Bây giờ anh đã tới gần Susan đến nỗi vai phải của anh chạm vào vai trái để trần của cô, ở ngay phía trên nơi cánh tay của Cá Mập siết lấy vai cô. Anh có thể cảm thấy sự phập phồng của ngực cô chạm vào áo anh. Archie kéo chiếc áo phông của gã đàn ông đeo mặt nạ từ đằng trước và nâng nó lên. Anh phải mất một phút chờ đợi rồi mới nhìn xuống. Anh biết mình sẽ thấy những gì.
Ngực của gã đàn ông đeo mặt nạ chằng chịt sẹo.
Mấy vết sẹo đã lành lặn hơn so với Cá Mập.
“Tôi đã tự làm điều đó”, gã đàn ông đeo mặt nạ nói. “Tôi muốn anh làm chúng ổn hơn. Tôi muốn chúng trông giống như mấy vết sẹo của anh.”
“Tao thấy mày đã đi wax”, Archie nói.
Susan bắt đầu mỉm cười, nhưng cô phải nhăn mặt khi cây kim vẫn trên má cô.
Gã đàn ông đeo mặt nạ hạ cằm xuống con dao mổ trong tay Archie. “Làm đi”, hắn nói. “Khắc cho tôi đi.”
Archie khẽ vẫy con dao. “Thả cô ấy ra”, anh nói.
Không ai di chuyển.
Archie điều chỉnh lại nắm tay cầm dao mổ. “Đây là nắm tay Palmar”, anh nói. “Còn được gọi là nắm tay ‘cầm dao ăn tối’.” Anh nhìn vào một thứ gì đó tưởng tượng trong không khí. “Mày có thể thấy lý do tại sao.” Anh nhìn vào con dao. Ngay cả trong ánh sáng yếu ớt, nó vẫn lấp lánh. Và dù chỉ trông thấy lưỡi dao thôi cũng khiến bụng anh thắt lại, nhưng anh sẽ không để chúng nhìn ra điều đó. “Đây là cách tốt nhất để rạch vết đầu tiên”, anh nói.
Anh điều chỉnh nắm tay của mình lần nữa. Anh viết vào không khí một thứ gì đó. “Nắm tay bút chì”, Archie nói. “Mày phải cẩn thận với cách này, đừng để cán dao nằm quá xa dọc ngón trỏ. Tránh để bàn tay bị chuột rút.”
“Gretchen thích kiểu Palmar”, anh nói. Hầu hết các chuyên gia y tế đều làm như vậy. Anh dựa sát vào gã đàn ông đeo mặt nạ. Gần đến nỗi anh có thể nhìn thấy màu mắt của mình qua lớp nylon - là màu xanh nước biển. “Thả cô ấy ra”, Archie nói. “Và tao sẽ làm những gì mày muốn.”
Gã đàn ông đeo mặt nạ búng cây kim ra khỏi mặt Susan.
“Khốn kiếp”, cô hét lên. Lần này, Cá Mập để cô đưa hai tay lên mặt và cô dùng cả hai bàn tay ôm lấy một bên má đang chảy máu.
“Ra khỏi đây”, gã đàn ông đeo mặt nạ nhẹ nhàng nói với cô.
Cô quay đầu lại trong cơn thịnh nộ. “Không”, cô đáp.
Archie hạ con dao mổ xuống và nghiêng người về phía Susan. Anh hôn lên bàn tay che má cô. “Tin tôi đi”, anh thì thầm.
Cô trừng mắt nhìn bọn họ một lúc rồi bước về phía chiếc túi của mình, nó vẫn nằm trên sàn cạnh chân tường.
“Không”, gã đàn ông đeo mặt nạ nói. “Để nó lại.”
Cô nhìn Archie đầy nghi vấn và anh gật đầu, rồi cô quay lưng bỏ chạy, tay vẫn còn ôm mặt.
Gã đàn ông đeo mặt nạ hất đầu về phía Archie. “Cho tôi xem đi”, hắn nói.
Archie mỉm cười. “Được thôi”, anh đáp.
Anh giơ tay trái lên và bắt đầu cởi nút áo. Cô gái kia xuất hiện bên vai người đàn ông đeo mặt nạ và hai người đàn ông khác từ bên cạnh lò hơi cũng tới cùng. Cá Mập liếm môi. Tất cả bọn chúng đều như muốn tận mắt nhìn thấy tác phẩm của Gretchen người thật việc thật.
Khi Archie cởi nút áo sơ mi và phanh áo ra, anh đưa tay kéo áo của gã đàn ông đeo mặt nạ lên. Anh so sánh mức thương tổn của cả hai.
“Không khác nhiều lắm”, anh nói.
Gã đàn ông đeo mặt nạ thậm chí không nhìn vào mặt Archie nữa. Toàn bộ sự chú tâm của hắn dồn vào ngực của Archie. Hắn run rẩy đưa tay ra và lướt những ngón tay qua mảng sẹo của Archie.
Khi hắn làm vậy, Archie di chuyển bàn tay phải lên thắt lưng, thả con dao mổ xuống và rút khẩu súng ra khỏi lưng quần.
Con dao mổ tạo ra một tiếng kim loại chát chúa khi rơi xuống sàn bê tông, gã đàn ông đeo mặt nạ, Cá Mập, cô gái và hai gã đàn ông khác đều nhìn xuống theo phản xạ. Khi họ nhìn lên, Archie đã gí khẩu súng vào xương ức của gã đàn ông đeo mặt nạ.
“Tôi bắt giữ anh vì tội tấn công bằng vũ khí nguy hiểm”, anh nói. “Ít nhất.” Anh ngập ngừng. “Cảm ơn các người. Tất cả các người đã làm tôi cảm thấy rất sảng khoái.”
Archie nhìn thấy tia sáng ngay trước khi luồng điện xuyên vào cơ thể anh. Làn sóng đau đớn thổi qua từng giác quan. Trước đây anh đã bị bắn súng điện trong quá trình đào tạo ở học viện. Điều đó chẳng giúp ích được gì. Đó không phải là thứ bạn sẽ quen được. Tất cả các cơ bắp của anh thắt chặt, anh ngã xuống sàn, không thể di chuyển. Những lời cáo buộc trở nên lắp bắp. Anh mất khẩu súng khỏi tay mình. Đó là cô gái. Cô ta đỡ anh từ phía sau, bên dưới lồng ngực của anh. Rồi cô ta lại gí một phát súng điện vào chính chỗ cũ. Anh cuộn tròn trên sàn nhà, mất trí vì xung điện, từng tế bào rung lên. Cô gái đó. Cô ta vẫn chỉ là một đứa trẻ. Giống như Jeremy.
Bao nhiêu tuổi? Vị thành niên ư?
Cô gái lại tiếp tục giật thêm lần nữa. Cơ thể anh bất giác giật mạnh, khiến một cơn bão bụi nhỏ bật lên khỏi sàn xi măng. Bóng đèn màu vàng trên trần nhà nhỏ hơn, tựa như nó đang ở xa hơn.
Người ta đã đặt tên cho súng điện là Taser theo một cuốn truyện phiêu lưu của những đứa trẻ mới lớn: Tom Swift và cây súng điện [10] . Họ đã thêm chữ “a” vào. Đó là mấy thứ chuyện vặt vô dụng mà Susan muốn biết.
Anh cảm thấy thật tệ vì chưa kịp nói cho cô biết.