CHƯƠNG VIII TRONG MẤY NĂM
CĂN nhà ấy rộng bảy thước, mặt trước quay ra phố lớn nhất tỉnh, mặt sau có cổng sắt cho ô-tô đi lọt. Nhà làm bằng xi-măng, kiểu tân thời, rất kiên cố. Đó là dinh cơ của Thanh, mới làm xong tháng trước. Bây giờ Thanh đã trở nên nhà tư bản. Cứ trông những sập gụ, tủ chè, gương đứng, các ngà voi, tượng ngọc thạch, thì ta đủ biết bây giờ Thanh an nhàn sung sướng là ngần nào. Thật vậy, từ khi Thanh trốn Hà-nội mà về tỉnh này, thì Thanh quyết chí làm giầu, để lấy chồng. Tuy bây giờ mục đích chưa đạt xong, đó chỉ vì Thanh chưa chọn được mặt để gởi vàng mà thôi.
Ông Huyện góa vợ, thì Thanh chê là già ; ông Tham chưa thành gia thất, thì Thanh chê là không chín chắn. Ông Nghị sẵn tiền sẵn của, thì Thanh chê là dốt; ông chủ báo rắn rỏi, vui vẻ, thì Thanh ngờ rằng láu quá ; ông tư-bản có đồn điền, thì Thanh sợ «khách trọng lợi khinh đường ly cách», rồi để « quanh thuyền trăng giải nước trôi lạnh lùng»
Người ta kêu Thanh kén kỹ quá, người ta mỉa Thanh sẽ chết già, nhưng Thanh chỉ mỉm cười, mỉm cười khinh bỉ, mà trả lời:
– Thà chết già mà trong bụng được sung sướng còn hơn đem chôn sống đời mình trước khi hết số mệnh của Trời
Người ta đem hai chữ ích kỷ để khuyến khích Thanh không nên cô độc, người ta bảo Thanh chớ nên đầy đọa tấm thân trong đời quạnh hiu, thì Thanh bĩu môi, đáp:
– Đó là những lời nói của người không hiểu tôi.
Mà Thanh nói đúng lắm. Thanh có chịu quạnh hiu, chịu cô độc bao giờ đâu. Hằng ngày nhà Thanh rầm-rập những khách.
Khách của Thanh là những hạng người không phú thì quý, vì Thanh không tiếp những người thường bao giờ. Người ta vẫn thấy những chiếc ô-tô thật đẹp đỗ ở trước nhà, mà chủ xe, nếu là người mặc quần áo An-nam thì khám túi sao cũng có chiếc thẻ bài ngà, quấn gọn sợi dây đỏ; nếu là người mặc quần áo Tây, thì cái ví để trong áo ngực cũng phải dầy dặn, mà dầy dặn những tiền. Không ai đến nhà Thanh, lại chỉ mang có trái tim xoàng bằng thịt. Vì cái ấy, đối với Thanh nó không còn nghĩa lý gì nữa. Đã có lần Thanh nói đùa với một nhà văn kiết:
– Cám ơn anh, trái tim của em, đã bị em đem đi hiến người ta nhiều lần, bây giờ nó thành chai ra rồi, chỉ có vàng bạc mới vạch cho nó thành vết được.
Thanh nhận thấy trong bọn những người tri kỷ, rất ít người thật bụng kết hôn với Thanh, ai cũng như muốn cưới cái ngôi nhà đồ sộ. Họ thật không có lòng bác ái.
Trái lại, Thanh coi ai cũng như ai, Thanh yêu hết cả mọi người, mà Thanh lại từ bi nữa, khi nào cần, thì hết sức cứu người ta ra khỏi cơn tai nạn.
Một lần, trong nhà Thanh, cũng như mọi tối, có đám xóc đĩa lớn. Trong khi con bạc đương vui đùa bỡn nhau bằng những cuộn bạc khá to thì đầy-tớ chạy vào báo có một vị nhân viên trong Sở Mật-thám đến. Thế là rào rào, họ chạy như vịt. Ai nấy mặt tái xanh. Họ chuồn cổng hậu, họ leo mái nhà, họ nằm ép vào chỗ tối. Song Thanh chẳng sờn lòng, thản nhiên ra tiếp khách. Lúc khách về, Thanh mới nhặt nhạnh tiền nong rơi vãi
Thanh thường nói:
– Để phúc đức lại ngày sau, mất gì?
Quả Thanh tha thiết cầu phúc lắm. Trên gác trong nhà Thanh, có một cái điện rất thiêng. Tối nào người vào lễ cũng đông rầm rập. Chẳng thiêng, sao Thanh đã nằm mộng luôn luôn thấy Ngài. Ngài bắt sắm đôi chóe sứ. Ngài giục Thanh sơn lại cái khám. Ngài bảo Thanh đến tháng một thì tự nhiên có tài. Những con công đệ tử đến lễ ở điện cũng phải là những người đủ tư cách để thờ Ngài. Những đồ thờ trong điện, quá nửa là đồ cung tiến. Người ta đến đó để cầu phúc, cầu tài ; người ta đến đó để nhẩy theo nhạc điệu của mấy bác cung văn trẻ ; người ta đến đó để nghe những tiếng khen trẻ, khen đẹp, khen oai mà quên những sự đau khổ thực của cái đời thực. Những lư trầm khói lên nghi ngút, những ngọn hương làm lờ mờ trong phòng, cũng làm cho người tâm thành như mơ, như mộng, như sống được một phút sung sướng trong đời thần tiên.
Rồi thì người nương tựa vào Thanh cũng không phải là ít. Những người vẫn gọi Thanh là bà lớn, được Thanh ban tiền cho luôn luôn. Ai vụng, thì phải nộp ngay cả gốc lẫn lãi. Ai khéo thì Thanh cho chịu lâu hơn. Người ta tặng cho Thanh cái tên là Phật-bà. Người ta đặt Thanh lên địa vị nhà Từ-thiện.
Quả vậy, những việc Từ-thiện trong thành phố không việc nào không có tên bà Hai Thanh – lấy tên bà Hai, cho có vẻ đứng đắn, hoặc không cho người ta nhớ đến việc chú Sềnh. Những khi vào dự hội-đồng một cuộc làm phúc nào, là bao giờ Thanh cũng được người khác vì nể. Người làng Thanh cũng có vài anh lò mò đến được nhà Thanh, Thanh cưu mang cho mấy tháng đầu, rồi kiếm cho họ được công ăn việc làm cả.
Thanh không muốn nghe đến việc làng việc nhà. Mà người ta cũng không dám kể cho Thanh nhức tai nữa. Người ta chỉ biết nhờ ơn Thanh, thì phải coi Thanh như một vị ân nhân mà thôi.
Nhưng mà năm ấy vỡ đê. Xem báo, Thanh hơi thấy cảm động vì thấy nói nước tràn ngập cả tỉnh Hải-dương, Hưng-yên và Bắc-ninh. Thanh lo cho cha Thanh già yếu không biết có chịu đầu ngọn sóng ngọn gió hay không.
Thanh bèn phái người về, thì người này kể cho Thanh nghe rằng:
– Thưa bà, nhà quê ngập hết cả. Chỗ cao như nhà ông Chánh-hội, thì nước đến đầu gối. Chỗ thấp như nhà bác Khán Tý, thì đến mái tranh.
Thanh lắc đầu thở dài, ngậm ngùi. Người ấy lại kể:
– Rồi năm nay đói to.
Thanh rất cảm động.
Chờ cho nước ra hết, đường sá vừa ráo khô, Thanh nhất định về thăm nhà.
Lần này, thì Thanh không còn e lệ gì nữa.
Thanh mượn chiếc ô-tô hòm rất mới, đi như bay về làng. Đến chỗ cây đa, Thanh cho xe trở về, một mình đi bộ, mà đi rõ thong thả. Thanh thấy quang cảnh điêu tàn mà thở dài. Những đứa bé bụng ỏng mắt toét, đi theo Thanh để xem. Thanh tay cắp ví, tay che dù, đứng dừng lại trước cửa đình và trước cửa miếu. Thấy cái cổng chùa đổ, Thanh xiết đỗi ngậm ngùi. Rồi Thanh nhận vệt nước phù sa hãy còn như vẽ trên các lá ở hàng rào dâm bụt, những nhà xiêu vách lỡ, đường làng thì buồn tênh tẻ ngắt, trong nhà thì nheo nhóc tiêu-sơ. Thanh lắc đầu, quay về phía cánh đồng hoang tàn trơ trơ những gò cát đục.
Về nhà, Thanh thấy cha ho súng sắng, nằm liệt ở trên giường. Thanh lau nước mắt, ngồi cạnh, lật chiếc chiếu rách ra, sờ lên trán nhăn nheo của ông già mà thổn thức. Cha Thanh thấy con về thì lạ, rồi mừng ứa nước mắt.
– Lâu nay không được tin tức của mày, tao có ngờ đâu mày còn sống.
Thanh đáp:
– Người làng thỉnh thoảng có qua lại nhà tôi, họ không nói lại với ông à?
Cha Thanh gượng ngồi dậy, lắc đầu:
– Không.. Bây giờ mày làm ăn có khá không?
– Đủ ăn. Tôi đã mua được cái nhà.
Trợn mắt ngạc nhiên, ông già hỏi:
– Thật à? Nhà Tây hay nhà ta?
Thanh mỉm cười sung sướng:
– Rồi ông ra đấy mà ở, tội gì!
Cha Thanh lắc đầu, than:
– Ở nhà ai cũng túng, mày ạ.
– Lâu nay có gì lạ không ông?
– Thay đổi nhiều. Mày đi lâu mới về, không thấy có gì khác à?
Thanh gật:
– Có.
Rồi thấy năm sáu người cả lớn lẫn bé đứng ở cổng dòm vào, Thanh tỏ bộ khinh bỉ, quay lưng ra, nói tiếp:
– Tôi thấy buồn tệ.
Ông già gật:
– Buồn thật! Các cụ già thì về cả, bây giờ những bọn ương dở lên làm việc làng, nhiều cái khó chịu chết lên được.
– Thế cái ban Chấn-hưng cái gì ấy còn không?
– Không, vì bà ấy có mang rồi đi mất.
Thanh trợn mắt:
– Chính bà ấy có mang. Phải gió! Có mang với ai, thầy biết không?
– Có mang với ông Chánh-hội sau.
– Thế ông Chánh-hội trước đâu?
– Rồi ông ấy thôi, không làm nữa. Nhưng kiết tệ, vì không làm việc làng thì xoay vào đâu mà ăn? Trông ông ta bây giờ ái ngại lắm, mà càng ngày càng lèm bèm.
Thanh vụt nhớ cái tối hôm bị bắt cùng những buổi ân ái xưa kia, rồi Thanh lại nhớ đến vẻ mặt của những người làm việc làng thuở trước. Thanh cắn môi nghĩ một lát, rồi nói:
– Từ nay tôi về nhà luôn, ông ạ.
Cha Thanh nhăn mặt:
– Đừng, đừng, rồi lại như lần trước ấy.