← Quay lại trang sách

Chương 4 Ánh sáng trong bóng tối-

Người ta dù bình tĩnh đến đâu – và Herlock Sholmès dù thuộc số những người không bị hoặc hầu như không bị vận rủi tác động gì – thì nói chung ngay một chiến binh can đảm nhất cũng có lúc cảm thấy cần thiết phải sắp xếp lại lực lượng của mình trước khi để xảy ra nguy cơ dẫn đến đánh nhau.

“Hôm nay tôi sẽ nghỉ ngơi.” Sholmès tuyên bố.

“Còn tôi, tôi sẽ làm gì?” Wilson hỏi.

“Anh, Wilson, để tôi xem nào! Anh có thể đi mua một ít đồ lót và đồ ngủ bổ sung cho tủ quần áo của chúng ta, trong lúc đó tôi sẽ tranh thủ nghỉ ngơi.”

“Được rồi, Sholmès, tôi sẽ canh chừng trong lúc anh ngủ.”

Wilson nói những lời này với tất cả vẻ quan trọng của một lính gác ngoài tiền tuyến, và do đó ở vào vị trí nguy hiểm nhất. Lồng ngực ông ta phồng lên, cơ bắp căng ra. Làm bộ sắc sảo, ông ta trịnh trọng xem xét kĩ lưỡng căn phòng nhỏ họ đang lưu lại.

“Rất tốt, Wilson, anh có thể canh chừng. Tôi sẽ tập trung chuẩn bị thế trận tấn công cho phù hợp hơn với phương pháp của kẻ địch. Wilson, anh có thấy chúng ta đã bị cái tay Lupin này gạt gẫm không? Theo tôi, chúng ta phải sẵn sàng ngay từ giai đoạn đầu thực hiện nhiệm vụ.”

“Thậm chí sẵn sàng từ trước đó, nếu có thể. Nhưng chúng ta có đủ thời gian không?”

“Chín ngày, bạn thân mến. Quá nhiều ấy chứ.”

Viên thám tử người Anh dành cả buổi chiều chỉ để ngủ và hút thuốc lá. Ông ta chưa triển khai kế hoạch tấn công mới cho tới tận ngày hôm sau. Rồi ông ta nói: “Wilson, tôi đã sẵn sàng. Chúng ta hãy tấn công kẻ địch.”

“Hãy tấn công mạnh vào!” Wilson kêu lên vẻ vô cùng hùng dũng. “Tôi muốn lên trên tuyến đầu. Ôi! Không khiếp sợ gì. Đem vinh quang về cho đức vua và tổ quốc. Bởi tôi là một người Anh.”

Trước tiên, Sholmès thực hiện ba cuộc thẩm vấn quan trọng, kéo dài, đối với ông Detinan (các căn phòng nhà ông này được Sholmès khám xét một cách thận trọng và tỉ mỉ nhất), cô Suzanne Gerbois (cuộc thẩm vấn nhằm khai thác các tình tiết liên quan tới Tiểu thư Tóc vàng), và xơ Auguste (đã trở về tu viện Visitandine kể từ khi Nam tước d’Hautrec chết).

Mỗi lần diễn ra một cuộc thẩm vấn, Wilson đều ở bên ngoài, và mỗi lần kết thúc, ông ta đều hỏi: “Anh có hài lòng không?”

“Hoàn toàn hài lòng.”

“Tôi đã chắc chắn chúng ta sẽ đi đúng hướng mà.”

Họ đến kiểm tra hai ngôi nhà nằm liền kề ngôi nhà của Nam tước d’Hautrec quá cố ở đại lộ Henri-Martin. Rồi họ đến đường Clapeyron, và, trong khi xem xét phía trước ngôi nhà số 25, Sholmès nói: “Tất cả những ngôi nhà này ắt đều thông với các lối bí mật, nhưng tôi chẳng tài nào phát hiện ra.”

Lần đầu tiên trong đời, Wilson nghi ngờ sức mạnh bất khả chiến bại của người cộng sự nổi tiếng. Tại sao ông ta nói lắm thế mà làm được ít thế?

“Tại sao ư?” Sholmès kêu lên, trả lời cho ý nghĩ thầm kín của Wilson. “Vì, với cái tay Lupin này, người ta phải làm việc trong bóng tối, và thay vì suy ra sự thật từ những sự việc được xác nhận, người ta phải rút ra sự thật từ đầu mình, rồi sau đó tìm hiểu xem nó có được những sự việc thực tế xác nhận không.”

“Còn các lối bí mật thì sao?”

“Chúng ắt phải tồn tại. Nhưng mặc dù tôi phải phát hiện ra chúng, và từ đó biết được Arsène Lupin đã lọt vào nhà ông luật sư như thế nào, biết được Tiểu thư Tóc vàng đã thoát khỏi nhà Nam tước d’Hautrec sau khi giết chết ông ta như thế nào, những điều ấy có tác dụng gì chứ? Chúng giúp đỡ được tôi ra sao? Chúng sẽ đem đến cho tôi vũ khí tấn công chăng?”

“Dẫu sao, chúng ta hãy cứ tấn công hắn.” Wilson vừa thốt khỏi miệng mấy lời này thì giật nẩy mạnh lùi lại phía sau, cùng với tiếng kêu đầy hốt hoảng. Một vật rơi xuống chân họ, là một bao cát mà nếu rơi trúng người họ sẽ có thể gây chấn thương nặng nề.

Sholmès ngẩng nhìn. Mấy người đàn ông đang làm việc trên giàn giáo bắc ở ban công tầng sáu của ngôi nhà. Ông ta nói: “Chúng ta may mắn đấy, bước thêm một bước nữa, và cái bao nặng trịch kia rơi vào đầu chúng ta. Tôi tự hỏi không biết…”

Bị một nguyên nhân nào đó thúc đẩy đột ngột, Sholmès lao vào bên trong ngôi nhà, vội vã leo năm đợt cầu thang, xô cửa lao vào bên trong căn hộ trước sự cực kỳ ngạc nhiên và hoảng hốt của người đầy tớ mở cửa, chạy ra ban công phía trước ngôi nhà. Nhưng chẳng còn ai ở ngoài ấy nữa.

“Mấy người công nhân lúc này đang làm việc ở đây đâu?” Sholmès hỏi người đầy tớ.

“Họ vừa đi ạ.”

“Họ đi theo lối nào?”

“Theo lối cầu thang dành cho người hầu ạ.”

Sholmès vươn người ra qua cửa sổ. Ông ta trông thấy hai người đàn ông đang dắt xe đạp rời khỏi ngôi nhà. Họ nhảy lên xe, nhanh chóng biến mất nơi góc phố.

“Họ làm việc ở đây bao lâu rồi?”

“Mấy người kia ấy ạ?… Mới sáng hôm nay. Hôm nay là ngày đầu tiên.”

Sholmès quay xuống chỗ Wilson đang đứng dưới phố. Họ cùng nhau trở về khách sạn, và, như thế, ngày thứ hai kết thúc trong sự im lặng buồn bã.

Ngày tiếp theo, chương trình của họ hầu như tương tự. Họ ngồi trên chiếc ghế dài ở vỉa hè đại lộ Henri-Martin. Wilson ghét cay ghét đắng việc này, ông ta chẳng thấy vui vẻ gì khi cứ ngồi hàng tiếng đồng hồ dài dằng dặc quan sát ngôi nhà nơi tấn thảm kịch đã xảy ra.

“Sholmès, anh chờ đợi điều gì? Chờ đợi Arsène Lupin sẽ bước ra khỏi ngôi nhà à?”

“Không.”

“Hay Tiểu thư Tóc vàng sẽ xuất hiện?”

“Không.”

“Thế là điều gì?”

“Tôi chờ đợi một sự việc nào đó xảy ra, một sự việc vặt vãnh nào đó sẽ cung cấp cho tôi manh mối để tiếp tục.”

“Và nếu không có gì xảy ra?”

“Thế thì tự tôi sẽ phải tạo ra tia lửa đốt thùng thuốc súng.”

Một sự việc duy nhất và là một sự việc đáng khó chịu đã phá vỡ tình trạng đơn điệu của buổi sáng.

Một quý ông đang cưỡi ngựa đi dọc đại lộ thì con ngựa bất thình lình ngoắt sang bên, va vào chiếc ghế dài Sholmès và Wilson ngồi, thúc vai Sholmès một phát nhè nhẹ.

“Ha!” Sholmès kêu lên. “Một chút nữa là gãy vai ta.”

Quý ông kia đánh vật với con ngựa. Viên thám tử người Anh rút khẩu súng lục, chĩa vào nó. Nhưng Wilson giữ cánh tay ông ta, nói: “Đừng dại dột thế! Anh đang định làm gì? Giết người đàn ông kia à?”

“Mặc kệ tôi, Wilson! Bỏ ra!”

Trong lúc diễn ra cuộc chiến đấu chớp nhoáng giữa Sholmès và Wilson, người lạ mặt kia đi mất.

“Bây giờ thì anh có thể bắn.” Wilson nói một cách đắc thắng, khi người đàn ông cưỡi ngựa đã ở xa xa.

“Wilson, anh là đồ ngốc! Anh không hiểu kẻ kia là tòng phạm của Arsène Lupin à?”

Sholmès run lên vì tức tối. Wilson lắp bắp một cách thảm hại: “Cái gì?… Kẻ kia… là tòng phạm?”

“Phải, một giuộc với mấy gã công nhân hôm qua định ném bao cát xuống chúng ta ấy.”

“Không thể nào!”

“Có thể là như thế, có thể không. Và chỉ có duy nhất một cách để chứng minh.”

“Là giết người đàn ông?”

“Không, là giết con ngựa. Nếu anh đừng túm tay tôi, tôi đã bắt được một kẻ tòng phạm của Arsène Lupin rồi. Bây giờ thì anh đã hiểu anh hành động dại dột ra sao chưa?”

Cả hai rầu rĩ suốt buổi chiều. Chẳng ai nói với ai câu nào. Năm giờ, họ đến đường Clapeyron, nhưng thận trọng giữ khoảng cách an toàn đối với ngôi nhà. Tuy nhiên, ba gã trai trẻ vừa đi vừa khoác tay nhau hát váng, ngáng vào Sholmès và Wilson mà không cho hai người thoát ra. Sholmès, đang sẵn tâm trạng bực bội, lời qua tiếng lại với mấy gã trai trẻ đòi được thoát ra. Sau vài câu cãi cọ, Sholmès nhanh chóng chuyển sang nắm đấm. Ông ta táng mạnh vào ngực một gã và vào mặt một gã khác, khuất phục luôn hai đối thủ. Do đó gã thứ ba co giò chạy mất.

“A!” Sholmès kêu lên. “Đối với mình như thế tốt đấy. Mình cần tập thể dục một chút.”

Nhưng Wilson đang đứng dựa vào tường. Sholmès hỏi: “Có vấn đề gì vậy, ông tướng?”

Wilson chỉ vào cánh tay trái đang treo lủng lẳng, lắp bắp: “Tôi không biết có vấn đề gì. Tay tôi bị đau.”

“Đau lắm à?… Có nghiêm trọng không?”

“Có, tôi e là vậy.”

Wilson cố gắng nâng cánh tay lên, nhưng không được. Sholmès sờ nắn, ban đầu một cách nhẹ nhàng, sau đó thì thô bạo hơn, “để xem đau tới mức nào,” như lời ông ta nói. Ông ta kết luận rằng Wilson thực sự bị đau, nên ông ta đưa bạn mình đến một hiệu thuốc gần đấy xem xét kĩ lưỡng hơn, mới biết cánh tay đã gãy và Wilson cần đi bệnh viện. Trước khi đi bệnh viện, họ rút cánh tay ông ta ra khỏi tay áo, bôi thuốc cho đỡ đau.

“Nào, nào, ông tướng, phấn chấn lên!” Sholmès giữ cánh tay Wilson, nói. “Năm hoặc sáu tuần nữa anh sẽ bình phục. Nhưng tôi sẽ trả thù… đám khốn kiếp ấy! Nhất là Lupin, vì việc này do hắn bố trí… chắc chắn thế. Tôi thề với anh rằng nếu như…”

Sholmès bất thình lình buông cánh tay xuống khiến Wilson đau suýt ngất, và ông ta vừa gõ trán vừa nói: “Wilson, tôi có một ý tưởng. Anh biết đấy, tôi thi thoảng vẫn có một ý tưởng.”

Sholmès đứng im một lát, mắt nhìn trừng trừng, rồi lẩm bẩm từng câu ngắn và gay gắt: “Đúng, đúng là như thế… như thế sẽ giải thích tất cả… ở ngay dưới chân mình… mà mình không nhận ra… Ôi, trời ơi! Đáng lẽ mình phải nghĩ đến điều này rồi… Wilson, tôi sẽ có tin tức tốt cho anh.”

Đột ngột rời bỏ bạn già, Sholmès lao ra phố, tới thẳng ngôi nhà số 25. Ông ta đọc được dòng chữ khắc trên một trong những phiến đá ở bên phải của cửa: Destange, kiến trúc sư, 1875.

Có dòng chữ tương tự ở ngôi nhà số 23.

Tất nhiên, không có gì khác thường trong dòng chữ đó. Nhưng những ngôi nhà trên đại lộ Henri-Martin có thể có những dòng chữ như thế nào?

Một cỗ xe ngựa chạy qua. Sholmès thuê chở mình đến ngôi nhà số 134 đại lộ Henri-Martin. Ông ta đang phấn khích cao độ. Ông ta đứng lên trong khoang xe, giục ngựa tăng tốc. Ông ta đưa thêm tiền boa cho người đánh xe. Nhanh nữa! Nhanh nữa!

Ông ta mới sốt ruột làm sao khi họ rẽ từ đường Pompe vào! Phải chăng cuối cùng ông ta đã lờ mờ có ý niệm về sự thật?

Trên một trong những phiến đá ở ngôi nhà của Nam tước d’Hautrec quá cố, Sholmès đọc được dòng chữ: Destange, kiến trúc sư, 1874. Và dòng chữ tương tự cũng có ở hai ngôi nhà hai bên.

Phản ứng trong Sholmès mạnh mẽ tới mức ông ta ngồi vào xe ngựa, run rẩy vì mừng rỡ. Cuối cùng thì một tia sáng nhỏ nhoi cũng đã xuyên qua bóng tối dày đặc đang vây quanh những vụ án bí ẩn này! Trong khu rừng rộng lớn ảm đạm với hàng ngàn lối mòn đan nhau, ông ta đã khám phá ra manh mối đầu tiên để lần theo dấu vết kẻ thù!

Sholmès vào một chi nhánh bưu điện, yêu cầu nối máy gọi đến lâu đài Crozon. Bà Bá tước nhấc ống nghe trả lời.

“Xin chào!… Thưa bà, bà đấy phải không ạ?”

“Ông Sholmès, phải không ạ? Mọi việc tốt chứ?”

“Rất tốt, nhưng tôi muốn hỏi bà một câu… Thưa bà?”

“Vâng, tôi đang nghe ông.”

“Bà hãy cho tôi biết, lâu đài Crozon được xây bao giờ?”

“Nó bị sụp đổ do hỏa hoạn và được xây lại cách đây ba mươi năm.”

“Ai xây, và xây năm nào?”

“Dòng chữ ở phía trước ngôi nhà ghi: Lucien Destange, kiến trúc sư, 1877.”

“Thưa bà, cảm ơn bà, có vậy thôi. Xin tạm biệt bà.”

Sholmès rời khỏi bưu điện, lẩm bẩm: “Destange… Lucien Destange… cái tên nghe quen quen.”

Ông ta để ý thấy một phòng đọc công cộng, bước vào, tra danh bạ lý lịch hiện đại, và chép lại thông tin sau đây.

Lucien Destange, sinh năm 1840, Giải thưởng Rome, huân chương Bắc Đẩu bội tinh, tác giả của một số cuốn sách có giá trị về kiến trúc…

Rồi Sholmès quay lại hiệu thuốc, biết Wilson đã được đưa đến bệnh viện. Ở bệnh viện, ông ta tìm thấy Wilson với cánh tay nẹp chặt, sốt run bần bật.

“Thắng lợi rồi! Thắng lợi rồi!” Sholmès kêu lên. “Tôi đã giữ được một đầu sợi chỉ.”

“Sợi chỉ nào?”

“Sợi chỉ dẫn đến chiến thắng. Tôi bây giờ sẽ bước đi trên cơ sở vững chắc, với các dấu chân, các manh mối…”

“Cả tàn thuốc lá nữa chứ?” Wilson hỏi, sự tò mò át nỗi đau đớn.

“Và nhiều thứ khác! Wilson, hãy tưởng tượng xem, tôi đã khám phá ra cái mắt xích bí ẩn liên kết các chuyến phiêu lưu mạo hiểm trong đó có Tiểu thư Tóc vàng can dự vào. Tại sao Lupin lựa chọn ba ngôi nhà ấy làm sân khấu cho những vở kịch táo bạo của hắn?”

“Phải, tại sao?”

“Tại vì ba ngôi nhà ấy đều được xây dựng bởi cùng một kiến trúc sư. Bài toán đơn giản, hả? Đương nhiên… nhưng ai đã nghĩ tới điều này chứ?”

“Không có ai ngoài anh.”

“Và có ai, ngoài tôi, biết rằng cùng cái vị kiến trúc sư đó, vì sử dụng những sơ đồ thiết kế tương tự nhau, đã cho phép một kẻ thực hiện ba vụ việc riêng biệt, tuy xem ra có vẻ phi thường nhưng thực tế lại hết sức dễ dàng, đơn giản?”

“Đó quả là sự may mắn.”

“Và là vấn đề thời gian nữa, bạn thân mến, vì tôi đã hết sức sốt ruột. Anh biết đấy, hôm nay là ngày thứ tư của chúng ta rồi.”

“Ngày thứ tư trong số mười ngày.”

“Ồ! Sau đây…” Sholmès phấn khích, thích thú, vui tươi hơn bình thường. “Và khi tôi tưởng tượng rằng đám bất lương kia có thể đã tấn công tôi ngoài phố, đánh gãy tay tôi y như đánh gãy tay anh! Chẳng phải thế sao, Wilson?”

Wilson chỉ rùng mình trước cái ý nghĩ khủng khiếp ấy. Sholmès tiếp tục: “Chúng ta phải rút kinh nghiệm từ bài học này. Wilson, tôi có thể thấy chúng ta đã sai lầm khi cố gắng chiến đấu với Lupin một cách đường đường chính chính, phơi mình cho hắn tấn công.”

“Tôi có thể thấy điều đó, và cả cảm thấy điều đó nữa, cánh tay bị gãy của tôi.” Wilson nói.

“Anh có một sự an ủi, Wilson. Đó là tôi đã bảo trọng được. Bây giờ, tôi phải cẩn thận gấp đôi. Hắn sẽ đánh bại tôi trong trận chiến công khai, nhưng nếu tôi có thể hành động trong bóng tối, không để hắn trông thấy mình, thì thuận lợi lại thuộc về tôi, cho dù hắn sử dụng lực lượng mạnh đến đâu chăng nữa.”

“Ganimard có lẽ sẽ hỗ trợ được.”

“Không đời nào! Vào cái ngày tôi có thể thực sự nói Arsène Lupin đó, tôi cho ông thấy con mồi, và cách bắt nó thì tôi sẽ đi gặp Ganimard tại một trong hai địa chỉ ông ta đã nói với tôi là nhà riêng ở đường Pergolèse hoặc quán rượu Suisse ở quảng trường Châtelet. Nhưng, từ nay tới lúc ấy, tôi sẽ hành động một mình.”

Sholmès đến bên giường, đặt bàn tay lên vai Wilson, tất nhiên là phía đang đau, bảo: “Hãy giữ gìn nhé, bạn già. Từ giờ phút này, nhiệm vụ của anh sẽ là kìm chân hai hay ba chiến hữu của Arsène Lupin rình rập đợi tôi quay lại hỏi thăm sức khỏe anh. Đó sẽ là nhiệm vụ bí mật của anh, đúng chứ?”

“Phải, và tôi sẽ cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Vậy anh sẽ không đến đây nữa?”

“Đến làm gì?” Sholmès hỏi.

“Tôi không biết… đương nhiên… tôi sẽ xoay xở một cách tốt nhất có thể. Nhưng, Herlock, hãy giúp đỡ tôi việc cuối cùng này: Lấy hộ tôi cốc nước.”

“Nước à?”

“Phải, tôi sắp sửa chết khát, tôi sốt…”

“Tất nhiên, tôi làm ngay đây.”

Sholmès giả vờ đi lấy nước, trông thấy một gói thuốc lá, lấy ra châm tẩu, rồi, như thể không nghe thấy lời nhờ của bạn mình, lẳng lặng đi, mặc kệ Wilson cứ thầm cầu xin mãi mà chẳng thấy nước đâu cả.

“Ông Destange!”

Người đầy tớ nhìn từ đầu tới chân cái kẻ mà anh ta vừa mở cửa cho, cánh cửa của ngôi nhà nguy nga tráng lệ nằm góc quảng trường Malesherbes và đường Montchanin. Đứng trước người đàn ông tóc lốm đốm bạc, râu ria lởm chởm, mặc chiếc áo khoác màu đen tồi tàn, cả dáng dấp lẫn bộ mặt đều xấu xí và bất lịch sự, anh ta đáp với vẻ khinh khi mà anh ta cho là phù hợp hoàn cảnh: “Ông Destange có thể ở nhà, có thể không ở nhà. Cũng còn tùy. Ông có danh thiếp không?”

Ông ta không có danh thiếp, nhưng ông ta có thư giới thiệu, và, sau khi người đầy tớ đã đem thư vào cho ông Destange, người đàn ông này được đưa vào diện kiến.

Ông Desange đang ngồi trong căn phòng rộng hình tròn, chiếm một cánh của tòa nhà. Nó là một thư viện, với vô số sách và bản vẽ kiến trúc. Khi người lạ mặt bước vào, vị kiến trúc sư hỏi ông ta: “Ông là ông Stickmann?”

“Vâng, thưa ông.”

“Thư ký của tôi nói với tôi rằng ông ta bị ốm, và ông ta tiến cử ông đến tiếp tục làm danh mục tổng hợp các sách, công việc mà ông ta đã bắt đầu làm theo sự hướng dẫn của tôi, nhất là danh mục các sách tiếng Đức. Ông có quen công việc này không?”

“Có, thưa ông, rất quen ạ.” Ông ta đáp bằng giọng Đức đặc sệt.

Trong tình huống ấy, các thỏa thuận nhanh chóng diễn ra, và ông Destange bắt đầu làm việc với người thư ký mới.

Herlock Sholmès đã tiếp cận được ngôi nhà.

Để thoát khỏi sự đề phòng của Arsène Lupin và thâm nhập được ngôi nhà mà Lucien Destange cùng con gái là Clotilde đang sống, viên thám tử lừng danh bắt buộc phải sử dụng đến hàng loạt mưu kế, và, dưới hàng loạt cái tên khác nhau, nhanh chóng giành được sự ưu ái, tin tưởng của rất nhiều người, sống một cuộc sống hết sức phức tạp trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Trong khoảng thời gian đó, ông ta thu thập được các thông tin sau: Ông Destange, đã rút lui khỏi công việc bận rộn do sức khỏe sa sút, hiện tại vui vầy với những cuốn sách về kiến trúc mà ông ta tích lũy được. Ông ta tìm thấy niềm thích thú trong việc xem xét, xử lý những cuốn sách cũ kĩ, bụi bặm.

Cô con gái Clotilde của ông ta bị cho là lập dị. Cô ta sống ở một khu vực khác trong tòa nhà, không bao giờ đi ra ngoài.

“Đương nhiên, tất cả còn mơ hồ và chưa đầy đủ.” Sholmès thầm nghĩ, trong lúc viết vào sổ tựa đề của các cuốn sách mà ông Destange đọc cho. “Nhưng nó là một bước tiến khá dài. Mình chắc chắn sẽ trả lời được một trong những câu hỏi hấp dẫn sau: Ông Destange có hợp tác với Arsène Lupin không? Ông ta có tiếp tục gặp gỡ hắn không? Các tài liệu liên quan đến việc xây dựng ba ngôi nhà kia có còn không? Liệu các tài liệu ấy có cho mình biết địa điểm của những ngôi nhà khác với thiết kế tương tự mà Arsène Lupin và đồng bọn dự định tiến hành cướp bóc trong tương lai không?”

Ông Destange, tòng phạm của Arsène Lupin! Một người đáng kính, chủ nhân huân chương Bắc Đẩu bội tinh, liên minh với quân đào tường khoét ngạch, ý tưởng mới ngớ ngẩn làm sao! Hơn nữa, nếu chúng ta thừa nhận một tội đồng lõa như vậy, bằng cách nào mà ông Destange, ba mươi năm trước, đã biết về sau sẽ có các vụ trộm của Arsène Lupin, kẻ lúc bấy giờ đang còn là đứa bé ẵm ngửa?

Chẳng thành vấn đề! Không gì có thể lung lay ý chí của viên thám tử Anh quốc. Với tài đánh hơi phi thường, và cái tài bẩm sinh này chưa bao giờ khiến ông ta thất vọng, ông ta có cảm giác rằng mình đã đến gần một bí ẩn lạ lùng nào đó. Kể từ lúc bước chân vào ngôi nhà, ông ta cứ bị cái cảm giác ấy tác động, tuy ông ta chưa xác định được cơ sở cho nỗi ngờ vực.

Đến buổi sáng ngày thứ hai, Sholmès vẫn không có phát hiện gì quan trọng cả. Hai giờ, ông ta trông thấy Clotilde Destange lần đầu tiên. Cô ta vào thư viện tìm kiếm một cuốn sách. Cô ta chừng ba mươi tuổi, tóc nâu, cử chỉ chậm chạp, lặng lẽ, gương mặt thấm đẫm vẻ ơ hờ, đặc điểm của những người sống cuộc đời ẩn dật. Cô ta nói mấy câu với cha, rồi rút lui, chẳng đánh mắt nhìn Sholmès lần nào.

Buổi chiều trôi qua lê thê, tẻ nhạt. Năm giờ, ông Destange thông báo sẽ ra ngoài. Sholmès một mình ở trên cái bao lơn chạy tròn xung quanh thư viện, cao hơn sàn thư viện chừng ba mét. Nó gần như tối mịt mùng. Ông ta chuẩn bị đi xuống thì nghe thấy một âm thanh khẽ khàng, đồng thời có cảm giác ai đó đang trong phòng. Vài phút trôi qua, ông ta không trông thấy hay nghe thấy gì nữa. Rồi ông ta run bắn người lên, một cái bóng lờ mờ hiện ra giữa bóng tối trên bao lơn, khá gần ông ta. Có vẻ kỳ quái quá. Vị khách bí ẩn này đã hiện diện bao lâu rồi? Anh ta từ đâu tới?

Người đàn ông lạ mặt đi xuống theo các bậc cầu thang, đến thẳng chỗ chiếc tủ lớn đóng bằng gỗ sồi. Sholmès say sưa quan sát các hành động của người đàn ông. Ông ta quan sát người đàn ông lục soát giấy tờ chất đầy tủ. Anh ta đang tìm kiếm cái gì?

Rồi cửa mở và tiểu thư Destange bước vào, nói với ai đó đang đi phía sau cô ta: “Vậy cha đã quyết định không ra ngoài nữa, hả cha?… Vậy con sẽ bật đèn… ngay đây ạ… cha đừng di chuyển nhé…”

Người đàn ông lạ mặt đóng tủ, trốn vào một ô cửa sổ lớn, khép hai cánh rèm lại. Tiểu thư Destange không trông thấy, không nghe thấy anh ta sao? Cô ta điềm tĩnh bật các bóng đèn điện. Hai cha con ngồi xuống gần nhau. Cô ta mở một cuốn sách mà cô ta mang theo, bắt đầu đọc. Mấy phút sau, cô ta bảo: “Ông thư ký của cha đã đi rồi?”

“Phải, cha không trông thấy ông ta.”

“Cha có ưa ông ta như lúc đầu không?” Tiểu thư Destange hỏi, y như cô ta không biết việc người thư ký đích thực bị ốm và Stickmann đang thế chỗ người này.

“Ồ! Có.” Đầu ông Destange lắc la lắc lư. Ông ta đã ngủ. Cô con gái tiếp tục đọc. Lát sau, một trong hai cánh rèm được kéo ra, người đàn ông lạ mặt men theo bức tường đi ra phía cửa, bắt buộc anh ta phải đi qua sau lưng ông Destange nhưng trước mặt Clotilde và phải lọt vào vùng ánh sáng, nên Herlock Sholmès có thể quan sát mặt anh ta hết sức rõ ràng. Đó là Arsène Lupin.

Viên thám tử Anh quốc rất vui mừng. Dự đoán của ông ta đã được kiểm chứng. Ông ta đã nhìn thấu suốt sự bí ẩn và phát hiện ra Lupin là nhân vật chính đứng đằng sau.

Clotilde chưa có biểu hiện gì là trông thấy Lupin, tuy mọi động tác của Lupin hoàn toàn không thể nào lại lọt qua mắt cô ta được. Lupin gần như đã đến bên cửa và, thực tế, bàn tay anh ta đang vươn về phía nắm đấm cửa thì áo khoác của anh ta quệt vào chiếc bàn nhỏ, làm cái gì đó rơi xuống sàn. Ông Destange giật mình thức giấc. Arsène Lupin đã đứng trước mặt ông ta ngay rồi, mũ cầm trong tay, miệng mỉm cười.

“Maxime Bermond.” Ông Destange hân hoan thốt lên. “Maxime yêu quý của tôi. Sự tình cờ may mắn nào đưa cậu tới đây?”

“Mong muốn được gặp ông và tiểu thư Destange ạ.”

“Cậu trở về khi nào?”

“Hôm qua.”

“Cậu phải ở lại dùng bữa tối đấy.”

“Không, cảm ơn ông, tôi xin lỗi, nhưng tôi đã có hẹn ăn tối với mấy người bạn tại một nhà hàng.”

“Nào, thế thì ngày mai. Clotilde, con phải thuyết phục được cậu ấy đến vào ngày mai. Ô! Maxime yêu quý của tôi… Trong thời gian cậu đi vắng, tôi nhiều lần đã nhớ tới cậu.”

“Thật ư?”

“Phải, tôi đã xem xét tất cả các giấy tờ cũ trong cái tủ kia, và tìm thấy bản sao kê tài khoản gần đây nhất giữa chúng ta.”

“Tài khoản nào?”

“Tài khoản liên quan tới đại lộ Henri-Martin ấy.”

“Ồ! Ông giữ những giấy tờ như vậy à? Để làm gì chứ?”

Rồi ba người rời khỏi phòng và tiếp tục cuộc chuyện trò ở một phòng khách nhỏ bên cạnh thư viện.

“Đó có phải Lupin không?” Sholmès tự hỏi, nỗi ngờ vực đột ngột xâm chiếm ông ta. Tất nhiên, nhìn toàn bộ bề ngoài, đó là anh ta, mà đó cũng lại là một người khác giống anh ta ở các nét nào đó, đồng thời vẫn giữ các nét riêng của bản thân, gương mặt, màu tóc. Sholmès có thể nghe thấy tiếng Lupin ở căn phòng bên cạnh. Anh ta đang thuật lại những câu chuyện khiến ông Destange ha hả cười, thậm chí còn đem đến nụ cười trên đôi môi của Clotilde sầu muộn.

Mỗi nụ cười ấy xem ra là một phần thưởng mà Lupin đang tìm kiếm, và anh ta hài lòng vì đã đạt được. Thành công khiến anh ta nỗ lực gấp đôi, và, một cách vô tình, cái giọng nói vui vẻ và trong sáng ấy khiến gương mặt Clotilde rạng rỡ, chẳng còn nét lạnh lùng, thờ ơ vốn vẫn ngự trị.

“Bọn họ yêu nhau.” Sholmès nghĩ. “Nhưng, quỷ tha ma bắt, liệu có cái gì chung giữa Clotilde Destange và Maxime Bermond nhỉ? Cô ta có biết Maxime chẳng phải là ai khác mà chính là Arsène Lupin không?”

Cho đến bây giờ, Sholmès lắng nghe một cách háo hức, cố gắng nắm được những thông tin hữu ích qua cuộc chuyện trò. Rồi, vô cùng cảnh giác, ông ta xuống khỏi bao lơn, rón rén ra cửa bằng cách cứ men theo tường của căn phòng và không để những người ở căn phòng bên cạnh trông thấy.

Ra tới ngoài đường, Sholmès hài lòng vì không trông thấy chiếc xe hơi hay xe ngựa nào đang đợi. Rồi ông ta chậm chạp tập tễnh đi dọc đại lộ Malesherbes. Ông ta rẽ vào một phố kế bên, mặc chiếc áo khoác lúc trước vắt cánh tay, sửa sang vành mũ, bắt một cỗ xe ngựa mui cao, và, thay hình đổi dạng như thế rồi, ông ta quay lại một địa điểm để từ đó có thể theo dõi cánh cửa của ngôi nhà ông Destange.

Mấy phút sau, Arsène Lupin bước ra, tiếp tục đi bộ về phía trung tâm Paris, theo các đường Constantinople và London. Herlock Sholmès bám đuôi, giữ khoảng cách tầm trăm bước.

Những khoảnh khắc thật ly kỳ đối với viên thám tử người Anh! Ông ta háo hức ngửi ngửi không khí, tựa như con chó săn đi theo một mùi còn mới. Có vẻ ông ta thấy việc bám đuổi kẻ thù là hết sức thú vị. Kẻ bị theo dõi chẳng phải là Herlock Sholmès nữa, mà là Arsène Lupin, tay Arsène Lupin vô hình. Ông ta đang nắm giữ Lupin, có thể nói như vậy, trong tầm mắt, bởi một sợi xích không thể cảm nhận được nhưng cũng không thể rứt đứt được. Và ông ta sung sướng nghĩ con mồi đã thuộc về ông ta.

Tuy nhiên, Sholmès nhanh chóng để ý thấy một tình huống đáng ngờ. Ở khoảng cách giữa ông ta và Arsène Lupin, xuất hiện mấy người đi cùng chiều, đặc biệt có hai gã trai to khỏe đội mũ bẻ vành đi ở lề đường bên trái, và hai gã khác đội mũ lưỡi trai đi ở lề đường bên phải. Tất nhiên, sự xuất hiện của bọn họ ở khu vực này có thể hoàn toàn tình cờ, nhưng Sholmès sửng sốt hơn khi Lupin bước vào một cửa hiệu thuốc lá thì bốn gã dừng lại, và ông ta còn sửng sốt hơn nữa khi Lupin bước ra khỏi cửa hiệu thì bốn gã cũng tiếp tục đi, mỗi gã đi đúng lề đường của mình.

“Mẹ kiếp!” Sholmès lẩm bẩm. “Hắn đang bị bám đuôi.”

Ông ta bực bội với ý nghĩ có những kẻ khác đang lần theo dấu vết Arsène Lupin, có những kẻ khác có lẽ sẽ tước đoạt của ông ta, không phải niềm vinh quang mà ông ta chẳng mấy thiết tha, mà là niềm thích thú vô hạn khi một mình tóm cổ được đối thủ ghê gớm nhất ông ta từng gặp. Ông ta cảm thấy rằng ông ta không nhầm. Dưới con mắt dày dạn kinh nghiệm của Sholmès, bộ dạng và cung cách của mấy gã kia, trong lúc điều chỉnh bước đi theo nhau, là bộ dạng và cung cách của những kẻ muốn làm ra vẻ tự nhiên, lơ đễnh.

“Phải chăng đây là người của Ganimard?” Sholmès lẩm bẩm. “Ông ta đang chơi chiêu trò với mình à?”

Ông ta cảm thấy rất muốn trao đổi với một trong số mấy gã kia, hy vọng có thể phối hợp hành động. Nhưng vì họ đang đến gần đại lộ, người qua kẻ lại trở nên đông đúc hơn, ông ta sợ Lupin sẽ thoát khỏi tầm mắt. Do đó ông ta tăng tốc rẽ vào đại lộ, vừa kịp trông thấy Lupin bước lên các bậc thềm của nhà hàng Hungary ở góc đường Helder. Cửa nhà hàng mở, cho phép Sholmès – ngồi trên chiếc ghế dài bên kia đại lộ – trông thấy Lupin ngồi xuống chiếc bàn được bày biện trang hoàng lộng lẫy với rất nhiều hoa. Ba người đàn ông và hai người phụ nữ trông thanh lịch đã ngồi sẵn sàng ở đó, nồng nhiệt chào đón Lupin.

Sholmès lúc bấy giờ mới ngó nghiêng tìm kiếm bốn gã trai trẻ, và nhận ra bọn họ giữa một đám đông đang nghe một ban nhạc Digan chơi ở quán cà phê bên cạnh. Kỳ lạ là bọn họ chẳng chú ý gì tới Arsène Lupin, nhưng có vẻ thân mật với mọi người xung quanh. Một trong bốn gã rút điếu thuốc lá ra khỏi túi áo, đến gần một quý ông mặc áo choàng dài, đầu đội mũ lụa. Ông ta đưa điếu xì gà của mình cho gã trai để gã châm điếu thuốc lá, và Sholmès có ấn tượng rằng họ trao đổi với nhau lâu hơn mức cần thiết. Cuối cùng, ông kia cũng tiến tới nhà hàng Hungary, bước vào và nhìn quanh quất. Khi ông ta trông thấy Lupin, ông ta đến gần, nói chuyện một lát, rồi ngồi xuống chiếc bàn bên cạnh. Sholmès lúc bấy giờ mới nhận ra người này là người cưỡi ngựa đã cố húc vào ông ta trên đại lộ Henri-Martin.

Sholmès từ từ hiểu ra những người này không theo dõi Arsène Lupin, bọn họ là đồng đảng của anh ta. Bọn họ đang canh chừng cho sự an toàn của anh ta. Bọn họ là vệ sĩ, là tùy tùng, là những người hộ tống đầy thận trọng của anh ta. Bất cứ khi nào xuất hiện một mối nguy hiểm đe dọa anh ta, những kẻ đồng đảng này sẽ ở ngay bên cạnh ngăn chặn, sẵn sàng bảo vệ. Bốn gã trai trẻ là tòng phạm. Quý ông mặc áo choàng cũng là tòng phạm. Thực tế ấy khiến viên thám tử Anh quốc ngẫm nghĩ. Liệu ông ta có bao giờ bắt nổi cái kẻ bất khả xâm phạm kia không? Một tổ chức được điều khiển bởi một tên trộm sở hữu thứ sức mạnh mới vô biên làm sao!

Sholmès xé một trang từ cuốn sổ, viết vài dòng bằng bút chì, bỏ vào phong bì, và bảo cậu con trai chừng mười lăm tuổi đang ngồi bên cạnh ông ta trên chiếc ghế dài: “Này, cậu chàng, hãy bắt một cỗ xe ngựa, chuyển bức thư này tới người thủ quỹ ở quán rượu Suisse, quảng trường Châtelet. Mau!”

Ông ta đưa cho cậu con trai một tờ năm franc. Cậu ta đi luôn.

Nửa tiếng đồng hồ trôi qua. Đám đông mỗi lúc một lớn hơn, và Sholmès chỉ thỉnh thoảng mới lại trông thấy những kẻ đồng đảng của Arsène Lupin. Rồi một người đi sượt qua, thì thào vào tai ông ta: “Ồ! Có chuyện gì, ông Sholmès?”

“A! Ông đấy hả, Ganimard?”

“Vâng, tôi nhận được thư ông ở quán rượu. Có chuyện gì?”

“Hắn kia kìa.”

“Ý ông là gì?

“Kia kìa… trong nhà hàng. Nghiêng sang bên phải… Ông trông thấy hắn chưa?”

“Chưa.”

“Hắn đang rót ly sâm panh cho người phụ nữ đó.”

“Không phải Lupin.”

“Đúng, đúng hắn mà.”

“Nhưng tôi cam đoan với ông… À! Nhưng, có thể. Trông giống hắn lắm.” Ganimard chất phác nói. “Và những kẻ kia là tòng phạm?”

“Không, người phụ nữ ngồi bên cạnh hắn là phu nhân Cliveden. Người kia là nữ Bá tước de Cleath. Quý ông ngồi đối diện Lupin là Đại sứ Tây Ban Nha ở London.”

Ganimard tiến lên một bước. Sholmès giữ ông ta lại. “Hãy thận trọng. Ông chỉ có một mình.”

“Hắn cũng thế.”

“Không, hắn có nhiều tay chân gác ngoài đại lộ. Và bên trong nhà hàng, người đàn ông kia…”

“Còn tôi, khi tôi bắt hắn và xướng tên Arsène Lupin, tôi sẽ được tất cả các khách hàng cùng với bồi bàn ủng hộ.”

“Tôi vẫn muốn có vài cảnh sát.”

“Nhưng, ông Sholmès, chúng ta không có sự lựa chọn nào. Chúng ta phải bắt hắn khi có thể.”

Sholmès biết Ganimard nói đúng. Nên tận dụng cơ hội và cố gắng ra tay thôi. Sholmès chỉ khuyên Ganimard điều này: “Hãy giấu danh tính của ông đến chừng nào còn giấu được.”

Sholmès di chuyển áp sát mặt hậu của một quầy bán báo, ở vị trí đó ông ta vẫn có thể theo dõi Lupin đang nghiêng về phía phu nhân Cliveden, mỉm cười trò chuyện.

Ganimard sang đường, hai tay đút túi quần, như thể ông ta định đi xuôi theo đại lộ, nhưng khi bước sang vỉa hè bên kia rồi, ông ta quay phắt lại, nhảy lên các bậc thềm nhà hàng. Một tiếng còi rít lanh lảnh. Ganimard xô vào gã chỉ huy bồi bàn, gã này đã bất thình lình đứng chình ình ở cửa và lúc bấy giờ đẩy bật Ganimard ra với vẻ cực kỳ phẫn nộ, như thể ông ta là kẻ không mời mà đến, khiến nhà hàng phát xấu hổ. Ganimard ngạc nhiên. Cũng đúng lúc ấy, quý ông mặc áo choàng dài đi ra. Ông ta bênh vực viên thám tử và tranh cãi kịch liệt với gã chỉ huy bồi bàn. Cả hai túm lấy Ganimard, một bên đẩy ông ta vào, một bên đẩy ông ta ra, theo cái cách mà, bất chấp tất cả các nỗ lực và sự phản kháng điên cuồng của ông ta, bỗng chốc viên thám tử khốn khổ đã thấy mình ngoài vỉa hè.

Ba kẻ đang đánh lộn bị đám đông vây xung quanh. Hai cảnh sát, nghe tiếng ồn ào, cố gắng lách vào qua đám đông, nhưng gặp phải thái độ kháng cự khó hiểu, chẳng làm gì được trước những tấm lưng và những bờ vai ken đặc lại chống đối.

Nhưng bất chợt, như thể bởi phép màu, đám đông tản mát hết, lối vào nhà hàng trở nên quang quẻ. Gã chỉ huy bồi bàn, nhận ra rằng mình đã sai, rối rít xin lỗi. Quý ông mặc áo choàng dài thôi không cố gắng vì viên thám tử nữa. Đám đông giải tán. Hai người cảnh sát bỏ đi. Ganimard vội vã lao tới chiếc bàn mà sáu vị khách đang ngồi. Tuy nhiên lúc bấy giờ chỉ còn có năm! Ông ta nhìn xung quanh… Cửa nhà hàng là lối ra duy nhất.

“Kẻ lúc nãy ngồi ở đây!” Ganimard hét lên với năm vị khách đang sửng sốt. “Hắn đâu?”

“Ông Destro?”

“Không, Arsène Lupin!”

Một người bồi bàn đi đến, nói: “Ông đó đã lên trên gác.”

Ganimard lao lên trên gác, hy vọng tìm thấy Lupin. Trên gác nhà hàng là các phòng ăn riêng và có cầu thang riêng dẫn xuống đại lộ.

“Bây giờ thì chẳng mong hòng gì tìm kiếm hắn nữa.” Ganimard lẩm bẩm. “Lúc này hắn đã cao chạy xa bay rồi.”

Anh ta cũng chưa đi được xa, nhiều nhất chỉ chừng hai trăm mét, trên một cỗ xe ngựa hai tầng tuyến Madeleine-Bastille. Với ba con ngựa kéo, cỗ xe lăn bánh rất êm ả qua quảng trường Opéra, về phía đại lộ Capucines. Hai anh chàng lực lưỡng đứng chuyện trò ở bậc lên xuống. Tầng trên, gần cầu thang, một ông già đang ngủ gà ngủ gật. Đó là Herlock Sholmès.

Đầu lắc lư theo nhịp xe, viên thám tử người Anh tự nhủ: “Nếu Wilson gặp được mình bây giờ, anh ta sẽ lấy làm hãnh diện vì cộng sự của anh ta biết nhường nào!… Ôi chao! Có thể dễ dàng thấy trước là cuộc đấu thất bại rồi, ngay sau khi ông ta tuýt còi. Chẳng còn làm được gì ngoài việc canh chừng các lối ra và nhìn viên thám tử của chúng ta không thể thoát. Lupin thực sự đã khiến cuộc sống trở nên thú vị và đầy hồi hộp.”

Đến bến cuối cùng, Herlock Sholmès vươn người nhòm xuống, thấy Arsène Lupin rời khỏi cỗ xe ngựa, và Sholmès nghe anh ta nói khi đi ngang qua hai anh chàng vệ sĩ: “À l’Étoile.”

_“À l’Étoile,_ chính xác rồi, một cuộc hẹn. Mình sẽ có mặt tại đó.” Sholmès nghĩ. “Mình sẽ bám theo hai gã kia.”

Lupin lên một chiếc xe hơi, còn hai anh chàng kia đi bộ suốt quãng đường, có Sholmès bám theo sau. Họ dừng lại trước một ngôi nhà hẹp, số 40 đường Chalgrin, rung chuông. Sholmès ẩn mình trong bóng tối một khung cửa, từ đó ông ta có thể quan sát ngôi nhà nghi vấn. Một người đàn ông mở các cánh ngoài của một ô cửa sổ tầng trệt, đóng các cánh chớp. Nhưng các cánh chớp không cao lên tới mép bên trên cùng của cửa sổ. Vì vậy, khoảng bên trên cùng của cửa sổ hở.

Mười phút sau, một người đàn ông cũng rung chuông ngôi nhà đó. Mấy phút sau, thêm một người đàn ông nữa. Chẳng bao lâu sau, một chiếc xe hơi đỗ phía trước ngôi nhà, đem đến hai người khách: Arsène Lupin và một cô gái giấu mình bên dưới tà áo choàng rộng cùng với tấm mạng dày.

“Tiểu thư Tóc vàng, chắc chắn thế rồi.” Sholmès tự nhủ khi chiếc xe hơi chạy đi.

Herlock Sholmès lúc bấy giờ tiến đến ngôi nhà, trèo lên bệ cửa sổ, đứng kiễng chân, ông ta có thể nhìn vào qua khoảng hở phía bên trên các cánh chớp. Ông ta trông thấy gì?

Arsène Lupin, dựa người vào thành lò sưởi, đang nói hết sức hăng hái. Những người khác tập trung xung quanh anh ta, chăm chú lắng nghe. Trong số bọn họ, Sholmès dễ dàng nhận ra người đàn ông mặc áo choàng và ông ta cho rằng một trong số những người còn lại trông giống gã chỉ huy bồi bàn ở nhà hàng. Tiểu thư Tóc vàng ngồi trong chiếc ghế bành, quay lưng lại cửa sổ.

“Bọn chúng đang bàn bạc.” Sholmès nghĩ. “Bọn chúng lo lắng trước sự việc xảy ra ở nhà hàng và đang tổ chức hội đồng quốc phòng. A! Sẽ thật tài tình làm sao nếu một phát hốt được cả lũ.”

Một người đi ra phía cửa. Sholmès nhảy xuống đất, ẩn mình vào bóng tối. Người đàn ông mặc áo choàng và gã chỉ huy bồi bàn rời khỏi ngôi nhà. Lát sau, ánh sáng xuất hiện ở cửa sổ tầng hai, nhưng các cánh chớp ngay lập tức đóng lại, tầng trên của ngôi nhà tối om y như tầng dưới.

“Lupin và người phụ nữ ở tầng trệt, hai kẻ đồng đảng tầng trên.” Sholmès tự nhủ.

Sholmès cắm chốt ở đó tới tận gần sáng, sợ trong lúc ông ta rời đi Arsène Lupin cũng có thể rời đi mất. Bốn giờ, trông thấy hai viên cảnh sát đằng cuối phố, ông ta tiến đến, trình bày hoàn cảnh, và để bọn họ canh chừng. Ông ta qua nhà riêng Ganimard trên đường Pergolèse, đánh thức Ganimard dậy.

“Tôi đang cầm chân hắn.” Sholmès nói.

“Arsène Lupin ư?”

“Phải.”

“Nếu ông không cầm chân hắn được chắc chắn hơn lúc trước thì tôi có lẽ sẽ trở vào giường. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể đến đồn cảnh sát.”

Họ đến đồn cảnh sát trên đường Mesnil, rồi từ đó đến nhà riêng viên sĩ quan phụ trách, một ông tên là Decointre. Được nửa tá cảnh sát tháp tùng, họ kéo tới đường Chalgrin.

“Có tình hình gì mới không?” Sholmès hỏi.

“Không có gì.”

Ánh ngày vừa rạng, sau khi đã áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn việc tẩu thoát, viên sĩ quan phụ trách đồn cảnh sát rung chuông và bắt đầu thẩm vấn người giữ cửa. Người đàn bà hết sức sợ hãi trước cuộc đột kích lúc sáng sớm, run rẩy đáp rằng không có ai ở tầng trệt cả.

“Cái gì? Không có ai sao?” Ganimard kêu lên.

“Vâng ạ, nhưng trên tầng hai có hai ông cùng họ Leroux. Họ đã sắm sửa đồ đạc cho căn hộ ở tầng trệt, chuẩn bị đón bà con thân thuộc gì đó.”

“Một người đàn ông và một phụ nữ.”

“Vâng ạ.”

“Bọn họ tới đây đêm hôm qua.”

“Có lẽ… Tôi không biết ạ… Lúc ấy tôi đi ngủ rồi. Nhưng tôi không cho là như thế, vì chìa khóa vẫn đây. Họ chưa bảo tôi đưa chìa.”

Với chiếc chìa khóa đó, viên sĩ quan phụ trách đồn cảnh sát mở cửa căn hộ tầng trệt. Nó chỉ có hai phòng, các phòng không có ai.

“Không thể nào!” Sholmès kêu lên. “Tôi trông thấy cả hai đứa bọn chúng trong phòng này.”

“Chúng ta hãy lên tầng hai. Bọn chúng hẳn phải ở trên ấy.”

“Tầng hai có hai ông cùng họ Leroux.”

“Chúng ta sẽ kiểm tra hai ông Leroux này.”

Tất cả đi lên theo cầu thang. Viên sĩ quan phụ trách đồn cảnh sát bấm chuông. Sau hồi chuông thứ hai, một người đàn ông ra mở cửa. Anh ta mới mặc có áo sơ mi, Sholmès nhận ra đó là một trong số các vệ sĩ của Lupin. Anh ta tỏ vẻ giận dữ.

“Các ông có ý gì khi làm ầm ĩ vào lúc sáng sớm như thế này… đánh thức người ta dậy…”

Nhưng anh ta đột ngột im bặt, sững sờ.

“Chúa tha tội cho tôi!… Thực sự là, thưa các ông, tôi không nhận ra. Sao ạ, đây là ông Decointre! Và ông, ông Ganimard. Tôi có thể giúp đỡ các ông việc gì?”

Ganimard cười phá lên không kìm được, cười gập cả người, cười đến tím mặt lại.

“A! Là anh, Leroux.” Ông ta lắp bắp. “Ôi! Thế này thì buồn cười quá! Leroux, tòng phạm của Arsène Lupin! Ôi, tôi chết mất. Còn em trai cậu, Leroux, cậu chàng ấy đâu?”

“Edmond!” Người đàn ông gọi. “Là Ganimard ghé thăm chúng ta.”

Một người đàn ông khác xuất hiện, và trông thấy anh ta, cơn cười của Ganimard tăng lên gấp đôi.

“Ôi! Ôi! Chúng tôi không biết nói gì về việc này! À! Các bạn của tôi ơi, các bạn đang ở vào một tình thế khó khăn. Ai mà ngờ được?”

Quay sang Sholmès, Ganimard giới thiệu: “Victor Leroux, một thám tử ở sở chúng tôi, một trong những thành viên cừ khôi nhất của cái biệt đội thép ấy… Edmond Leroux, thư ký trưởng bộ phận nhân trắc học.”