← Quay lại trang sách

Chương 5 HỒI HƯƠNG

Ngày Quảng Ngãi giải phóng 24/3/1975, chính quyền Cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam kiểm soát rất kỹ lưỡng những quân cán chính cùng những người làm việc cho chế độ cũ. Mọi người làm việc cho chính quyền ngày trước hoang mang lo sợ khi có người lạ đến nhà hỏi thăm, tâm lý sợ hãi bao trùm trong các con phố, trước đây, mọi người vui vẻ đối đãi với nhau, nhưng từ ngày giải phóng mọi việc hình như thay đổi, chẳng ai trò chuyện cùng nhau chỉ lầm lì xem xét.

Những người sĩ quan quân đội từ cấp úy trở lên, cán bộ từ cấp trưởng phó phòng lớn nhỏ thời trước có máu mặt đều trình diện và bắt tập trung quản thúc rất chặt chẽ, những người dính dáng đến chế độ “ngụy” bị tập trung học tập cải tạo tư tưởng trong phường, xã ít ngày rồi mới trở về sinh hoạt.

Sài Gòn lúc bấy giờ chưa được giải phóng, lệnh của Ủy ban Quân Quản (UBQQ) tỉnh: Tập trung tất cả học sinh trung học phổ thông để động viên các bạn dọn dẹp những bề bộn của đường sá, khi thông thoáng xong, nhà trường mới có lệnh động viên nhập ngũ vào quân đội nhằm tiếp viện quân cho cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn để giải phóng thành đô. Ai xung phong, đăng ký là trở thành người lính rất nhanh chóng, hôm qua còn mặc áo học sinh, vài hôm sau lên đường đổi bộ đồ bộ đội là chiến sĩ.

Nếu sau giải phóng thành đô ai muốn học tập quay trở lại trường, ai muốn cống hiến cho Cách mạng sẽ được cho tiếp tục vừa học, vừa công tác. Những thanh niên học sinh hăng hái tòng quân đi vào Nam rất nhiều,

Ngày các bạn lên đường băng rôn, biểu ngữ rợp trời có các nữ sinh tiễn các anh lên đường giải phóng Sài Gòn. Những bản nhạc như Giải phóng miền Nam, Bác cùng chúng cháu hành quân… rầm rập như nhịp đi của các bạn học sinh sôi nổi. Tuổi trẻ là như thế.

Cuộc chia tay nào cũng đầy những giọt nước mắt, nhất là các bạn có người yêu…

Bên cạnh đó, các nhà phố bỏ trống được UBQQ tiếp quản và được phân phối cho cán bộ cách mạng tiếp nhận, tất cả gia đình ngụy quân, ngụy quyền được lệnh hồi hương tái thiết quê hương, cuộc đổi thay từ đó bắt đầu.

Nhà ông bà giáo Vân cũng không ngoại lệ ấy, phải trở về quê quán, phương tiện di chuyển chủ yếu là xe đạp hoặc “xe cộ”. Xe cộ là loại xe có 2 bánh xe hơi, kết nối với cặp cần lái rất dài, có thanh ngang chắc chắn, người cầm lái là người khỏe mạnh, để ghìm được vận tốc xe khi lên hoặc xuống dốc, bởi nó không có bộ phận thắng, phía sau vài ba người đẩy, lúc lên dốc đẩy ứ hơi, lúc xuống dốc trì kéo lại, nếu không dễ nguy hiềm, diện tích mặt sàn ván chừng 1m2 x1m8, vì vậy đồ đạt chất rất nhiều.

Trên các đường giao thông bấy giờ đâu đâu cũng có những chuyến xe cộ* dọc đường trở về quê quán, hầu như xe gắn máy không còn của cá nhân nào lưu hành, (nếu có giấu diếm chưa phát hiện thôi) tất cả bị tịch thu cho nhà nước, hoặc nhà nước mượn để phục vụ. Xe gắn máy lưu hành trên đường, thỉnh thoảng có vài chiếc do công tác của chính quyền quân quản ngược xuôi quan sát, hay kiểm tra trên đường khi nghi ngờ.

Trên đường từ phố về đến quê quán mỗi đoạn đường một địa phận xã đều có du kích đội nón tai bèo tuần tra trên đường, súng AK có dây mang trên vai, tay đặt vào cò súng với tư thế sẵn sàng, mỗi lần “cộ” gặp các anh chị ấy đi ngược chiều là xanh mặt, sợ lắm. Đang chuyện trò bỗng dưng không ai bảo ai im lặng, lầm lũi đẩy cộ. Mỗi lần chuyến cộ đi qua là thở phào nhẹ nhõm.

Trên đoạn đường 12km, qua 4 xã với nhiều người du kích như thế, các bạn cứ tưởng tượng, cũng chỉ là con người sao lại sợ đến vậy?

Trong 4 ngày gia đình bà Giáo đi bộ cả trăm cây số về ra, mệt đừ đẩn nhưng chẳng ai dám thuê mướn dù có tiền. Một điều khá lạ lùng trong công cuộc giải phóng, ai thời ấy có hồi hương cũng cảm nhận được điều khác lạ so với trước đây.

Sau 4 ngày hồi hương, hầu như ai trong nhà bà giáo cũng bị bệnh, thuốc men thì trời ơi, các nhà thuốc tây, thuốc gác đều im ỉm đóng cửa, chỉ còn nhờ đến ông y tá cũ trong xóm, một thời gian ngắn là quay về với thuốc xông, cảm mạo, thương hàn, thổ tả, trầy sướt… gì cũng kiếm thuốc nam, thuốc bắc uống, ôi chao, sự cơ cực manh nha.

Ông giáo, ngày ấy chưa đi học tập, ông là công chức quốc gia, dạy thêm trung học tư thục nữa, loại quý sách, ông chở mấy thùng sách từ phố về làng cả gia đình mệt nhoài vì nhiều thùng sách của ông (một số đã bỏ lại ngoài phố) đến khi chính quyền xã thông báo kiểm tra và đi tịch thu sách vỡ đồi trụy tàn dư của Mỹ ngụy để lại, ông sợ hãi quá, lật đật “chụm sách” để nấu nướng thay chụm củi, trong ánh lửa bập bùng ấy, ông cau mặt với tang thương thở dài, lẫm bẫm “Không biết mai này, sách vỡ sẽ ích gì cho cháu con và ông trầm tư thở dài, đọc câu thơ của cụ Tam Nguyên “sách vỡ ích gì cho buổi ấy/ Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già”, đợi tối xuống, ông cùng các con “đem chôn sách” – Ông chọn loại sách thuần văn học thôi, bỏ vào các bao phân hóa học bằng ny lon trong và dày, may kín đầu, cẩn thận sợ mối mọt ông còn rắc vôi chống mối mọt.

Lại chuyện hy hữu nữa trong công cuộc giải phóng miền Nam.

*

Hòa bình, sự ao ước của mỗi người, nhất là những người tham gia quân đội bởi lẽ những người lính ra chiến trường họ luôn đối diện với cái chết trong tích tắc vì thế ước mơ lớn nhất của họ là hòa bình, nhiều, nhiều lắm những thi sĩ, nhạc sĩ miền nam đã viết trong nỗi niềm khát khao ước mơ của những người lính trực tiếp tham chiến: “Rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh chiến tàn anh trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao, vui cùng ruộng nương… hay: rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa, rồi anh sẽ đón cha mẹ về, rồi anh sẽ sang thăm nhà em với miếng cau, với miếng trầu ta làm lại từ đầu…” thậm chí tuổi thanh xuân của đời người cũng mất đi chỉ đối diện với chiến tranh tàn khốc, khổ đau, sinh tử chia lìa, mỗi ngày đi qua biết bao nhiêu sinh mạng hừng hực tuổi trẻ đã gục ngã vì súng đạn vô tình, bởi chiến tranh gây ra, đại đa số là người lính bước ra từ đồng quê, ai không yêu mến quê hương mình nhất là từ thơ bé đến thành niên đã lớn lên từ quê nhà có quá nhiều kỷ niệm với mảnh đất chôn nhau cắt rún, ước mơ trở về với làng mạc để xây dựng kiến thiết là điều rất thật của họ lúc quê hương gánh quá nhiều đau thương, đỗ nát chỉ vì chiến tranh.

Sau đó không bao lâu, ngày 30/4/1975 Tổng thống Dương Văn Minh, người mới nhận chức vụ chẳng bao lâu ra lệnh đầu hàng, từ đó đất nước thống nhất về địa lý, như vậy non sông liền một dải.

Quảng Ngãi cũng như toàn miền Nam tất cả đều tổ chức khai giảng năm học mới, may thay, ở Nghĩa Hành cơ sở vật chất các trường thời VNCH cũng đủ dung chứa cho số học sinh từ phố trở về “mái nhà xưa” nông thôn, tất cả các học sinh rút hồ sơ trường cũ về quê quán nếu muốn tiếp tục sự học thì nộp cho trường mới, bèn không coi như bỏ cuộc, biết bao nhiêu học sinh vì thống nhất ấy đã bỏ học, với nhiếu lý do và hoàn cảnh khác nhau của mỗi gia đình.

Con bà giáo Vân tiếp tục sự học sau khi trở về bản quán, Dũng trở về “đăng ký” trường huyện quê nhà sau bao năm học tập ở phố, ngày lên đăng ký khai báo rất kỹ lưỡng, nhất là lý lịch cá nhân có chính quyền thị thực hẳn hoi, chữ của người cán bộ xem xét, chứng thực ngoằn ngoèo như trang sử Việt hết trang lý lịch cá nhân và những người thân thiết trong gia đình được Ban giám hiệu nhà trường chăm sóc rất cẩn thận. Nếu ai cảm thấy rắc rối, thì bỏ học, biết bao các bạn cùng lứa rơi vào hoàn cảnh “giả từ bảng đen và chữ nghĩa cùng bạn bè” một cách oan uổng, chỉ còn một năm nữa là tốt nghiệp phổ thông. Ban đầu, Dũng cũng bị Ban giám hiệu lâm thời không cho phép học tập, có lẽ cũng tại cái lý lịch ngoằn ngoèo. Dũng thất vọng và buồn lắm, về nhà tâm sự với bà giáo, bà Giáo có lên trường gặp ban giám hiệu, thì ra ông Hiệu trưởng nhà trường là bạn bà lúc nhỏ cùng học với nhau trước khi ông tập kết ra bắc tiếp tục giảng dạy. Sau đó, rất may Dũng được tiếp tục học và tốt nghiệp phổ thông năm đầu tiên của thời thống nhất bắc nam.

LÀM RUỘNG ĂN CƠM NẰM

Gia đình Bà Giáo Vân cùng con cái trở về với nguyên thủy nhà nông, cấy lúa và làm vườn, thu nhập chính để sinh hoạt cuộc sống từ hoa lợi ruộng vườn. Hợp tác xã nông nghiệp ra đời và tất cả ai cũng ký vào sổ tự nguyện hiến ruộng đất cho hợp tác xã để cùng chung tay kiến thiết đất nước sau vài mươi năm chiến tranh tan hoang, ai không ký sẽ mời về xã học tập để “quán triệt đường lối cách mạng, không còn người bóc lột người”, nghĩa là bình đẳng trong lao động chia điểm, ai làm công điểm cao được chia lúa nhiều và ngược lại.

Kết quả là cả vụ hè thu cả gia đình bà giáo Vân được chia 2 bao lúa 100 kg cho 8 nhân khẩu đã đăng ký hộ tịch, hộ khẩu. Nghĩa là trong nửa năm chi tiêu tất cả cho cuộc sống chỉ có 100 ký lúa, cuộc sống trở nên khó khăn đến độ khủng hoảng đói nghèo.

Thỉnh thoảng trong dân gian lại xì xầm vài câu đồng dao nghe đến thê lương về chuyện hợp tác xã và phân phối nhu yếu phẩm: “Đầu cha con se sẻ, Đ.m con sâu sâu/ Ngày thường chẳng thấy mày đâu, đến khi gặt thóc châu đầu lại ăn hoặc các phụ nữ bạo liệt hơn: Hợp tác hợp te, có 2 mét vải (cả năm) không che được cái l…”

Buổi tối hôm ấy, sau khi lãnh lúa về nhà, các con bà tỏ ra phật ý, thậm chí giận dữ, trong bữa cơm chiều “làm cả mấy tháng trời lãnh bấy nhiêu ký lúa làm sao sống được, cách mạng kiểu gì mà càng ngày càng đói kém, rách nát”, bà giáo Vân biết và rất chua xót nhưng nói như điều đình với các con:

- Lúc trước kia, gia đình chúng ta ai cũng có lương hướng, đời sống khá giả, bây giờ thời thế thay đổi về làm nông, nhà mình ai cũng yếu, các con không quen làm ruộng vườn, không được như các gia đình nông dân thuần chất, phải chịu vậy thôi các con, mẹ đâu muốn thế, để xem sao rồi sẽ tính.

- Cả mấy nhỏ trong nhà đều thương mẹ nên thôi, không nói nữa.

Bà giáo Vân tiếp:

- Có lẽ phải tìm phương hướng khác kiếm sống, chứ thế này mãi làm sao sống nổi được các con.

Mẹ và chị Thanh – Người chị lớn nhất còn lại trong gia đình bà biết đan áo len: “Hay là con ra phố xem thử có bạn bè hay ai có thể giúp chúng ta đan len bỏ mối ở phố Quảng Ngãi, nghe đâu mấy ông cán bộ miền Bắc vào giải phóng miền nam mỗi dịp tết nhứt, lễ lộc hay về thăm nhà mua làm quà cho gia đình ngoài ấy, mùa đông ngoài bắc lạnh dữ lắm”. Rét tháng ba, bà già chết cóng.

- Để ngày mai con ra phố hỏi thăm, có thể vậy, chứ làm ruộng cả ngày 4 điểm cả nhà mình chắc chết. Chị Thanh đề nghị.

- Phải đấy con à, con sắp xếp đi nhanh, biết đâu còn có cửa sống.

Chưa hết, nếu như các đô thị và thành phố miền Nam cải cách công thương nghiệp nhằm đánh vào giới giàu có tư sản thì nông thôn toàn miền Nam có loại thuế nông nghiệp, nhắm vào những nhà giàu có, khá giả đa phần làm cho chính quyền cũ nhằm cào bằng đời sống với nhau, từ đó, tiếng ta thán bắt đầu trong xã hội miền nam mới vừa được giải phóng càng lúc càng lan xa, tiếng oán than càng ngày càng mạnh hơn.

Người dân nơm nớp lo sợ, lo sợ nghèo đói và bệnh tật vì đói ăn, thiếu dinh dưỡng, chiến tranh đi qua, không còn đạn bom, chết chóc, nỗi mừng vui ấy chưa được tày gang thì dân tình đang gánh chịu đói nghèo, cùng cực. Một dấu hỏi lớn toàn miền Nam về việc giải phóng. Giải phóng là thế này ư? Từ cuộc sống bị kèm kẹp với Mỹ Ngụy mà áo cơm no đủ, phương tiện đủ đầy, trong nhà phố ai cũng có quạt điện, bàn ủi điện, rề-sô nấu bằng dầu lửa rất tiện dụng, tủ lạnh để lưu trữ đồ ăn, thức uống, phương tiện xe gắn máy đi lại đầy đường, thậm chí người giàu còn có xe hơi, hồi hương về cơm không có ăn, một bửa ăn cho bảy tám người chỉ có lon gạo và cả ang củ lang hoặc củ mì. Nhà nghèo khó bắt đầu ăn củ chuối.

Người dân nghèo bấy giờ ai cũng hiểu, tuyệt nhiên chắng ai dám hé môi đề nghị với chính quyền mỗi lần họp dân vào buổi tối mà chính quyền thường gọi “Mít-ting”

Chế độ tem phiếu như phía bắc bắt đầu thực hiện cho dân miền Nam chưa quen với nổi gian truân ấy làm tăng thêm sự đói nghèo cùng cực, hình như chính quyền cũng thấy được điếu ấy. Sau đó có chiến dịch động viên khuyến khích các gia đình đi kinh tế mới, chính quyền có hổ trợ 3 tháng gạo cho những gia đình tự nguyện rời quê quán vào nơi xa xứ lạ, gọi là: Đi kinh tế mới mục đích cho dân đến nhiều vùng nông thôn đất rộng người thưa để khai hoang vỡ hóa phục hồi kinh tế tái thiết đất nước, người dân Nghĩa Hành nói chung cũng rầm rập lên đường.

Buổi tiển đưa có cờ xí, cán bộ xã tập họp nói lời chia tay, chúc các hộ dân vào nơi xa làm ăn sung túc. Có nhiều người khóc như mưa, tưởng chừng chẳng biết bao giờ được trở về cố quận, bởi từ nhỏ tới lớn họ chưa biết đến thị xã Quảng Ngãi, đừng nói chi đến Tây Nguyên hay Nam bộ. Có lẽ họ nghĩ đến giải phóng cái bao tử đói đến rát ruột cho chính gia đình họ hơn là những gian nguy khác, nhất là các anh ngày trước đi lính hoặc các công chức nhỏ.

Cặp tình nhân có lẽ mặn nồng yêu thương, cầm tay nhau rất chặt lúc đoàn xe chuẩn bị khới hành, chàng thẹn thùng, nhưng chẳng biết có gặp được nhau nữa không, nên vội vả hôn cô ấy thật dài, ngày ấy hôn nhau như thế người ta thấy chắc xấu hổ lắm? Đôi bàn tay còn giữ chặt, trong lúc người cán bộ địa phương hối hả thổi còi cho đoàn xe từ từ lăn bánh. Lúc ấy, anh vội vàng vừa chạy vừa vẫy tay chào người yêu, lật đật nhảy tót lên xe. Nỗi chia ly lặng lẽ của hai người, bàn tay vẫy của cô ấy nhạt nhòa dần khuất khi xe chạy qua khúc quanh.

Có lẽ tâm trạng hai người như hình ảnh của Nguyễn Bính trong Bóng người trên sân ga: “Có lần tôi thấy một người yêu/ tiễn một người yêu một buổi chiều/ ở một ga nào xa vắng lắm/ họ cầm tay họ bóng liêu xiêu”

Nhờ vậy mà mấy năm sau nhiều gia đình vào Tây nguyên và Nam bộ ngày một no đủ hơn, khá giả hẳn lên, thỉnh thoảng vẫn có người về báo lại sinh hoạt và đời sống trong đó, và rồi mỗi lúc một nhiều gia đình người nghèo khó cả đời chưa rời mảnh vườn theo chân người đi trước, tiếp tục cuộc di cư về kinh tế giải phóng cái đói.

*

Bà giáo Vân dậy sớm hơn mọi ngày, nấu nồi cháo heo cho vài chú heo lứa trong chuồng đã xong, coi như của để dành của gia đình bà phòng lúc hoạn nạn, chị Thanh đã cùng bà đi mua tận thôn dưới hai chú heo khá xinh đẹp màu đen đốm trắng, giống lai Thái Lan.

Trời vừa sáng rõ, mùa hạ tiết trời nóng bức, ánh nắng sớm đùa giỡn trên cành cây kẻ lá làm háo hức chị Thanh bởi chị sẽ được ra phố gặp bè bạn cùng lớp, cùng trường. Chị ăn vội miếng cơm nguội chiều tối còn để dành, lót lòng để kịp lên đường gặp bạn bè cũ một thời học sinh áo dài trắng muốt sân trường, thỉnh thoảng chuyện trò chị vẫn tự hào là nữ sinh Nữ Trung Học. Kể từ trở lại quê nhà, chị chưa bao giờ được mặc lại áo dài nào, mặc dù trong tủ chị còn những ba bốn bộ, có chuyện gì mới mặc áo dài, vô lẽ chị lại làm người mẫu tới lui trong nhà rồi mất công giặt cất lại để kỷ niệm thuở học trò thơ mộng của mình.

Trên chiếc xe đầm của bà Giáo Vân ngày nào ngược xuôi trên đường vẫn còn tốt, chị hý hững chào cả nhà rời thật nhanh ra ngõ, lên đường làm “sứ giả ngoại giao”.

Cành cây trong sân nhà lung linh trước gió đầu ngày như giục chị bước mau, thôi thúc nhất là sẽ có thêm tiền để sinh hoạt cho đỡ khổ đau những bao tử lép kẹp của các em thời thiếu đói.