Chương 10
Cứ đầu tuần, Tượng lại mang tranh về phổ nộp. Họa sĩ Đặng Cử nheo mắt, ngắm nghía từng bức một rồi phán:
— Vẽ phong cảnh là vẽ sự rung động của tâm hồn. Khi nào thấy rung động thực sự thì hãy vẽ, lúc đó tranh mới đạt chất lượng cao. Bức con đường này chẳng hạn, bố cục lỏng lẻo, màu sắc cứng nhắc, không gây cảm xúc cho người xem. Cây bên góc trái, nên thêm cành để phá khoảng trống phía trên... Nói chung, anh phải vẽ nữa, vẽ thật nhiều và tôi nhắc lại khi rung động thật sự thì hãy cầm bút.
Sau mỗi lần gặp nhau, họa sĩ Đặng Cử lại nhận ra những nét thay đổi trên khuôn mặt Tượng. Đó là dấu hiệu tốt. Muốn làm nghệ sĩ thì phải biết đau khổ tận cùng và sung sướng tận cùng. Đó là triết lý của ông. Trong giới họa sĩ của tỉnh, Đặng Cử là người vẽ nhiều và chịu khó tìm tòi. Tranh của ông mang một phong cách riêng, tách hẳn với đồng nghiệp xung quanh. Họa sĩ thiên về chất liệu sơn dầu, đôi khi ông cũng làm tranh lụa hoặc khắc gỗ, nhưng những loại đó không đạt hiệu quả cao lắm.
Thỉnh thoảng, họa sĩ Đặng Cử cũng xách giá vẽ đến những vùng hẻo lánh để làm tranh, hoặc vẽ pa-nô cho các ngày kỷ niệm lớn của tỉnh. Dạo này ông bắt đầu nhận chép tranh theo đơn đặt hàng. Thành phố này ngày một giàu lên từ khi mở cửa biên giới. Hàng Trung Quốc từ Cao Bằng, Lạng Sơn ùn về. Đâu đâu cũng thấy những đám người chụm đầu bàn tán, những đoàn xe rầm rập rú ga khét đặc khói dọc đường quốc lộ ba. Hàng về xuôi, hàng lên ngược tối ngày. Chợ phình ra tận nhà hát thành phố. Trong các quầy ki-ốt, quần áo, phích nước, đài cát sét chất thành đống. Toàn hàng mang nhãn hiệu Trung Quốc.
Dân phố giàu trông thấy. Nhà hai ba tầng liên tiếp gọi nhau mọc lên. Khu Đồng Quang, trước xơ xác là thế, vậy mà trong thời gian ngắn đã trở thành một địa điểm buôn bán với các nhà đồ sộ và những cửa hàng chìa ra sát đường.
Các cuộc chơi được bày ra, ăn uống, nhậu nhẹt. Người phố cảm thấy mình đã giàu và bắt đầu mua sắm những thứ lạ mắt để trang trí trong nhà. Đấy là nhược điểm lớn nhất của họ. Có một chút dư thừa là nghi ngay đến sự thỏa mãn và ăn chơi. Dân phố chóng thích và cũng chóng chán. Những bức tranh Tàu, tranh Thái lòe loẹt, những cuốn lịch khỏa thân đã bắt đầu nhàm chán và người ta đổ xô vào tranh cổ điển Châu Âu. Họa sĩ được chú ý và có công có việc. Nhiều hôm Đặng Cử nhận được năm sáu đơn đặt hàng của các thương nhân, trong đó có cả cơ quan nhà nước. Tranh được đặt chép đa số là phong cảnh thời Phục Hưng. Sự hỗn độn giữa con người với nơi tĩnh lặng thanh thản. Những phong cảnh hoang sơ với vài ba mảng tường cổ của các đền thờ còn sót lại và dăm chú bé thiên thần ẩn hiện trong mây đã thu hút hàng loạt tâm hồn vốn quen với sự tính toán, vật lộn từ bé.
Tranh đặt vẽ ngày càng nhiều và tăng giá lên cao. Đặng Cử làm ngày làm đêm, nhiều lúc ông muốn gọi Tượng cùng làm, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, đành thôi. Ông không muốn Tượng sa vào sự sao chép. Ông sợ sẽ làm hỏng tư duy phóng túng của anh.
— Nó sẽ làm được một cái gì đấy cho tỉnh ta.
Họa sĩ Đặng Cử thường nói với đồng nghiệp về Tượng như vậy.
— Thày ạ, khi tâm hồn bị rung động vì một con người cụ thể nào đó, thì nó có tác động đến tranh phong cảnh không? — Tượng rụt rè hỏi.
— Có chứ, tác động mạnh là đằng khác — Họa sĩ vung tay vẻ hùng hồn — Xét cho cùng, mọi thứ trên đời này đều liên quan, tác động và chi phối lẫn nhau. Nghệ thuật tồn tại được là nhờ sự rung động liên tục của tâm hồn. Nhất là sự rung động về tình yêu. Tóm lại, dù anh có nắm trong tay mọi quyền lực, dù anh có biết hết mọi bí mật trên thế gian này, nhưng nếu không có tình yêu thì anh cũng chẳng làm nên trò trống gì hết. Tôi đã nói với anh nhiều rồi. Người nghệ sĩ là phải biết yêu và yêu trong sự cô độc. Cái đó sẽ cho nhân loại những kiệt tác vô giá và nói thật, chính nó cũng tạo ra sự đau khổ cho mỗi cá nhân sáng tác.
— Nghĩa là anh không có quyền hạnh phúc? — Tượng gạt đống tranh sang một bên.
— Đúng thế! Anh chỉ được hạnh phúc khi anh không còn thở khí trời này nữa. Đó là điều đáng phục và đáng kính của vai trò nghệ sĩ. Phải biết chấp nhận. Không có ai vĩ đại ngay trong thời đại của mình. Theo tôi, ngay từ bây giờ, anh nên xác định điều đó.
— Không được!
Tượng lẩm bẩm, làm họa sĩ Đặng Cử bật cười. Ông khoanh tay trước ngực:
— Anh còn trẻ, anh chưa hiểu hết đâu. Hãy vẽ và sáng tạo, sau này có đủ thời gian để chiêm nghiệm lại anh sẽ thấy. Không ai cưỡng lại được số mệnh đâu. Nhưng mà đừng bi quan, cái gì cũng có giá xứng đáng của nó. Tôi tin anh.
Trở lại Linh Sơn, Tượng chúi đầu vào vẽ. Anh xách hộp màu lên tận vách đá và vẽ ở đó suốt ngày. Buổi trưa ăn qua loa cơm nắm, ngả lưng một lát, lại vùng dậy làm việc tiếp. Tượng vẽ nhiều về rừng, nhất là những nơi có cây Đắng cay. Cây Đắng cay to bằng bắp đùi, ngạo nghễ đầy huyền bí. Đôi khi, về ngắm lại tranh của mình, chính Tượng cũng thấy rùng mình, về đêm trong ánh đèn dầu phập phồng, những mảng màu trong tranh như cựa quậy và phát ra tiếng hú mơ hồ. Trong hàng chục bức vẽ về núi Hột, Tượng chỉ ưng nhất bức nhìn chếch từ dưới lên. Anh vẽ bức đó vào lúc sẫm chiều, khi ấy lam chướng đùn lên nhiều nhất. Tượng cảm giác trong màn lam chướng mỏng mảnh kia là hàng ngàn nàng tiên đang mê mải với điệu múa cổ xưa nào đó.
Do làm việc quá sức, ăn uống lại kém, người Tượng rộc đi. Mắt vằn đỏ. Tai vẫy liên tục. Cơn sốt quật Tượng xuống giường hai ngày liền. Chẳng cơm cháo gì cả, nằm quanh những bức tranh bề bộn. Tượng lại nghĩ đến Thủy. Ước gì lúc này có Thủy ở bên cạnh để chuyện trò thì hay biết bao. Tượng nhắm mắt nhớ lại khuôn mặt hình trứng, đôi môi thu gọn và cặp mắt mơ màng xa xôi của Thủy. "Mình yêu rồi!" Anh cau có nghĩ.
— Khá lắm! — Họa sĩ Đặng Cử vỗ vai Tượng khi anh đến nộp tranh. — Anh đã có một lối riêng cho tranh của mình. Hãy phát huy nữa anh bạn ạ! — Ông ngửa mặt, vò nhầu mái tóc đã bạc gần hết — Thiên nhiên!
Đúng, chỉ có thiên nhiên là vĩ đại và hoàn hảo nhất, anh sẽ...
— Thầy này — Tượng đăm chiêu cắt ngang lời ông — Rồi sẽ dẫn đến đâu, chính em cũng không biết nữa.
— Cái gì mới được chứ? — Đặng Cử ngạc nhiên, ông đưa mắt dò xét thái độ kỳ quặc của cậu học trò đầy tài năng và bướng bỉnh — Anh định nói về cái gì?
— Tình yêu!
— Ờ, lại tình yêu. Sẽ chẳng dẫn đến đâu cả, nhưng sẽ lại dẫn đến!
— Em chưa hiểu? — Đầu Tượng gật gù.
— Ha, anh chàng kỳ quặc ạ. Này! — Giọng họa sĩ trở nên hóm hỉnh — Anh đang phải lòng một cô ả nào phải không? Tuyệt vời! Giá tôi còn trẻ thì hay biết mấy. Gái vùng quê là mãnh liệt lắm. Ngày xưa, tôi đến Phú Bình vẽ, khối cô mê nhé. Nhưng đừng có tham. Nghệ sĩ là phải yêu. Yêu cho đến chết mới thôi. Tiếc là tôi đã già rồi!
— Nhưng tình yêu ở một phía thì sao? — Tượng nhăn nhó vẻ khổ sở.
— Tại anh cả. Anh bất tài thì anh chịu. Một trong những yếu tố để trở thành nghệ sĩ là chinh phục đàn bà ở tốc độ nhanh nhất. Hãy dùng tài năng của anh mà đè bẹp mọi sự cự tuyệt. Tôi nghĩ rằng đáng lẽ cô ta phải quỳ xuống mà cầu xin tình yêu ở anh.
Tượng lắc đầu buồn bã:
— Cô ta không bao giờ xem tranh của em. Mà nếu có xem thì chắc cũng chả thích!
— Nếu thế sẽ xảy ra hai khả năng — Họa sĩ đi đi lại lại trong phòng — Một là cô ta chẳng biết gì hết. Hai là cô ta vĩ đại hơn anh và tôi hàng triệu lần.
— Điều thứ hai có lẽ đúng! — Tượng xác nhận bừa. Anh không muốn thầy là người không biết gì hết.
— Anh bắt đầu bênh vực cô ta. Vậy thì tình yêu của anh mãi mãi là một sự tuyệt vọng. Tốt lắm! — Họa sĩ xẵng giọng, vẻ tự ái — Đừng bao giờ tôn thờ một ai đến mức mù quáng anh bạn ạ, loại người hư hỏng chính vì sự tôn thờ lẫn nhau đấy nhé. Chiều nay tôi có việc ở hội, anh chớ có giảm tốc độ làm việc.
— Vâng ạ!
Tượng thẫn thờ buộc gói màu vào sau xe, anh đạp ra chợ Bến Tượng. Quanh quẩn một lúc để mua mấy thứ cần thiết xong. Tượng đạp về.