CHƯƠNG 44
Susan uống một ngụm cà phê ấm đựng trong chiếc cốc Ziggy bị nứt và nhấp qua một bộ ảnh hồ sơ khác trên máy tính.
“Có thấy gì không?” Claire hỏi.
“Cô có bức ảnh nào chỉ chụp mỗi hàm răng thôi không?” Susan đáp.
“Tin tôi đi, nếu anh chàng đó có trong hệ thống thì hàm răng sẽ được coi là đặc điểm nhận dạng.”
Văn phòng của Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng ở trong một ngân hàng cũ do thành phố sắp xếp trong lúc Archie Sheridan nghỉ phép để săn lùng Kẻ bóp cổ sau giờ học. Lần cuối cùng Susan đến đó là vì Gretchen vừa trốn thoát khỏi nhà tù và bắt Archie đi cùng ả.
Lúc đó là 2 giờ sáng, nhưng bạn sẽ không thể nhận ra bởi cường độ làm việc tại đây. Tất cả thám tử trong đội đều có mặt ở đây, thậm chí ngay cả nhân viên tiếp tân ở quầy lễ tân cũng không thiếu. Các bản đồ quốc tế dán trên tường, với những chiếc đinh ghim đánh dấu mọi hiện trường, mọi tội ác có thể liên quan đến Gretchen.
Có thể trong mấy tháng qua, nhóm điều tra của tờ Người đưa tin đã trở nên chán nản và bế tắc; nhưng Đội đặc nhiệm truy bắt Mỹ nhân đoạt mạng thực sự vẫn rất nỗ lực.
Có ba bức ảnh được ghim lên đầu bản đồ. Cả ba đều là ảnh hồ sơ, một bức chụp một người phụ nữ trẻ, hai bức còn lại chụp hai người đàn ông trung niên.
“Họ là ai?” Susan hỏi.
“Nạn nhân của chúng tôi”, Claire đáp. Cả ba đều là người vô gia cư. Người đàn ông bên trái là Abe Farley.” Cô ấy đứng dậy và đi tới chỗ những bức ảnh. Abe Farley có bộ râu dài màu muối tiêu và khuôn mặt hốc hác. “Năm mươi sáu tuổi”, Claire nói tiếp. “Được nhìn thấy lần cuối vào tháng 12 năm 2004. Cái đầu lâu được tìm thấy ở Biệt thự Pittock là của ông ấy.” Cô chạm vào bức ảnh ở giữa. Người đàn ông này có mái tóc sáng màu dài ngang vai và khuôn mặt dài sang trọng. “Jackson Beathe”, cô nói. “Được nhìn thấy lần cuối vào tháng 3 năm 2005. Trông cũng đẹp trai nhỉ?” Claire bước một bước về phía bên phải. “Người phụ nữ ngồi với anh ta trên băng ghế trong Vườn Hồng có tên là Braids Williams.” Với vóc dáng mảnh khảnh và làn da ngăm, người phụ nữ trong ảnh đang mỉm cười. “Cô ấy biến mất vào năm 2006. Nguyên nhân cái chết vẫn đang chờ xác định, nhưng có vẻ như hai người ngồi trên băng ghế đã bị đâm chết.”
Susan nhìn ba khuôn mặt, những sinh mệnh bị thu nhỏ thành tấm ảnh chụp vội vàng. “Cô xác định nhân thân của họ bằng cách nào?”
“Họ đã mất tích”, Claire đáp. “Gia đình. Bạn bè. Nhân viên xã hội. Những báo cáo về người mất tích được lập thành hồ sơ. Chúng tôi có hồ sơ nha khoa.” Cô quay lại đối mặt với những bức ảnh và đưa tay lên vuốt ve nhẹ nhàng trên khuôn mặt của Braids Williams. “Một kẻ nào đó đã đâm họ, lấy đi đôi mắt, chôn họ vài năm sau đó ai đó đã đào họ lên.” Cô thả tay xuống và quay lại với Susan. “Đôi mắt của Braids Williams là của Fintan English. Còn mắt những người kia được tìm thấy trong nhà vệ sinh.”
Henry đứng ở ngưỡng cửa. Tay áo anh xắn lên và anh cầm một chồng giấy trong tay. “Gretchen không giết người vô gia cư”, anh nói. “Việc đó không đủ để gây ra sự sợ hãi”.
“Vậy chuyện này không phải do Gretchen gây ra”, Susan nói.
“Tôi chưa sẵn sàng để loại trừ bất cứ điều gì”, Henry nói.
“Bây giờ chúng tôi đang xem qua hồ sơ điện tử để xem gã bảo vệ tên Hay kia có ghé thăm bất kỳ trang web nào liên quan đến Gretchen hay không”, Claire nói. “Có thể hắn đã tham gia vào nhóm này.”
Khuôn mặt của Susan đau nhói. Các nhân viên y tế đã rửa cái lỗ trên má cô và băng nó lại, nhưng không ai cho cô uống thuốc giảm đau. Cô đưa tay lên và chạm nhẹ vào lớp gạc trắng.
“Hãy thử vào trang iheartgretchenlowell.com đi”, Susan nói. “Đây là trang web mà những kẻ lập dị trong nhà kho sử dụng.”
Claire thở ra. “Tốt”, cô nói. “Cảm ơn cô.” Cô quay sang Henry. “Em sẽ nói điều đó với Martin”, Claire nói rồi liếc nhìn Susan. “Cô hãy tự chăm sóc bản thân nhé”, cô nói và rời khỏi phòng.
Henry gạt hết những tờ giấy trên bàn trước mặt Susan qua một bên. “Đây là ảnh của những người trốn chạy được báo cáo vào năm ngoái”, anh nói.
Susan nhận ra cô gái kia ngay lập tức. Cô đặt tay lên một trong những bức ảnh. “Đây là cô ấy.”
“Cô có chắc không?” Henry hỏi.
Susan nhìn kỹ hơn vào bức ảnh. Cái tên được ghi trong ảnh là Margaux Clinton. “Họ gọi cô ấy là Pearl”, Susan nói.
Henry xoay bức ảnh lại và nhìn nó. “Có lẽ đó là biệt danh giang hồ”, anh nói. “Cô ấy đến từ Eugene. Tôi sẽ cho người ở dưới đó đi nói chuyện với bà mẹ. Và tôi sẽ phát thông báo tìm kiếm cô ấy.”
“Cô ấy bao nhiêu tuổi?” Susan hỏi.
Henry liếc xuống báo cáo. “Vị thành niên.”
Có tiếng gõ cửa và một cảnh sát mặc đồng phục bước vào, theo sau là Leo Reynold. Anh ta mặc một bộ đồ cắt may đẹp mắt, không có cà vạt, áo sơ mi trắng bảnh bao mở cổ và mái tóc đen của anh ta vẫn còn ướt sau khi tắm. Mới 4 giờ sáng và anh ta đã dành thời gian để cài khuy măng sét.
Môi trên của Henry mím chặt, anh nhìn từ Susan sang Leo rồi ngược lại. “Chuyện gì đây?” Henry nghiến từng chữ qua kẽ răng.
“Tôi đã gọi anh ta”, Susan nói. “Anh ta là luật sư của tôi.”
Henry nhướng mày nhìn Susan. Anh thậm chí còn giỏi việc ném ra những ánh mắt không tán thành hơn cả mẹ cô.
Susan thu mình xuống ghế một chút.
“Cậu em trai điên khùng của anh đâu rồi?” Henry hỏi Leo.
“Tôi không biết”, Leo đáp. “Tôi cũng muốn nó tránh xa khỏi chuyện này. Tin tôi đi, nếu tôi biết nó ở đâu thì tôi sẽ báo cho anh biết.”
Henry bước một bước về phía Leo. “Chúng tôi cần nói chuyện với Jeremy”, anh nói. “Cậu ta biết những người này là ai.” Anh chờ trong giây lát. “Tôi cũng cần nói chuyện với bố của anh.”
Giọng nói của Leo nhẹ nhàng và biết điều nhưng chắc chắn. “Hiện giờ bố tôi đang dùng mối quan hệ rộng rãi của mình để xác định xem Jeremy đang ở đâu”, anh ta nói. “Có lẽ sẽ tốt hơn nếu tạm hoãn buổi thẩm vấn lại.”
“Archie tin tưởng Jack”, Susan chen vào. Cô không chắc đó là sự thật. Nhưng lúc này cô cần Jack và Leo Reynold. Và Archie cũng cần đến họ.
Henry xoa mặt với hai bàn tay dày dặn. Khi anh thả tay xuống, da mặt đã đỏ lên. Anh áp hai lòng bàn tay lên bàn và nghiêng người sát vào Susan. “Archie cảm thấy tiếc cho Jack vì Gretchen giết con gái ông ta”, anh nói. “Archie làm việc với cảm giác tội lỗi.” Đôi mắt xanh của anh tỏ vẻ hà khắc và nổi lên những tơ máu màu đỏ. “Nếu cô không hiểu điều đó thì cô chẳng hiểu cái gì cả.”
“Chúng tôi sẽ tìm họ”, Leo nói. “Tất cả bọn họ.”
Anh ta nói điều đó với sự tự tin thản nhiên đến mức Susan gần như đặt niềm tin vào anh ta.
Leo thò tay vào túi áo vest, rút một mảnh giấy được xếp ngay ngắn và đưa nó cho Henry. “Đây là một khách sạn ở trung tâm thành phố”, Leo nói. “Jeremy đã ở đó cho tới ba ngày trước. Tôi đã thanh toán hóa đơn đến hết tối nay, vì vậy nếu anh muốn tìm kiếm xung quanh phòng của nó thì anh có thể làm đến trưa ngày mai, trước khi họ dọn dẹp hết đồ đạc cá nhân của nó.”
Henry nhận lấy mảnh giấy và nhìn nó. Anh chớp mắt vài lần. “Được rồi”, anh nói.
Susan nhìn lên ba khuôn mặt trên tường. “Anh thực sự không nghĩ Archie sẽ đi cùng những người này sao?” Cô hỏi.
“Cô không biết những gì anh ấy đã trải qua”, Henry nói.
Cô không biết. Nhưng Jeremy Reynold thì có.
“Anh có thể lãng phí thời gian vào việc xin lệnh khám, hoặc để tôi với tư cách là người đã thanh toán hóa đơn cho bạn vào phòng khách sạn của Jeremy.”
“Sao tự nhiên tốt bụng thế?” Henry nói.
Leo mỉm cười. “Cùng hội cùng thuyền thôi mà”, anh ta đáp.