Chương 7
Năm nay, hội chùa Hang mở to lắm. Người tứ xứ đổ về từ mấy hôm trước, ăn ngủ vật vạ quanh thị trấn. Đồn rằng, vừa rồi một con hạc trắng bay từ phương Bắc xuống đậu đỉnh chùa. Điềm lạ thánh thần. Lịch sử chùa Hang bắt đầu từ một chùa nhỏ xíu, đến đời Nguyễn, nó được mở rộng và xây cất công phu. Thời ấy, trụ trì chùa là một bậc cao tăng từ Kinh Đô lên. Ông cho dựng hai dãy tường lớn bao bọc quanh núi. Gác chuông cao vút đặt bên ngoài, chỗ ngách hang phụ. Chùa nằm trong lòng hang, nơi lúc nào cũng cúng mờ mờ như trời cuối chiều. Long hang có đủ đường lên trời, đường xuống âm phủ. Có cả cột bình thiên bằng đá nối từ đỉnh xuống đáy hang. Nước rỉ theo các kẽ đá xuống, tạo cho hang những hình thù kỳ lạ. Có hình như ngọn bút lông, có hình mang dáng con rồng chúc cố xuống, lại có hình như chiếc tai Phật, to bằng tàu chuôi hột. Thời đó chùa đang vào độ thịnh vượng thì bị cháy một cách bí hiểm. Số sư tăng trong chùa chết cháy gần hết. Sau đó, chùa được dựng lại, nhưng không đồ sộ bằng trước. Những bức tường quanh núi bị phá đi để làm nghĩa địa. Người ta tính, có đến ba trăm ngôi mộ tất cả. Hiện nay, những nhà chuyên môn cố công tìm kiếm mộ tổ, nhưng hoàn toàn thất vọng. Mộ tổ của chùa biến mất trong một đêm trăng, mưa nhẹ. Dân quanh vùng thời ấy bảo rằng về sáng, họ nhìn thấy một cột lửa xanh lét vọt lên, cao bằng bốn năm cây thông già nối lại. Sáng ra thì ngôi mộ biến mất, chỗ nó nằm trước đấy, chỉ còn lại một quầng đất nâu bóng và nóng rực. Sau này có một cây si mọc lên được gần chục năm thì bị sét đánh cháy tận rễ.
Những năm chiến tranh, bao nhiêu đồ quý giá của chùa bị mất sạch. Trong đó có hai viên ngọc bích to bằng nắm tay và mất pho tượng đồng đen. Ngày hòa bình, hang làm nơi chứa rác của dân quanh vùng. Chẳng ai nghĩ đến thời oanh liệt của nó nữa. Cách đây ba năm, có một sư già tự bỏ tiền của ra để khôi phục lại Chùa Hang. Ngày khai trương chùa là một huyền thoại đầy bí ẩn.
Hôm ấy, xe chở các bà sang trọng từ Hà Nội, Hải Phòng đến đỗ hàng dãy dài quanh núi. Hàng quán mở ra nhan nhản, giá cả vọt lên bốn năm lần. Riêng nơi gửi xe đạp đã có hàng nghìn chiếc. Khu trong địa phận chùa, cỗ bàn bày ra ăn rả rích. Hương khói mù mịt khắp núi. Người trèo cả lên đá mới có chỗ đứng. Đến tầm mười giờ, một hồi chuông rền rền vang lên báo hiệu giờ hành lễ. Những con nhang đệ tử ăn vận sạch sẽ tinh tươm lục tục kéo nhau vào hang. Người xem chen lấn, xô đẩy vòng ngoài, cứ như ong vỡ tổ. Mới được chưa đầy ba phút, chợt một tiếng hét ghê rợn từ trong hang vọng lên, rồi đám người nháo nhào ùa ra ngoài, có kẻ còn đội nguyên cả mâm lễ trên đầu.
— Có rắn thần hiện về. Rắn mào hẳn hoi.
Thì ra trong lúc đang hành lễ, một người đã phát hiện có một con rắn mào khổng lồ trườn từ nóc hang xuống và cuốn quanh chân Phật Thích Ca.
— Chính mắt tôi trông thấy mà lị. Nó to bằng cột Kình Thiên.
— Làm gì, chỉ bằng bắp đùi thôi. Tôi đứng gần nhất, còn nghe nó phun phè phè ngay mặt.
Sự ồn ào chợt tắt lịm khi ai đó hốt hoảng gào lên:
— Chết thôi, sư cụ đâu rồi?
Mọi con mắt đờ ra, ngóng vào cửa hang. Trong ấy chỉ thấy mịt mù là khói. Mãi sau, một số người can đảm mới dám mò vào và họ ngạc nhiên vô cùng. Sư cụ vẫn ngồi ngay ngắn gõ mõ, khuôn mặt bà như láng bạc. Sư không biết có người đến bên cạnh mình, miệng lầm rầm, một tay lần tràng hạt, một tay gõ mõ đều đều. Tiếng mõ nghe trầm uất. Câu chuyện cứ thế loang ra khắp nơi, một đồn mười, mười đồn trăm, và Chùa Hang trở nên linh thiêng cùng sư cụ trụ trì.
Sư cụ có sự gợi về Tuyết Sơn. Dáng gầy gò, tóc không còn chân, má và cằm lõm vào tạo cho khuôn mặt rõ nét về sự trở lại cấu trúc xương sọ. Sư cụ như ngọn nến mong manh, lúc nào cũng bị đe dọa trước gió. Bà từ tâm nhưng cũng ác. Sư có thể trìu mến rút trong bao tải ra hàng nắm tiền để cho kẻ mà bà thấy thương cảm và hài lòng, nhưng cũng sẵn sàng chửi té tát vào mặt kẻ đó nếu bà phật ý. Đám con nhang đệ tử xì xào rằng bà có cả một bài chửi hẳn hoi. Một bài chửi mà đám hàng tôm hàng cá quanh chợ Chùa Hang cũng phải khiếp vía.
Chẳng hiểu vì tuổi tác hay vì nguyên nhân nào đó, năm nay, nhà sư quyết định mở hội trước đến năm tháng. Có một câu ca ra đời và loang khắp hội:
Tháng mười mơ hội Chùa Hang
Bao nhiêu đĩêm giữ lang thang kéo về.
Câu đó như một sự phản kháng của các bậc già lão. Nhiều phản ứng đã độ gay gắt, nhưng sư cụ bỏ ngoài tai:
— Chẳng có điềm giữ nào hết!
Bà nói vậy và ngày thứ nhất đã mở với sự háo hức và phục tùng của hàng nghìn người đến. Dân Linh Sơn kéo nhau đi hội đông, nhất là các cụ già. Từ sáng đã í ới gọi nhau từng tốp một. Đến hôm nay là ngày thứ ba rồi.
Tượng thu xếp các thứ cho gọn vào nhà, lấy xe túc tắc đạp đến xem cho đỡ buồn. Gửi xe tít tận khu tượng đài, Tượng mua một gói hương, nhập theo dòng người vào chùa. Một phần vì buồn, phần nữa vì tò mò muốn xem những pho tượng do sinh viên của trường mà anh định thi vào làm ở trình độ thế nào nên Tượng mới đến. Đối với anh, chùa Hang không có sự thiêng liêng như chùa Phù Liễu. Phù Liễu cổ kính với những bức tượng cách đây hàng bốn năm thế kỷ. "Xem cho biết", Tượng tặc lưỡi.
Vừa nhích dần theo dòng người, Tượng vừa lặng lẽ quan sát từng khuôn mặt xung quanh. Ở họ, anh đọc thấy sự u uẩn và sùng kính. Mỗi người đến đây đều mang theo một nỗi niềm sâu kín nào đó mà người khác khó có thể giải mã được. Tuổi thơ của Tượng gần như gắn liền với lễ hội chùa chiền. Sau mỗi lần xem khấn vái ở chùa Phù Liễu, Tượng vừa thấy tức cười, vừa thấy buồn bã thất vọng. Người ta thành kính chen chúc, xô đẩy nhau vào lạy các pho tượng, đôi khi lạy cả trên lưng kẻ đứng trước mình. Một lần, khi tranh cãi về tôn giáo với họa sĩ Đặng Cử, Tượng đã quả quyết rằng trên đầu cái chết là tôn giáo. Mặc dù thầy phản đối, nhưng anh vẫn cương quyết ngấm ngầm khẳng định quan điểm của mình và càng ngày, Tượng càng thấy mình có lý.
— Thầy à, không có hy vọng thì con người chúng ta không thể sống được. Khi không còn khả năng để bấu víu vào thực tại xung quanh, tự khắc phải đi tìm và tin vào cái siêu hình, như thế mới đủ khả năng để sống. Cả thầy, cả em và tất cả những gì gọi là Người đều phải như thế.
Tượng nói vậy, khi kết thúc cuộc tranh cãi và họa sĩ có vẻ giận anh.
— Ô kìa, anh Tượng, chúng mày ơi anh Tượng cũng đi xem đây này.
Tiếng reo làm Tượng quay phắt sang bên, anh nhận ra thằng Thanh con bà Thụy toét cùng mấy đứa bạn đứng túm tụm bên đường. Bỏ dòng người, Tượng bước lại chỗ chúng, anh khẽ chau mày khi nhận ra trong số đó có Hương và hai cô bạn gái nhà dưới Ao Lang.
— Đến lâu chưa? - Tượng hỏi.
— Đông quá, bọn em chưa vào được. Anh có thấy mẹ em đâu không?
Thằng Thanh láu táu rút thuốc mời Tượng. Anh lắc đầu, chỉ vào họng.
— Hay là cùng vào xem cho vui, đợi đến bao giờ mới vãn.
Tượng bóc thẻ hương chia đều cho cả bọn:
— Vào chùa mà không có hương, các cụ chửi chết. — Tượng nhìn Hương nói, vẻ tỉnh bơ.
Cả bọn kéo nhau vào. Không khí sặc sụa mùi hương. Nhân lúc lộn xộn, Hương véo tay Tượng, kéo sang ngách thưa người nhất:
— Ông này là ông gì hở anh?
Cô hỏi, chỉ vào một ông tượng râu dài, tay cầm ngọn bút lông giơ lên.
— Đấy là ông Thiện, ông nhắc nhở mọi người làm điều tốt. Thế Hương đi chùa nhiều chưa?
— Lần này là lần đầu. Lúc nãy thấy đông quá, định về, nghĩ thế nào anh cúng đến nên em cố ở lại.
Tượng nắm chặt tay Hương, vai ghẹ ghẹ vào lưng cô.
— Anh đến đây cầu gì?
— Cầu em! — Mắt Tượng hấp háy — Em muốn cầu gì để anh cầu cho. Trúng xổ số nhé?
Tượng đùa, giọng Hương nũng nịu:
— Không, em có chơi xổ số bao giờ đâu.
— Thế cầu gì nào?
Cắn môi, Hương quả quyết nhìn thẳng vào Tượng. Cái nhìn làm anh rủn người:
— Cầu cho chúng mình lấy nhau.
Tượng tảng lờ như không nghe thấy, anh châm ba nén hương, cắm vào khúc chuối đặt dưới chân ông Thiện. Hương cắm sang bên cạnh. Tượng cúi đầu lầm rầm khấn:
— Con xin cái lành nhiều hơn cái vỡ, con xin đừng ai mồ côi và xin ngài làm cho sự tối tăm ngu muội của đám dân Linh Sơn chúng con mất đi. Lạy ngài!
Lạy ba lạy vội vã xong, Tượng kéo Hương quay ra.
— Anh học cách khấn ở đâu ra thế?
Hương hỏi, vẻ ngạc nhiên xen lẫn kính phục.
— Từ bé anh đã chơi với Phật.
Tượng đưa mắt nhìn quanh:
— Chúng nó biến chỗ nào không biết?
— Mình sang kia, có lẽ ở đây.
Hai người nắm tay nhau lách qua đám người đang sì sụp khấn. Mắt mũi giàn giụa. Thoáng thấy bóng họa sĩ Đặng Cử đứng trên tảng đá cao nhất, vẽ ký họa, Tượng buông tay Hương, lẩn nhanh ra ngoài:
— Ta ra ngoài kia đợi Hương ạ.
Ngồi thở một lúc dưới gốc cây phượng già cỗi, Hương bắt đầu tỏ vẻ giận dỗi:
— Anh không thích em?
Cô quay sang hỏi Tượng. Anh đang thả mắt lên những chiếc cành khẳng khiu, quều quào vào trời:
— Sao em nói thế?
Hương nhắc lại lần thứ hai, Tượng mới thủng thẳng đáp lại:
— Anh không muốn cho mọi người biết, vì chúng mình đã đâu vào đâu đâu. — Tượng nói khẽ, vạch vạch ngón trỏ lên nền đất lấm tấm bụi thành những hình kỳ quặc.
— Cho họ biết thì đã sao. Đây chẳng phải chuyện ăn trộm ăn cắp gì mà sợ.
— Em chưa hiểu. — Giọng Tượng rè rè — Tình yêu đối với người Linh Sơn còn hơn ăn trộm ăn cắp. Anh không muốn họ nghĩ xấu về hai đứa mình. Với lại...
Tượng im bặt, anh không đủ can đảm để nói cho Hương biết. Tượng xoay người nhìn kỹ mặt Hương, cô cụp mắt xuống tránh cái nhìn đầy phán xét đó. Hai cánh mũi dày của Hương phập phồng, đuôi mắt giật giật chạy tóa ra những hằn mờ đen, đó là dấu hiệu cô đang xúc động mạnh. Tượng khẽ lắc đầu. Anh không có cảm tình gì với cô cả. Anh cần cô vì cô tự đến với anh, và cô khơi gợi ở anh sự ham muốn. Ngực Hương cao, dày. Vai Hương tròn và xuôi. Hương mãnh liệt đến độ thú vật. Tượng nhắm mắt nhớ lại thân hình mỡ màng, rừng rực của Hương. Những vết cắn còn hằn sâu nơi bả vai anh. Những tiếng rên và sự quẫy lộn. Tự nhiên Tượng thấy Hương thô bỉ hơn lúc nào hết, vừa ngu dại, vừa xấu xí.
Trên đường về, Tượng và Thanh đi tụt lại đằng sau để nói chuyện. Thằng Thanh người gầy, cao, da bợt bạt vì bệnh. Gia đình bà Thụy Toét có bốn người, lại toàn con trai. Thanh đứng thứ ba, sau nó còn thằng em đi chăn trâu. Thanh ít tiếp xúc, nhưng có vẻ quý và nể Tượng.
— Anh đi săn bao giờ chưa?
— Chưa, bên phố lấy đâu ra rừng. Hôm nào rỗi, đi một chuyến được không?
— Được chứ! — Thanh sốt sắng — Em toàn đi một mình. Chôn trên núi còn nhiều vô kể, cả nhím và sóc nữa. Hồi trước, em với bác nhà anh rủ nhau đi săn luôn. Bác bắn cừu lắm.
— Thế à, bố anh có hay kể gì cho mày không? Tượng nghiêng người tránh ổ gà, mắt đăm đăm phía trước.
— Bác kín tiếng lắm, cứ lầm lầm lì lì, với lại em là trẻ con, chẳng bao giờ bác nói chuyện nghiêm chỉnh cả.
— Thanh này, anh hỏi thật nhé, cứ nói, đừng sợ gì, thế bố anh sống với mọi người thế nào?
— Bình thường, hình như bác có cãi nhau với gia đình ông Kim thì phải. Cái ấy phải hỏi mẹ em. Chỉ có một Vân, em thấy Hùng Càu lại đây chơi, thấy bố anh đang bổ củi, nó chửi mấy câu rồi đi. Bố anh chẳng thèm nói gì. Thằng ấy khốn nạn nhất, hôi nhỏ, bọn em toàn bị nó vứt cặp xuống ruộng. Dạo này chim Tu rúc nhiều quá anh Tượng ạ.
Thanh lảng sang chuyện săn bắn. Có thể nó mê và thích nói về săn bắn hơn. Tượng thất vọng thở nhẹ:
— Ở núi Hột có khỉ không?
— Vào tận vách đá mới có. Tháng trước, ông anh em bắn trượt một con gấu chó. Chủ nhật này đi anh nhé!
— Ư, nhưng tao không có súng.
Tượng uể oải trả lời, anh thấy thấp thoáng tấm lưng to bè của Hương đằng trước.
— Em cho mượn. Ông Thiết nhà em vừa kiếm được khẩu hai nòng, bắn đạn ghém hẳn hoi. Loại ấy tương chết cả hổ.
Chính Tượng cũng không ham trò đi săn lắm, mặc dù hễ nghe đến việc gặp chim to, gặp gấu hoặc hổ là người anh râm ran cả lên. Tượng chỉ thấy da hổ và da gấu ở bảo tàng chứ chưa nhìn thật bao giờ. Nghe nói ở Cát Nê bây giờ vẫn còn hổ. Phiên chợ tỉnh nào, cũng thấy người ta mang mặt gấu, vuốt hổ bán. Lần trước về gặp phiên chợ ngày ba, Tượng thấy có mấy người từ Cát Nê xuống đem một con trăn dài sáu bảy mét. Họ treo nó thõng từ ngọn cây xà cừ xuống, cắt mẩu đuôi, hứng máu vào can rượu. Người mua uống xúm đông xúm đỏ. Mỗi chén giá năm trăm đồng. Tượng rủ bạn cùng đi lúc ấy là Tông, nhưng anh ta không dám uống. Tông to, cao, mặt gãy gục. Gốc gia đình Tông tận Nghệ An, lưu lạc lên đây mấy chục năm, rồi ở lại hẳn. Thỉnh thoảng Tông có làm thơ về tôn giáo, về gia đình. Là người theo đạo Thiên Chúa, thơ Tông kỳ quặc đến ma quái. Giọng đọc của Tông cũng vậy. Hôm nào buồn, hai người lại mua rượu ra chỗ sân vận động uống. Hễ rượu vào, Tông trầm hẳn đi, ngồi xếp bằng tròn như Phật, mặt xa xôi, huyền bí, quên hết cả xung quanh. Điều đó làm Tượng thích vì giống anh.
— Mày sẽ khổ Tông ạ.
Một lần Tượng bảo vậy. Tông chỉ khẽ nhếch mép cười. Nụ cười hiền lành.
— Nhưng mày còn khổ hơn. Tao nói thật đây. Rồi xem.
Và Tông lầm rầm đọc một đoạn kinh Thánh. Trước hôm khăn gói sang đây, Tượng đến tìm Tông và hai người im lặng uống. Đến chén thứ năm, Tông đứng vụt dậy, mắt toàn lòng trắng, huơ tay lên trời:
— Tao thương mày, tao thương mày lắm Tượng ạ. Mày chẳng có niềm tin vào cái gì hết, và mày sẽ khổ ngay khi đã chết rồi. Ờ Chúa nói thế chó nào nhỉ. Để tao nhớ đã. À thế này: "Mặt trời sẽ trở nên mờ tối, mặt trăng không còn chiếu sang, các vì tinh tú sẽ rơi xuống và bầu trời sẽ rung động. Nhân loại sẽ thấy ta đến trong mây, đầy vinh quang uy quyền. Ta sẽ sai các Thiên Sứ ra đi, tập hợp những kẻ được chọn từ bốn phương trời, từ những nơi tận cùng trái đất". Đấy Chúa phán như vậy đây, và mày sẽ bị loại khỏi vòng chọn. Tao chẳng khoái lão ấy lắm, nhưng dù sao lão cũng nhẹ tay với tao hơn, vì tao ít ra cũng nhắc đến tên lão một ngày vài lần.
Tông ôm mặt khóc tu tu như trẻ con làm Tượng bật cười:
— Yên trí, tao sẽ lên Niết Bàn vì sắp sửa ra tay cứu nhân độ thế cả một vùng. Mai tao đi, mày đọc thơ cho vui.
Nói đến thơ, Tông thoắt tỉnh lại, xếp chân bằng tròn như cũ và hắng giọng đọc...
— Thanh này, thích nghe thơ không?
Tượng hỏi làm Thanh ngơ ngác.
— Thơ à, em chẳng nghe bao giờ. Nó khó hiểu bỏ mẹ, anh thích à?
— Ừ, Tượng lầm bẩm — Thơ vĩ đại trong những điều vĩ đại. Nó là phút tâm hồn khỏa thân trên giấy. Nó là Người nhưng không phải do người, thế mới đáng sợ. "Ai rót rượu vào trăng, sương như mặt thiếu phụ về dĩ vãng. Đêm lang thang lang thang, lang thang”.
Tượng dài giọng ngâm khiến Thanh ngớ ra, rồi phì cười.
— Hay nhỉ, cứ như tiếng con cầy bị bán hụt ấy.
Két!
Tiếng phanh rít lên. Thấy đám đi trước dồn túm lại, Tượng nghển cổ lên:
— Cái gì đây?
— Rắn! Kia kìa, hai con mào đỏ chót. Nó đang tơ nhau.
Qua vai thằng Vinh, Tượng thấy giữa đường một đống gì xoắn xuýt vào nhau. Anh nhìn kỹ. Rắn mào thật.
— Lấy đá đáp chết ngay, không nó bỏ đi mất.
Vinh hô lên, rồi lẳng xe đạp, vớ một hòn đá bằng vốc tay, định ném.
— Mày đáp thế, nó về oán chết!
Hương lắp bắp can, làm thằng Vinh cũng hoảng lây, nó rụt tay, thả hòn đá đánh cộc một tiếng xuống đường. Tượng nghe nhói trong ngực, anh lẳng lặng nhặt hòn đá Vinh vừa thả xuống, lăn nhẹ về phía đôi rắn. Chúng vẫn không chịu rời nhau, lại có vẻ xoắn dữ dội hơn.
— Rắn thần anh Tượng ạ — Thanh tái mét mặt thì thầm — Có khi nó ở Chùa Hang cũng nên.
— Làm thế nào bây giờ? — Một cô bạn Hương lên tiếng.
Tượng đưa mắt nhìn đôi rắn, ước lượng khoảng cách rồi nhìn từng đứa một:
— Cứ nép vào vệ đường mà đi, không động đến nó, nó không cắn đâu!
Nói đoạn, anh quả quyết dắt xe lên trước. Sắp đến gần đôi rắn, tự nhiên Tượng thấy rờn rợn dọc sống lưng. Anh rón rén từng bước một vừa đi, vừa canh chừng đôi rắn nằm cách chân có nửa cánh tay. Hương úp mặt vào lòng tay, he hé nhìn theo. Đang trưa, mặt trời xối đúng đỉnh đầu nhoi nhói tận óc.
Chợt một tiếng rú lên. Đôi rắn tách ra, hai con rắn to bằng bọng chân, dài gần ba mét màu tím bầm, ngỏng cổ, đồng loạt phóng về phía Tượng. Anh lẳng xe, co chân định chạy nhưng không kịp. Một con đã quấn chặt nửa mình đến tận khủy chân anh. Tượng vung mạnh, con rắn nhả ra nửa vòng rồi lại xiết lại như cũ. Con thứ hai trườn quanh chiếc xe đổ như tò mò xem xét, nó phè phè chiếc lưỡi như ngọn lửa, rồi đuôi thẳng, nằm lim dim.
— Đứng yên anh Tượng, không nó cắn đấy! - Hương gào lên.
Tượng nhắm tịt mắt, tim ngừng đập. Khắp người anh như sốt. Bình tĩnh, bình tĩnh! Tượng nhủ thầm. Con rắn lắc lư đầu, vươn nửa trên lên tận ngực Tượng. Vòng xiết chặt hơn, máu dồn lên mặt. Tượng nghe rõ cả tiếng rít không khí của con rắn. Có cảm giác buồn buồn nơi đùi. Vành tai Tượng ửng dần rồi đỏ rực lên, vẫy liên tục. Thời gian chết cứng.
Thấy hiện tượng lạ, con rắn ti hí nhìn chiếc tai phẩy gió, và như chợt hiểu, nó nghẹo đầu chúc xuống, thả dần vòng quấn dưới chân. Con rắn thứ hai chợt ngoắt đuôi sền sệt, làm bụi tung lên rồi tuồn xuống vệ đường, nơi có bụi nứa tép rậm rì.
— Nó đi rồi!
Tiếng Hương rên rỉ làm Tượng bừng tỉnh. Anh mở mắt nhìn xung quanh. Cả bọn đang há hốc mồm nhìn Tượng. Mắt chúng biến màu.
— Cả hai con cùng chui vào bụi nứa.
Hương lập đi lập lại câu đó. Cô lần tay khắp người anh như tìm kiếm. Không, không có một vết cắn nào cả. Hương reo lên và đột nhiên cô lao về phía hai người bạn dưới Ao Lang, gục đầu vào vai bật khóc.
Tượng thẫn thờ cúi xuống dựng lại xe, anh lắc lắc ghi đông.
— Anh Tượng lúc ấy như tượng trong chùa — Thanh thì thào.
— Phải em thì chết mẹ nó rồi.
Thằng Vinh dẩu môi, gãi gãi đầu, nhổ toẹt bãi nước bọt vào đám cỏ.
— Đi thôi, không nó quay lại bây giờ — Tượng nói đùa vẻ gượng gạo.
Suốt đoạn đường còn lại, không ai nói thêm câu nào nữa. Chỉ có tiếng nấc của Hương thỉnh thoảng lại rung vào trưa nắng.