Chương 13
Quấn xong chiếc khăn len quanh cổ, Tượng lấy xe đạp về thành phố. Hai tuần nay, anh không phải nộp bài cho thầy. Rét quá, chẳng muốn bước chân ra ngoài. Đường xóc, bánh xe nhảy chồm chồm, tay lái hết quẹo bên này, lại quẹo bên kia. Bó tranh nảy lộp cộp sau gác-ba-ga, làm Tượng phải ngoái lại liên tục. Anh sợ tranh rơi. Tượng mỉm cười đầy hạnh phúc. Thế là anh thắng. Thắng tuyệt đối.
"Tượng ơi, mẹ em khổ lắm, anh đừng để em phải như thế Tượng nhé! Đừng, anh bỏ tay ra đi. Em sợ. Người ta biết thì khôn. Tượng biết không, em chẳng ngủ được tý nào. Em toàn nghĩ đến anh, Tượng ạ. Em tưởng tượng ra cảnh anh đi một mình trên con đường vắng hun hút. Em gọi nhưng Tượng không quay lại. Mà lúc ấy Tượng mặc áo ka-ki Trung Quốc mới buồn cười chứ. Trông già lắm cơ! Em lạ nhỉ, cứ tưởng tượng lung tung cả. Em nghĩ đến mẹ, em cố gắng hình dung khuôn mặt mẹ mà không được. Em khóc suốt đêm vì tức. Bố mẹ em ngày trước có chuyện gì với nhau thì phải. Bố em ăn nhầm quả cấm canh mà chết. Bác em nói thế. Bác kín tiếng ghê cơ. Tượng này, ông Bồi què định hỏi em cho thằng Vinh, nhưng em không nghe. Bác em có vẻ giận. Sao tự nhiên anh buồn thế? Em có đồng ý đâu. Em nghĩ đến anh, em nghĩ đến một nơi xa thẳm, chúng mình sẽ sống ở đấy cho đến chết. Cả bác em nữa. Anh chán bỏ xừ, chẳng chịu lấy lòng bác em tý nào.
Kìa, anh bỏ tay ra đi. Không được đâu, em không muốn. Anh tham lắm! Tượng ngoan nào, để em kể chuyện cho mà nghe. Bác em quý hoa cấm canh nhất trong các loài hoa. Bác bắt em, mỗi lần đi qua đấy phải ngắt cho bác thật nhiều. Hôm nọ, bác còn mò ra tận nơi để ngắt, về bị cảm. Em mắng cho một trận, bác chỉ cười xòa rồi cố gắng nhổm dậy. Bây giờ bác vẫn phải nằm. Em lo quá, chẳng biết bao giờ thì khỏi. Bác em toàn nói gở thôi, cả bố anh cũng thế. Hồi còn sống, hễ gặp em, bố anh lại bảo "Thúy ơi, con sang chơi với bác cho vui, bác sợ chết lắm!" Rồi lại "Thủy ơi, con đừng nghĩ xấu về bác, bác tủi thân lắm." Em sợ hết hồn. Bác em cấm tiệt, không cho sang đấy chơi. Chắc ngày xưa, các cụ thù nhau. Bố anh chẳng bao giờ nhắc đến anh cả. Thế anh ở đâu hồi bé? Ở đây á, bốc phét!
Lắm lúc, em khóc một mình Tượng ạ. Em sợ anh bay đi mất. Em cứ cuống lên, đang đêm, định chạy sang anh nhưng lại thôi. Em cáu đây này. Anh khôn lắm. Buông ra Tượng. Em chưa muốn. Đừng... đừng làm việc ấy sớm thế. Tượng!
Đạp thêm mấy vòng, Tượng dừng chân cho chiếc xe đạp tự lăn, một bên tai anh vẫy vẫy "Chết hết!" Tượng sung sướng nghĩ thầm. Đến đầu cầu phao, Tượng bóp mạnh phanh rồi nhảy xuống. "Rét ghê thật." Bên kia cầu, mấy chiếc thuyền chở cát nằm lấp lửng, một đầu gối vào bờ như đàn cá ngoi lên thở.
Mặt sông rộng thoáng, dập dềnh theo nhịp chân Tượng. Những chiếc thùng phi đỡ dưới cầu bị dìm xuống, sủi lên ùng ục. Một bên mé cầu, rêu đọng lại, bết thành giải viền loang lổ, lấp lánh những cục bọt từ nhà máy giấy thải ra.
— Rét thế này, anh Tượng cũng chịu khó ghê nhỉ? Vào làm chén nước.
Ông gác cầu đã trở nên quen thuộc với Tượng, phần nào qua, anh cũng dừng lại nói dăm ba câu chuyện với ông. Tượng quý ông già ở tính cả nể, ai không có tiền lẻ ông bỏ qua cho đi. Đối với ông già này, có người để nói chuyện là tuyệt vời nhất. "Anh tính, chỗ này vắng quá, dân bên ấy ít chịu sang phố thì phải. Lắm lúc, cả ngày cũng chẳng gặp một mống nào, chán chết đi được!" Có lần, vui chuyện, ông ca câm với Tượng:
— Mấy tuần rồi, chắc anh Tượng bận thì phải?
— Dạ vâng, cháu có một số việc nên hôm nay mới sang được. Bác không kiêng cái mũ mà đội cho đỡ lạnh.
Tượng ấp chén trà trong lòng tay. Anh ngó qua ô cửa và thích thú reo lên:
— Đẹp quá!
— Hôm nào anh Tượng vẽ cho tôi một bức, thỉnh thoảng ngắm cho đỡ buồn.
Vừa nói, ông gác cầu vừa móc túi ngực lôi ra một gói ni-lông thuốc, vê ngón tay, cuộn điếu sâu kèn, rồi đẩy gói thuốc về phía Tượng.
— Làm điếu cho ấm cổ, anh!
— Thôi, cháu đang ho. Bao giờ thư thả, cháu sẽ ngồi đây vẽ tặng bác. Vẽ ngay chiếc cầu này bác ạ.
— Anh vẽ, thì vẽ cái khác tôi mới thích, chứ cái cầu này nhàm quá, suốt ngày cứ phải kè kè với nó, đâm bị ám. Tôi già, nên thích những thứ trẻ trung một tý, phải không anh?
— Vâng! Tượng cười tủm tỉm, anh giơ tay xem đồng hồ rồi đặt chén nước đứng dậy — Có lẽ xin phép bác, cháu phải đi không lỡ hẹn.
— Anh Tượng đi nhé, lúc nào về lại ghé vào đây. Rét đến rụng tai mất.
Ông già suýt xoa, đầu rụt lại nhìn theo dáng khom về phía trước của Tượng. Gió mạnh. Qua đất Túc Duyên, Tượng ghé vào cửa hàng bách hóa xã, mua hộp kem đánh răng, hai viên đá lửa rồi anh đạp một mạch đến nhà thầy. Ở phố có vẻ đỡ rét hơn. Vừa thấy Tượng dắt xe vào cổng, họa sĩ Đặng Cử đã trách:
— Dạo này anh có vẻ chểnh mảng vẽ rồi đấy. Da hơi xám, môi nứt ra, ở đây rét lắm hả? Phải chịu thôi. Vào nhà đi, tôi có chậu than để góc bàn, hơ tay cho đỡ cóng.
— Vâng! Thầy vẫn khỏe?
— Anh nhìn thì biết, tôi vừa làm xong một bức về Chùa Hang. Anh có đi chợ đấy chứ?
— Có thầy ạ.
Tượng hăm hở tháo cuộn tranh sau xe. Anh đặt ngay ngắn lên bàn rồi ngồi xổm huơ huơ tay qua chậu than đỏ rực. Sau khi uống trà, hỏi han tình hình cuộc sống của Tượng, họa sĩ Đặng Cử giở cuốn tranh, trải từng bức một lên chiếc giường cá nhân. Mồm ông trệu trạo như đang nhai kẹo cao su. Ngắm nghía một lúc, họa sĩ đưa tay xoa xoa chiếc cằm gồ ghề, lởm chởm râu vì lâu ngày không cạo. Bất chợt, ông quay sang hỏi Tượng:
— Cô nàng bên ấy thế nào?
— Khá thầy ạ. Chúng em định trong năm nay tổ chức. Thủy ngoan và tốt. Em dự tính sẽ đưa Thủy sang đây gặp thầy cho biết, nhưng dạo này, bác cô ấy ốm, nên có lẽ đợt sau vậy.
Tượng tuôn ra một tràng, anh kể lể tốt đẹp về Thủy, về những dự định tương lai của hai người.
— Ừ, ừ, tôi đoán thế là tốt. Họa sĩ Đặng Cử thọc hai tay vào túi áo đại cán. Màu trong tranh anh dạo này cứ hớn lên. Ở đời, được cái này thì mất cái kia. Trong cái được đã có sẵn cái mất — Nhìn thẳng vào Tượng, ông nói nhanh — Tôi không thấy tâm hồn của anh đâu nữa. Đáng tiếc. Cái này, cái này, cả cái trong góc kia, dãy là những bức được. Còn thì hỏng cả.
Ngừng một lát, họa sĩ Đặng Cử buông lời cảnh cáo: — Thôi, cuộn lại. Tranh anh đang xuống!
Tượng tiu nghỉu, gục gặc đầu như che giấu sự ngượng ngùng: — Cuộn vào đi. Với lại, mấy hôm nay tôi cảm thấy mệt mỏi. Ta ra uống cà phê đã. Này, anh chưa đảo qua nhà?
— Chưa thầy ạ. Tí nữa em qua, mà có khi mục hết rồi còn gì.
Hai thầy trò vừa đi bộ, vừa chuyện trò. Quán cà phê Liên nằm khuất trong con hẻm, đối diện với ngân hàng thành phố. Cà phê ở quán này ngon có tiếng. Chủ quán là người đàn bà bỏ chồng, độ ba mươi, ba hai gì đó, ngực cao hông rộng, mái tóc lả lơi xuôi xuống hai bờ vai tròn lẳn. Nheo mắt cười với con chó bẹc giê to như con bê tơ. Họa sĩ Đặng Cử búng tay tách một tiếng, vẻ kiểu cách: — Cô Liên cho anh hai ly! — Dạ! Người đàn bà trả lời, bước từ trong nhà ra, uyển chuyển cầm hai chiếc phin nhôm đi tráng. — Mà cô cho trước hai điếu thuốc.
Họa sĩ kéo ghế ngồi xuống bên chiếc bàn bằng trúc. Tượng ngắm nghía con chó hồi lâu, rồi lẳng lặng ngồi đối diện với thầy. — Hai thầy trò nhà họa sĩ có vẻ tâm đắc ghê nhỉ? — Giọng cô chủ quán nheo nhéo với vào. — Nếu không thì tâm đắc với cô vậy.
Họa sĩ châm thuốc, cợt lại, rồi tự cười ha hả một mình. Tượng vẫn xuýt xoa vì con chó. Lần nào đến đây, nó cũng làm anh thích thú vì sự lớn lên trông thấy của nó. Họa sĩ Đặng Cử đã vẽ con chó này một lần, nhưng có vẻ Tượng không ưng bức tranh lắm. Tượng định bụng, tiện dịp, anh sẽ vẽ nó, vẽ thật kỹ ở hai lỗ mũi đen óng, lúc nào cũng phập phồng kia. Hai lỗ mũi đó là bộ mặt biểu hiện tình cảm chính của loài chó bẹc giê. Ở con này, Tượng nhìn ra vẻ khác các con.
— Anh định không về đây nữa? Họa sĩ chợt hỏi, làm Tượng quay lại. Hai mắt nghiêm túc gặp nhau. — Có lẽ thế! — Tượng lí nhí — Em định đóng đô ở Linh Sơn. — Hừm — Họa sĩ phì ra luồng khói, búng bụng ngón trỏ lên cạnh bàn theo một điệu nhạc mà ông thích — Nên nghĩ cho kỹ. Tôi sợ anh sẽ chẳng thành cái gì hết nếu ở đó. Thân nam nhi đừng vướng dải yếm đào! Người ta thường truyền nhau từ xa xưa như vậy. Anh còn trẻ lại đang độ sung sức.
Cô chủ quán bưng hai tách cà phê bốc hơi nghi ngút, khẽ khàng đặt lên bàn. — Cho tôi thêm mấy điếu nữa.
Không nhìn lên, họa sĩ Đặng Cử nói, tay vẫn tiếp tục búng búng xuống mép bàn. — Em sẽ làm được, với điều kiện là có Thủy ở bên cạnh. Em muốn mở toang cái bí mật của mảnh đất ma quái đó nên em quyết ở lại. Với lại, thầy ạ — Tượng trầm đi — Mộ bố em còn đấy. Thầy hiểu em chứ thầy. — Tôi hiểu và tôi biết rằng anh đã đang bước vào nơi ấy rồi. Đừng cản lời tôi. Uống đi. Anh sẽ thành người hay thành thú, điều đó tôi chưa dám khẳng định nhưng có điều này thì tôi dám chắc. Anh sẽ đau khổ. — Thầy từng dạy em như thế. — Nhưng đây là nghệ sĩ. Mà nghệ sĩ thì cao hơn người và vật. Anh chưa đủ độ thoát. Anh đang chung chiêng giữa hai vực đó, tôi nói rằng yêu thì cứ yêu. Nhưng tình yêu phải chơi chơi thôi. Đau khổ và sung sướng cũng vậy. Hãy xác định cả đời này là một trò chơi, và chơi các trò cho đến tận cùng. Đó là nghệ sĩ. — Em nghĩ khác. Tượng hất mái tóc sang bên, tay bấu chặt cốc cà phê. Nghệ sĩ là người khám phá các trò chơi thì đúng hơn. Và nếu anh thích trò nào thì cứ việc chơi trò đó. Nhưng trò anh đang chơi, tuyệt nhiên phải được kết thúc bằng bờ bên kia. Bờ hy vọng! — Hy vọng là bờ à? — Họa sĩ nhại dài giọng, vẻ mỉa mai — Đừng lừa dối giác quan trời phú cho nghệ sĩ. Chẳng có bờ bến nào hết, tất cả chúng ta đều dập dềnh trên sự tuyệt vọng và điều đó dẫn đến sự vĩ đại cho một số cá nhân, vì họ hiểu ra nó, họ hiểu ra, nên coi như một thứ trò chơi. Thế thôi. Ở đời, còn nhiều trò chơi, đừng cắm mặt vào một thứ, anh sẽ bỏ phí và anh sẽ ân hận. Tôi nói ví dụ. Trường đại học mỹ thuật không phải là trò chơi thú vị ư? Sao anh định ngoảnh mặt đi vì cái trò khác, chưa chắc đã thú vị bằng nó. Lạ thật.
Họa sĩ ngừng lại, khuấy mạnh cốc cà phê, Tượng xòe diêm, châm một điếu thuốc, đưa cho thầy. Anh biết rằng, cần phải im lặng. Lúc này họa sĩ đang hăng, dễ xảy ra to tiếng. Rít hơi thuốc dài, vẻ bình tĩnh trở lại, họa sĩ Đặng Cử nghẹo đầu ngắm làn khói xanh lam đang loãng dần. — Tôi không làm việc được mấy nữa, tôi muốn anh sẽ kế nghiệp. Đó là mong muốn lớn của tôi. — Thầy còn khỏe mà — Tượng cụp mắt, thè lưỡi liếm quanh vành môi nứt nẻ. — Này, anh bắt đầu vẽ người, điều đó tôi không phản đối, nhưng cũng chẳng mừng đâu — Họa sĩ đột nhiên chuyển giọng — Vẽ người tức là chưa thành người. Tượng tròn mắt, hộc lên một tiếng. Vành tai anh ửng dần. Tảng lờ, như không nhận ra triệu chứng ấy, họa sĩ tiếp tục nói: — Trước, anh không vẽ người thì họ hiện ra trong tranh anh rất rõ, rõ đến mức, tôi có thể nghe từng hơi thở nặng nề của họ. Giờ anh vẽ người rõ nét thì họ lại biến đâu hết. Kỳ lạ thật. Hãy ngẫm lại đi anh bạn ạ! Hãy chọn đúng trò chơi để thành người. Tôi nói vậy, tức là anh nên về phố. Thế thôi.
Họa sĩ ngửa cổ, uống nốt chỗ cà phê rồi chép miệng đặt mạnh cốc xuống bàn. — Thầy!... Tượng lắp bắp. — Năm nay rét ghê cô Liên nhỉ. Nóng thì nóng chảy mỡ, rét thì chết cả tóc. — Vâng, cái thời tiết nước mình nó quái gở thế. Biết làm sao được.
Cô chủ quán đưa thỏi son lên môi, vừa tô nét trên vừa trả lời vào chiếc gương con. — Cho tôi tính tiền — Họa sĩ đứng dậy, khom người, thọc tay vào túi ngực. — Để em trả thầy ạ! — Tượng nhanh nhẹn rút tiền xộc lại chỗ bàn để thuốc. — Ừ, anh giả cũng được.
Ra đến đường cái, Tượng quay sang họa sĩ, nói nhẹ: — Chốc em đảo qua nhà một chút. — Rét quá nhỉ, tôi lại bắt đầu ho mất — Họa sĩ suýt soa, rụt đầu lại — Mà này, anh Tượng, tôi cần anh bốn hôm. Ở lại có việc, mình tôi làm không kịp.
— Việc gì thế thầy? Tượng hỏi.
— Làm một bức khổ hai mét hai nhân với bốn mét cho thằng nông trường Sông Cầu. Nó đặt treo ở phòng khách.
— Chép hả thầy?
— Ừ, chép cho nó bức "Đầm lầy". Bằng màu dầu. Có lẽ anh làm ngay ngày mai. Tôi đã phác thảo xong rồi.
Câu chuyện trở nên rời rạc. Chép tranh không phải là hứng thú của Tượng, trái lại, đôi khi anh còn thấy khó chịu là đằng khác. Ăn trưa xong, Tượng lững thững đi bộ về thăm nhà. Mới hai tuần không về mà anh cảm giác mọi sự thay đổi nhanh quá. Rặng tre tróc lá, trơ những cành gầy gộc đối xứng nhau như bộ xương cá. Mặt hồ đầy váng phèn dầu, lá sen bị sâu ăn bệch ra, đang rữa và loang dần. Tượng không vào nhà vội, anh lên thăm bà coi chùa. Túp nhà lụp sụp tím tái trong cái rét. Nghe Tượng gọi, một lúc sau bà coi chùa mới lẹp kẹp lê đôi guốc mộc ra mở cửa.
— Đến lâu chưa, vào đây cháu ơi. Mày đi lâu quá, làm bà nhớ mất hết hồn. Lạy Phật, trông khỏe và chững trạc ra.
Bà vồ vập, hỏi thăm Tượng đủ thứ, từ chuyện nọ sang chuyện kia. Bà mừng ra mặt, moi trong góc thùng gạo ra một túm chuối, bà tự tay bóc đưa cho anh. Tượng ăn nhồm nhoàm đầy vẻ tự nhiên, cảm giác bé tí teo sống dậy trong anh, anh như đứa con đang hưởng thụ một cách ngỗ ngáo sự chăm sóc của bà nội. Bà nhìn anh ăn với vẻ thỏa mãn và sung sướng.
— Cháu ở đây khoảng bốn năm hôm nữa — Tượng phùng má nuốt nửa quả chuối còn lại. Anh ném tọt chiếc vỏ ra ngoài hồ — Có nhiều người đến không bà?
— Ít thôi, rét thế này, ngay Phật cũng chẳng muốn nghe ai kể lể. Các cụ quanh đây đang đi dần. Vãn đến trông thấy. Hôm kia bà Thái Lan, bà Đông Điền vừa đi xong. Khổ. Rét thế này, cây cúng chết, huống chi già lão như bọn tôi.
— Khổ là thế nào? Tượng vờ cãi lại. Các cụ là sướng nhất, chóng được lên Niết Bàn hơn lớp trẻ bọn cháu.
Anh cười hì hì, rút bật lửa châm thuốc. Bà coi chùa nhả miếng bã trầu ra lòng bàn tay, vuốt mép chửi yêu:
— Sư bố các anh, chỉ giỏi cái thế. Này, bà nói thật cho con nghe, bà cũng chẳng tin vào Niết này Niết nọ đâu. Cầu các cụ thì cầu cho có lòng tin, chứ đời bà đây, cấm được cái phúc nào cả! Thế về nhà rồi hả? Cố gắng học cái gì thì học, nhanh nhanh rồi về đây cho bà đỡ buồn con ạ. Mày khác hẳn ngày xưa. Râu na la cứ tua tủa như gai tre cả. Xem nào, ờ còn độc cái tai là vẫn thế.
— Nó to thêm bà ạ — Tượng lắc lắc tai mình làm trò.
— Khỉ! To quá lại thành tai voi thì khổ — Cụ móm mém cười, cho miếng trầu vào mồm nhai tiếp — Ờ mà cháu chưa biết, chùa mình mới mất trộm.
— Nhiều không bà? Mất những thứ gì cơ? - Tượng ngạc nhiên, anh thấy như chính mình bị mất điều gì thiêng liêng nhất.
Bà cụ khơi khơi đống than, ghé miệng thổi lửa, làm tro bay loạn xạ lên tóc và quần áo. Nước trâu tứa ra hai bên mép như những dòng máu. Tượng thấy lạnh sống lưng.
— Thời buổi nhiễu nhương, chẳng biết đứa nào đang đêm cậy cửa vào khuân đi hai bức tượng bằng đồng. Nó vứt cả ông Thích Ca ra sau chùa, chỗ gốc si ấy. May bà còn tìm nhặt được. Bất nhân quá con ạ. Là bà nói cái thời buổi bây giờ. Chứ ngày xưa, cửa mở ngày đêm có mất gì đâu!
Tượng lững thững đi một vòng quanh chùa, cỏ càng ngày càng nhiều. Cây si khổng lồ vẫn còn. Trước nó có hai nhánh, sau rồi sét đánh cụt mất một. Nhánh còn lại phì ra, cành chùm qua nóc chùa. Rễ nó buông thành bức mành dày đặc. Đứng bên trái, nhìn thấy khu nhà ông Tấn qua bức màn rễ đó, giống hệt bức tranh tàu thời xưa. Còn bé Tượng có nghe mang máng mọi người nói về ông Tấn. Ông có dự định lớn lắm, nhưng không thành. Sau người dưới xuôi đánh ô tô lên, đưa ông đi biệt tăm ở tận Hà Nội.
Trên này quả là rét. Vì ở trên đỉnh đồi, lại vây quanh là hồ, chùa Phù Liễn thành trung tâm của sự định hướng. Bên phải là đường tròn, bên trái là bến xe và ga. Phía trước mặt trông thẳng về cầu Gia Bẩy. Chùa ngoảnh lưng lại nhà máy cán Gia Sàng. Tượng phóng tầm mắt bao quát toàn cảnh vẻ tư lự. Xét về mặt lịch sử, thành phố như cô gái có một thời xuân sắc với bao chàng trai thèm khát rập rình. Giờ, nó bị bỏ quên vì đã dốc hết mình cho những chàng trai đó. Ngửa mặt nhìn lên những đám mây màu lông chuột, Tượng khẽ nhẩm lại câu thơ hồi học phổ thông "Mình về thành thị xa xôi". Anh ném mẩu thuốc xuống chân, nghển cổ nhìn qua mặt thành phôi Linh Sơn mù mờ cuối mép chân trời. Giá có thể thành người khổng lồ, Tượng sẽ bước ngay đến để gặp Thủy, không hiểu do ý nghĩ như vậy hay vì nội tạng cơ thể, đột nhiên Tượng thấy tim mình giật buốt. Anh loạng choạng bíu vào rễ si ngay cạnh. "Có lẽ mình hút nhiều thuốc". Tượng nghĩ vậy khi đã trở lại trạng thái bình thường. Anh lần từng bậc xuống.
Mùa đông khó có thể phân biệt được trưa hay chiều một cách chính xác. Lũ trẻ đang giờ tan học, ríu rít kết thành từng nhóm đi cho đỡ rét. Chúng có vẻ bước nhanh hơn và nói nhiều hơn những mùa khác. Tượng tựa lưng vào cánh cổng tre, lặng lẽ quan sát chúng với vẻ thèm khát trìu mến. Anh thầm so sánh với những đứa trẻ bên Linh Sơn và tặc lưỡi "Bằng nhau cả. Mỗi nơi có một thứ riêng". Đợi lũ trẻ đi qua hết, Tượng mới nhấc cổng rón rén bước vào sân nhà mình. Rêu mọc loang lổ, xanh rì khắp nơi. Ướt và trơn. Chiếc khóa cửa chính bắt đầu chớm rỉ, thềm nhà lổn nhổn phân chuột. Mấy tấm ván dùng làm phản ngủ ngày trước, Tượng xếp gọn đầu nhà, ai đó đã lấy đi từ bao giờ. Tượng thơ thẩn ngoài sân, anh thấy mình không đủ can đảm bước vào nhà. Anh sợ kỷ niệm sẽ trỗi dậy giết chết mình mất. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng gà kêu, rồi tiếng cần giếng cọt kẹt từ các nhà bên cạnh làm Tượng rủn người.
Xa xưa xa xưa...
Tượng cắn răng, vùng chạy ra cổng như ma đuổi. Ta là đứa con không cha không mẹ.
Ta là kẻ lạc lõng trên cõi đời đáng nguyền rủa này!
Tượng đâm sầm phải một người đàn ông cắp cặp đi ngược chiều với mình. Ông ta hoảng hốt lùi lại, làm anh cuống quýt xin lỗi:
— Bác, bác thông cảm, cháu đang có chuyện vội, cháu xin lỗi — Anh nhặt chiếc cặp da trơn nhẫy đưa trả lại ông.
— Vội gì thì vội, cũng phải nhìn trước nhìn sau chứ — Ông đập đập chiếc cặp để phủi bụi, vẻ bực dọc — Cậu ở phường này hả? Tổ nào? Lần sau đi đứng cho tử tế. Cậu biết tôi là ai không?
Tượng trợn tròn mắt, cơn bực vô cớ ứ nghẹn nơi cổ:
— Là ai cũng không thành vấn đề. Tôi đã xin lỗi, ông đừng giở giọng hăm dọa ra đây.
— Á à, mày lại muốn vào đồn thì bảo! Thằng ăn trộm ăn cắp.
Không thể nhịn được nữa, Tượng vung mạnh tay, giáng một cú đấm giữa mặt người đàn ông.
— Ối giời!
Tiếng thét tắt lịm. Tượng điên cuồng nhảy vào dẫm đạp một hồi nữa rồi cắm đầu cứ men theo con đường mà chạy về. Suốt đêm, Tượng không ngủ được, những khớp lẩy nhức buốt, sưng tấy lên và nóng hầm hập. Họa sĩ Đặng Cử dậy thật sớm, ăn điểm tâm bánh mì xong, ông viết lại mấy chữ để lên bàn rồi vội vàng dắt xe đi. Khi Tượng ngủ dậy, ánh nắng đã le lói bậc thềm. Ngoài trời, đầy một cảm giác rét.
Tượng co ro tụt xuống giường đi đánh răng rửa mặt. Căng quá. Một mình trơ lại giữa căn phòng bừa bộn nhưng màu là màu. Anh rút một cuộn tranh trong ngăn bàn ra vừa xem vừa trệu trạo nhai bánh. Sực nghĩ đến sự việc xảy ra tối hôm qua, Tượng lấy bộp dầu cao, xoa và bóp cho mềm lại các khớp.
Chép tranh quả là công việc nặng nhọc và tẻ ngắt! Tượng lầm rầm rồi giở bản mẫu ra ngắm nghía. Anh bĩu môi lia tờ tranh xuống mặt bàn. Đổ chậu than ra, quạt lửa rồi đặt ấm lên.
Loáng quáng hồi lâu, Tượng mới nghiền xong màu. Anh mở hộp dầu lanh, chấm bút bắt đầu vẽ. Được một lúc, Tượng cảm thấy người nôn nao khó chịu vì mùi dầu, anh chèo lên giường ngồi nhìn ra cửa sổ cho nguôi cơn nôn nao. Lâu rồi, Tượng không vẽ loại dầu này, anh chỉ dùng nước cơm là chính, thỉnh thoảng mới dùng nước keo da trâu. Keo da trâu bốc mùi thum thum, nhưng dù sao cũng dễ chịu hơn cái mùi chết tiệt này.
Tượng lại vớ bút vẽ tiếp. Bức tranh làm anh mệt nhoài vì những chi tiết được tả thực đến kỹ càng. Những chiếc lá li ti, những ngọn cỏ và sắc nước chuyển độ liên tục. "Thằng cha này vẽ đến từng vết mốc trên thân cây, cẩn thận quá". Tượng nghĩ. Dần dần cũng quen và Tượng bị hút theo cảm hứng của tranh. Anh thấy mình đang sáng tạo chứ không phải sao chép lại. Những chiếc lá rầm rì trên mặt nước đen thẫm vì lưu cữu. Một con thiên nga trắng vục cổ vào những bông hoa li ti nở tím trên mặt đầm. Phía xa, những hàng cây thẳng, chắc, rào chặt khu đầm lại. Một bóng người đội mũ phớt, tay cầm súng săn đứng nhập nhoạng giữa những búi cỏ cao ngang ngực. Hắn là hiện thân của sự đe dọa. "Nơi hoang vu thanh tĩnh thế này mà mày còn nỡ đến đe dọa. Thằng chó!" "Tượng nhíu mày, đi một nét đen dọc theo cái bóng"
Đang lúi húi tỉa mấy vết nứt trên một thân cây gẫy, cắm nửa thân xuống nước, Tượng chợt ngừng tay vì luồng sáng ngoài cửa hắt vào tranh bị che khuất. Anh ngẩng lên cau có:
— Ồ Hoa! — Khi định thần Tượng reo lên. Vào trong này, vào đi! Hoa, cô bạn nhà ngay cạnh, ngượng nghịu nhìn bức tranh vẽ dở, thốt lên:
— Ô đẹp quá! Thế Tượng về đây từ lúc nào?
— Hôm qua. Hoa ngồi đây, mình pha nước uống. Thầy bảo phải ở lại để làm tranh này. Đơn đặt hàng đấy. Có lẽ phải mất bốn năm ngày mới xong.
Tượng đi đổ bã chè.
Hoa nhìn theo lưng anh, xoa xoa gò má, khẽ cười.
— Thế Hoa xin làm ở đâu chưa?
Tượng hỏi, mắt lướt nhanh qua chiếc cổ trắng ngần của Hoa. Tay anh run run đổ chè vào ấm.
— Chưa, có dạo xin vào chỗ thêu ren, nhưng ít việc quá, họ lại cho nghỉ. Bên ngoài rét thật.
Bắt gặp cái nhìn hau háu của Tượng, Hoa ngửa cổ vẻ thờ ơ như đang nghĩ tận đâu đâu. Nhớ thời gian đầu ở đây, tai Tượng nóng dần lên, mắt nheo lại vẻ dâm đãng. Anh nói lấp lửng:
— Mình sang bên ấy nhớ ghê cơ!
— Đừng giả bộ nữa — Hoa cười lim dim — Tưởng Hoa không biết gì cả chắc.
Tai Tượng bắt đầu chuyển động mé trong và lan dần ra cả vành. Tượng thụp xuống, vòng tay qua lưng Hoa, bốc cả thân hình cô lên.
— Ơ, dơ nó vừa vừa chứ ai cho!
Hoa đạp chân vào không khí, dựng nắm đấm trước mũi Tượng, vẻ cau có.
— Thì đây cứ cho, làm gì được.
— Kêu nhá.
— Ừ. Mùa đông nhiều gió em ơi, dù kêu rát cổ nhưng rồi ai nghe.
Tượng ư ử ngâm đùa, khom người thả Hoa xuống giường. Anh dùng chân gạt mạnh cánh cửa. Bóng tối sập lại căn phòng.
— Cấm đấy! Đừng tưởng bở.
— Cho người ta!
— Khôi! Thế sang Linh Sơn nhớ thật chứ?
— Thật. Nhớ suýt khóc mấy lần.
— Điêu toa, con trai là hay giở giọng lắm. Này người ta buồn... Đừng... còn cái khuy... Thế nhỡ bác Cử về?
— Chiều cơ!
— Nhẹ thôi.. Tượng nói gì đi.
— Anh yêu em.
— Nhắc lại lần nữa!
— Anh yêu em mãi mãi.
— Lần nữa!
— Chúng mình sẽ yêu nhau trọn đời...
— Tượng ơi...
Quá chiều họa sĩ Đặng Cử mới về, người ông tái xám, run lên vì lạnh. Thấy Tượng vẫn mải mê vẽ, ông gật đầu vẻ hài lòng.
— Chắc chưa cơm nước gì hả?
— Vâng. Có được việc không thầy?
— Được, nhưng cũng chẳng toại nguyện lắm. Nó yêu cầu làm phù điêu. Loại này ngại lắm!
Ngồi cạnh chậu than một lúc, họa sĩ xem đồng hồ, bảo Tượng:
— Bây giờ muộn rồi, vẽ nó sai màu mất, nghỉ rồi đi ăn cơm. Hôm nay ta ra quán nhà Tâm Bích vậy. Thôi chuẩn bị đi.
Tượng cẩn thận rửa và lau kỹ từng chiếc bút một, xong đâu đấy, anh xếp gọn chúng vào chân bàn.
Hai thầy trò ra quán.
Mùa đông trời tối nhanh. Những ngọn điện đường lù mù tỏa chút sáng vàng ệch trong màn sương trắng đục, ngày càng dày hơn.
Buổi tối buồn trong cả những giấc mơ.