← Quay lại trang sách

Chương 6

Bãi Nghiền Sàng là thánh địa của lũ trẻ chăn trâu và người lấy củi. Ở đây lúp xúp toàn cây cậm cam và cậm canh. Có một câu ca thế này:

Muốn sống thì ăn cậm cam

Muốn chết bỏ làng thì ăn cậm canh.

Cây cậm cam ra hoa vào tháng chín, đến tháng mười hai thì đậu quả. Hoa cậm cam mọc thành từng chùm, khum khum như lòng tay trẻ con. Cánh hoa trắng muốt, có những đường gân xanh mờ. Năm cánh như năm ngón tay đều tâm tâp và mềm. Nhị hoa chụm lại phía dưới rồi tỏa ra. Những sợi nhị li ti lúc nào cũng rung lên như một linh hồn non nớt, yếu ớt. Tầm xế chiều, hoa bắt đầu nhả hương để gọi ong. Hương hoa cậm cam thơm dịu, xen với hoa cậm canh cay sặc tạo cho bãi Nghiền Sàng sự quyến rũ khó mà cưỡng lại được. Ngồi ở bãi lúc nửa đêm, người ta cảm thấy lâng lâng, cảm giác về sự siêu thoát rõ rệt nhất. Bạt ngàn là hương. Quả cậm cam khi chín màu tím ong óng, ăn giòn và ngọt, có thể nuốt cả hạt.

Cây cậm canh thân to hơn một chút. Cành cậm canh dày chi chít, clinging và loang lổ như rắn cạp nong. Quả cậm canh to bằng đầu ngón út, màu vàng lục. Người khỏe đến đâu thì khỏe, ăn vào quả thứ năm là vật ra ngay. Trâu bò cũng không chịu nổi. Quả cậm canh độc lắm! Có một điều, hai cây ấy luôn mọc cạnh nhau. Các cụ bảo đây là Ma và Thần đây! Cái ác với cái thiện đấy! Sự sống và cái chết đấy! Cây cậm canh khỏe mạnh khác hẳn với cây cậm cam yếu ớt nhu mì. Có bao nhiêu người đã chết vì quả cậm canh. Người không biết, ăn nhầm chết cũng có, người đi tự tử cũng có. Có đôi trai dưới Ao Lang chẳng hiểu sao, đang đêm lại mò ra đây, bón cho nhau từng quả cậm canh một, rồi trần truồng ôm nhau chết. Cây cậm canh bị nguyền rủa. Lũ trẻ chất lửa đốt dưới gốc, nhưng lửa chỉ lay lắt rồi tắt. Cậm canh vẫn xanh hơn hớn, đầy ngang ngạnh. Cây cậm cam bên cạnh, bị hơi lửa táp vào, cứ héo rũ đi, cành lá co cắp như cánh tay khoèo. Không ai đốt cây cậm canh nữa, mặc dù những lời nguyền rủa luôn dành cho nó.

Thủy khom lưng, chòng một đầu bó củi xuống, cô lỏng tay cho nó đổ từ từ. Hương lại đánh rầm một tiếng rồi thả bệt đít lên bó củi của mình.

— Khoảng mười rưỡi đây nhỉ?

— Ừ.

Thủy nâng vạt áo lau mặt, cô xoạc chân, lấy nón quạt thốc từ dưới lên. Mồ hôi ngoằn ngoèo theo những đường gân xanh mờ trên cổ Thủy.

— Tao phải rửa mặt một cái. Đi không?

Hương đứng vụt dậy, tay vỗ bồm bộp vào mông quần. Một đám bụi vẩn nhẹ trong nắng. Thủy mệt quá, chả muốn nhúc nhích, cô lẳng lặng nhìn cái dáng băm băm của Hương khuất vào con lạch giữa bụi cậm cam. Thủy đưa tay quạt, chân miết miết mấy ngọn cỏ.

— Mát quá! — Tiếng Hương vọng ra — Thủy ơi, mày canh nhé. Tao tắm đây.

— Liều thế. Bọn trẻ hay đi ra đây lắm đấy.

— Kệ nó. Giời, mát ghê cơ. Tiếng óc ách bị xáo trộn — Mà Thủy này, thằng Tượng vẽ giỏi lắm. Hôm nọ nó nằn nì mãi, tao mới đưa sổ cho vẽ. Nó vẽ hai con chim bồ câu, ngậm dải lụa này, cả hoa hồng nữa này, trông đẹp mê đi.

— Vẽ để làm gì? Vớ vẩn — Thủy gắt nhẹ.

— Ơ, mày buồn cười thật! Thế sổ của mày vứt đi đâu rồi? Giời ơi, con mụ này đoảng thật. Nó đề thế này mới ghê chứ: "Anh xin dâng tặng em, người đẹp Rôma của anh". Rôma là cái gì nhỉ?

— Tao chịu, tiếng Tây tiếng Tàu, bồ ai mà hiểu được — Thủy gãi gãi ống chân — Mày phải lòng nó rồi đấy nhé. Tao nói ngay mà.

— Quá đáng nó vừa vừa chứ, tao xấu thế này, khỉ nó yêu — Giọng Hương đầy sự sung sướng — Mát nhẹ cả người, mày tắm đi, tao canh cho! Hương rú rú tóc cho nước bắn ra. Một bên vạt áo cài lệch, hớt lên. Cười cái gì. Con quỷ! Thằng Tượng nó thích mày đấy. Tao thề độc. Nó cứ hỏi về mày — Giọng Hương thoắt trở nên ỉu xìu.

— Tao đã bảo rồi, không bao giờ có chuyện ấy. Rồi mày xem — Mắt Thủy trở nên lơ đãng — Lũ đàn ông ở phố là khốn nạn nhất!

— Thôi bà ạ. Đừng ăn nói hồ đồ, đến tai người ta thì khốn.

— Đến, tao cũng chẳng sợ. Thủy vênh mặt.

— Mai có đi nữa không?

— Có chứ. Sắp đến đông rồi. Tốn củi lắm. Bác tao bảo, phải dự trữ nhiều, năm nay sẽ rét từ trong rét ra. Bác còn dọa, không cẩn thận, cả cái làng này sẽ bị họa. Mày có tin không?

— Chết thì cùng chết, lo gì! Tượng nó thích mày thật mà — Hương nói xa xôi.

— Cái gì, mày nói lại lần nữa. Thủy lặng đi, vai cô thoáng rung lên. Tao cấm mày, con quỷ con ạ! Thơm quá.

Những bông hoa cậm cam vào tầm nở bung. Tiếng ong vo ve, tiếng suối róc rách.

Thủy về đến nhà đã hơn mười một giờ. Ông Kim đang lúi húi xà nốt săn rau cải. Ngọn lửa bập bùng bắt lên những giọt mồ hôi, khiến mặt ông như bốc lửa. Nghe tiếng củi rơi phía trái nhà, ông hỏi vọng ra:

— Về đấy à cháu? Nóng quá! Lấy củi gì đấy?

— Dạ, củi Đắng cay. Bọn cháu vớ được một chỗ toàn Đắng cay thôi. Cây này cháy đượm mà thơm lắm bác nhỉ. Mai cháu đi tiếp. Để cháu làm nốt cho. Eo, mặt bác như có lửa đây này — Thủy lăng xăng ùa vào.

— Thôi rửa mặt mũi chân tay đi — Ông Kim xua tay — Bác đảo lần nữa là xong ngay đây. Hôm nay bà Linh lùn lại mất con vàng.

— Mất hả bác?

— Không biết nó bỏ đi hay bị đánh bả. Mất chó trước, mất của sau. Khỉ thật. Chẳng hiểu làm sao nữa. Bác tráng trứng, đổi món cho nó dễ nuốt. Xong chưa?

— Dạ, cháu xong rồi đấy! — Thủy vẩy vẩy tay bước vào nhà.

Ông Kim ngồi đầu nồi đang đánh cơm, bỗng ngừng lại, hít hít mũi:

— Hôm nay lại nghỉ ở bãi Nghiền Sàng hử? Bác nhận ra ngay. Cháu thấy không, hoa này thơm kỳ lạ thật!

Ông cố cưỡng lại, để tâm trí khỏi trôi vào ký ức:

— Ăn đi. Cháu biết không, hồi bé, bác thường ra đấy chơi. Đêm về, người như ướp hương. Lâu lắm rồi...

Thủy cúi đầu, cố gắng lấy cơm và để cơm, tránh sự bối rối. Cô không muốn bác buồn. Cây cậm cam, cây cậm canh hay làm bác buồn. Ngày giỗ bố Thủy, bác chỉ bày hai loại hoa này thôi.

"Ta trống rỗng đến lạ lùng. Những đám mây bỗng trở nên quái dị trong màu đỏ quạch. Mây như cục máu đông lại. Mặt trời vẫn chưa giảm sự cuồng nộ. Chúng nó chịu làm sao được nữa. Những đám bụi này từ đâu mà ra?

— Từ chúng nó!

Những lối mòn hiu hắt từ đâu mà ra?

— Từ bàn chân chai sạn của chúng nó. Và lối mòn mất hút trong sự tối tăm nghèo nàn của chính bọn chúng!

Ta nhớ quá mỗi lần chạy lụt. Mưa ròng rã hàng chục ngày trời. Cây trắng, nhà trắng, ruộng đất trắng. Nước thượng nguồn đổ về, đục ngầu như mắt trâu điên. Nước xói vào chân núi ầm ầm. Tất cả chìm trong màu đục điên dại đó. Những tấm ván, những nóc nhà bung ra, trôi vật vờ như kẻ ăn xin trong cõi hỗn mang. Gia đình ta, cũng như mọi gia đình khác phải sấp ngửa dạt lên mặt đường cái. Con đường cao nhất chưa bị ngập. Nó là chỗ dựa duy nhất cho những sinh linh yếu ớt, bất lực trước thiên tai. Trông từ trên xuống những con đường khá mong manh. Nó giống sợi chỉ hoen ố trước cơn gió gầm gào. Nó gánh trên vai tất cả những gì có thể giúp được cho cuộc sống. Từ bàn thờ tổ tiên đến nồi niêu gà lợn. Đó là ngày hội của lũ trẻ chúng ta. Ta xòe tay, giả làm máy bay lượn vè vè quanh đống đồ đạc ẩm ướt, lộn xộn của nhà mình. Lúc đó, ta khao khát được bay thật. Bay như chim để lượn trên mặt nước mà chiêm ngưỡng sự nháo nhác đến vui mắt. Các chị ta túm tụm lại, hồi hộp nhìn anh và bố ta bì bõm khiêng từng tấm phản ra để xếp chỗ ở. Ta thấy bố ta cố gắng gạt những đám rác trôi sát sạt mang tai, hai tay ông nâng qua đâu một tấm phản. Dạo ấy bố ta đã già. Bố bị sặc nước mấy lần. Nước lụt bẩn đến phát tởm. Mẹ ta vừa gập đống quần áo ẩm ì, vừa rên rỉ. Bà nhìn trời đầy oán giận. Bà quay về phía ta để trút nỗi bực dọc: "Mày cứ lượn đi, ngã thì tao bảo. Quần áo thay từ sáng đến giờ mấy bộ rồi ỉ". Bà tiếp tục thu những chiếc nôi cho gọn, miệng không thôi ren rĩ. Ta nghe tiếng cãi nhau, tiếng bố gọi con, ông gọi cháu. Ta nghe nước réo ù ù và bầu trời xám xịt như con gà bị cắt tiết hôm cưới chị cả ta. Ta chạy đi tìm lũ bạn đồng niên. Chúng nó đang hò hét vây quanh xác một con chó chết đuối. Xác con vật trương phình lên. Nước rỉ ra từ miệng nó màu vàng, nhớt và tanh khẳm. Ai đó quát một tiếng rất to làm chúng ta chạy túa ra. Đêm, những tấm ni lông căng tạm để làm chỗ ngủ. Mưa xiên chéo làm đồ đạc ướt sạch. Tiếng ếch uôm thiểu não, trầm rè cất lên. Mặt nước láng rợn. Chẳng ai ngủ cả. Những tiếng rì rầm cất lên dè dặt:

— Có lẽ còn mưa mấy hôm nữa.

— Cui hết rồi mẹ ạ.

— Khiếp, thằng cu lại đùn ra quần đây này. Dậy đi.

— Nó mà kéo cho hai ba tuần nữa thì chết cả. Giời ơi!

— Sống ở đất này hay đất khác cũng thế thôi. Chỗ nào cũng nhục. Tôi mất toi đôi lợn.

— Giá chết quách đi cho nhẹ thân. Chúng mày làm nhổ ông. Có im đi không tiên sư mẹ con mày!

Ánh đèn pin thỉnh thoảng lại vụt lên loang loáng. Mưa tầm tã. Ta đã mơ thấy mình có cánh. Một đôi cánh trắng muốt, mềm mại. Ta bay đến một nơi xa, rất xa, rất xa...

Mẹ ta kể rằng: Đất này ngày xưa hoang vu lắm. Nó là xứ sở của thú dữ và ma. Ông tổ làng ta cùng mấy người nữa đã phiêu bạt lên đây và khai phá nó. Khi nhắm mắt xuôi tay, ông tổ làng ta mới biết mình chọn nhầm. Đất này dữ vì nó là bệ kê của núi Hột! Cái núi như một đầu người tã tượi bao đời đè bóng xuống làng. Đêm ai cũng mê sảng trú trớ, cả trâu bò cũng mê. Núi Hột là đầu ma. Nhà ta thờ ông tổ, nhưng không có ảnh. Ông lấy một ca nước đặt lên bàn thờ. Mẹ bảo ông tổ ta hóa nước để sửa chữa sai lầm của mình. Ông muốn lấy mình mà hòa tan hết những tảng đá ma ám. Bây giờ ta mới biết, nước không thể hòa tan đá được. Đá càng ngày càng nhiều. Nhặt bất cứ một viên đá nào lên, ghé tai nghe thử, thấy tiếng u u man dại vọng ra. Đấy là đá ma. Ta ngẫm nghĩ và hỏi mẹ: "Mẹ này, sao ông tổ lại về phá làng hở mẹ?". Mẹ nhìn ra ngoài (trông nước mênh mông, cúi mặt khẽ thở dài): "Ngủ đi con!" Bố ta nhổm dậy, bấm đèn pin xem xét một lượt, đoạn bảo mẹ: "Mình ạ, có lẽ phải cho chúng nó dời khỏi đây thôi. Được đứa nào hay đứa ấy. Tôi ngẫm mình khổ quá rồi. Đừng bắt chúng nó khổ thêm nữa". Mẹ ta bật khóc.

Vậy mà bây giờ ta vẫn quanh quẩn ở đây. Ta đau buồn, chán nản ở đây. Định mệnh bắt ta phải vật vờ như thế này mãi ư. Ta trống rỗng đến lạ lùng!