← Quay lại trang sách

Chương 15

Đám cháy nhà Châu Cải bắt đầu lúc nửa đêm và kết thúc vào gần sáng. Cũng may mùa đông ẩm ướt nên còn cứu được một số đồ đạc. Cả làng đang trú trong giấc ngủ bóng đè, bỗng bật dậy vì tiếng kêu thất thanh. Người trong nhà châm đèn ngơ ngác nhìn nhau, tai giỏng lên. Chần chừ một lúc, các cánh cửa được mở, và họ thận trọng ló ra. Mở cửa cũng phải thận trọng, đó là kinh nghiệm xương máu của dân làng Phan. Hễ đang đêm có hiện tượng gì khác lạ như gà kêu, lợn róng, hoặc tiếng chân người lạ… tóm lại là sự khả nghi, phải cầm lấy gậy gộc, dao cuốc và cả nhà sẵn sàng nép vào bên tường. Ông bô sẽ rón rén đẩy thanh cửa ra, đẩy thật nhẹ, rồi thò một vật gì đó, đại loại như chiếc thúng chẳng hạn để xem có kẻ nào phục kích sẵn bên ngoài không. Sau đó tất cả mới ùa ra. Khối gia đình vì sơ suất mà mang họa. Nghe tiếng kêu, đã vội vã phóng ngay ra ngoài. Thế là hấp! Một nhát dao, một đường gậy vụt ngang người gục xuống. Bọn trộm có cơ hội tẩu thoát nếu gia đình đông người, còn chỉ một mình thì chẳng đàng hoàng khiêng mọi thứ đi. Trường hợp đó bà Chung, ông Dũng, ông Điện đã bị cả. Lại còn chuyện được lưu truyền như một sự tiếu lâm hiện đại. Đó là gia đình ông Trạch trấu. Nhà ông có chín cô con gái tất cả. Có một lần (dạo ấy còn chưa về phố) ông Trạch nói chuyện tay đôi với bọn trộm hẳn hoi. Nguyên do là chúng dùng dây thép buộc chặt cửa bên ngoài. Nghe gà lợn kêu mà không thể nào mở được cửa để ra cả. Ông bấm đèn pin, soi tận mặt từng đứa một, chúng giắt lưỡi lê sau lưng đi lại nghênh ngang ngay trước sân. Chúng còn chọc ghẹo cả mấy cô con gái đang rúm lại trên giường.

— E bố già, bọn này chỉ xin mấy con què về nhắm rượu thôi!

Chúng cợt nhả bảo vậy rồi hùng hục khênh con lợn hơn bốn chục cân và hai bù gà đi. Ông đứng trong nhà nằn nì qua cửa sổ mãi, chúng mới để lại cho một đôi gà để gây giống. Trộm ấy là tròm xa, mà trộm xa thì dữ lắm. Chúng có thể xả thân với khổ chủ ngay lập tức. Dại gì mà ra cho mang họa, chẳng phải của nhà mình. Có người còn nói rằng, họ nghe rõ cả tiếng nói chuyện của bọn trộm với chủ nhà.

Lại nói về đêm cháy nhà bà Châu Cải. Người ta thận trọng mở cửa ra xem và chỉ trỏ, xuýt xoa nửa vì lạnh, nửa vì thích thú. Lửa bốc cao quá, phải đến hơn chục mét, lửa chập chờn trong cột khói cuồn cuộn. Có thể nhìn rõ cả mấy nhà bên cạnh đang cuống cuồng chuyển đồ đạc ra khỏi nhà vì sợ cháy lây. Vợ chồng bà Châu Cải kêu gào rồi lao qua lao lại đống lửa như con thoi. Đồ đạc vứt ra lỏng chỏng. Đứng ở sân nhà mình nhìn sang, nhưng các ông bố không quên quát nhẹ lũ con:

— Cẩn thận đấy, cứ nhướng mắt, nhướng cổ lên trộm nó lại lẻn vào nhà thì chỉ ân cám!

Hoặc:

— Thằng kia, về ngay, sao mày ngu thế, lỡ nó sập vào người thì sao. Về. Nhà bá ấy có thuốc nô’ đấy.

Còn các bà mẹ lại thủ thỉ:

— Vào đi các con, cháy nhà chứ có gì mà xem. Đứng ngoài này, cảm thì chết! Thuốc thang dạo này đắt, khó mà kiếm được.

— Con chạy sang đấy nhỡ một cái thì khốn. Vào nhà đi, người ta thấy mình đứng xem mà không sang giúp họ chửi cho.

Các ông bố còn bâng quơ:

— Giàu làm gì, cho chết!

Nhà bà Châu Cải cũng vào loại giàu có ở cái làng này. Vốn dĩ, trước ông Châu Cải làm cai ở tận trại cau, sau cách mạng, bị đánh còng lưng, mới chịu về ở đây. Nhà hai vợ chồng ở không, của nả ăn chả hết nên bà Châu đâm ra hay đi chùa đền cúng vái.

Khi ngọn lửa lùn tịt rồi tắt hẳn thì hai vợ chồng bà Châu cũng lả ra vì mệt và xót của. Cháy gần như hết sạch rồi còn gì. Sáng sớm, người ta lục tục kéo đến chia buồn, mặt người nào cứ như đưa đám:

— Nào tôi có biết gì, suốt tối ôm qua, ốm li bì cả. Mất nhiều không bà?

— Đồ đạc cứu được đây à, còn ở đâu nữa không?

Họ quan sát số đồ đạc ít ỏi còn lại vẻ ngờ vực rồi quát lũ trẻ về mang các thứ dụng cụ ở nhà sang dọn dẹp hộ bà Châu. Trong khi vun, nhặt trong đống than, mắt họ cố sục sạo tìm gì đó và người nọ đưa mắt rình người kia. Lũ trẻ cũng làm đầy hăng say, nhiệt tình, thỉnh thoảng, có đứa lại nhận được ánh mắt của ông bô:

— Hăng hái nó vừa vừa thôi, dẫm vào mảnh sành thì bỏ cha mày.

Lửng sáng thì đống tro khổng lồ được dọn xong. Người ta cố ý chào thật to ông bà chủ nhà đang thẫn thờ ngồi như mất hồn dưới gốc cây mít bị lửa táp héo một nửa. Lũ trẻ tìm ống bơ than và đánh trâu ra bãi. Hôm nay có chuyện để nói với nhau rồi. Ông Bồ quay về cất mẻ lưới ngâm từ tối hôm qua, bà Mịch phải bốc nốt mấy luống mía và hái chỗ chè sót. Cô Nhai sang chợ tỉnh mua cho thằng Hòa cái máng để cuối tuần này, nó còn theo bọn bạn đi vào Lĩnh Nham đãi vàng. Phong trào đãi vàng dạo này phát triển ghê lắm, thanh niên các nơi kéo đi ầm ầm. Có người, nghe đâu còn đãi được cả những viên to bằng hạt đỗ đen.

Đám thợ nhà dưới Ao Lang, mới nghe thoáng qua đã vội vàng kéo nhau lên và trong phút chốc, giá cả được thỏa thuận. Tiếng chặt, đục chí chóp vang khắp làng. Tiếng cười nói, quát tháo hỉ hả như đám vui. Căn nhà xinh xinh được dựng lên và ông bà Châu Cải lục tục khuân đồ đạc vào.

— Chờ thời mà làm cái to hơn bà ạ! Thế nào các Ngài cúng phù hộ.

Ông Dũng kỹ nheo mắt, an ủi bà Châu như vậy.

Trong Linh Sơn có làng Phan.

Trong làng Phan có căn nhà mới dựng.

Và trong căn nhà mới dựng có vợ chồng Châu Cải đang ủ rũ.

Bà Châu Cải vốn mê tín. Giờ nằm trong căn nhà còn ầm mùi đất, bà lẩm bẩm gọi tên các Ngài đến phù giúp. Bà chưa hiểu nguyên nhân đám cháy. Trước khi đi ngủ bà đã đích thân dập bếp bằng cả một thùng nước rồi. Còn chậu than để gầm giường thì không phải. Nếu nó cháy từ đó, ắt hai vợ chồng bà chẳng còn. Bà nghe ông nói rằng ngọn lửa bắt từ trái nhà, nơi cây mít to đùng, sống hàng mấy chục năm nay. Khả năng người ta thù oán thì bị loại hẳn, vì bà chưa hề to tiếng với ai, ngoài cái lão Dũng kỹ kia. Mà cái lão ấy cho tiền cũng chẳng dám làm việc đó. Hay là do ma? Óc bà vụt lóe lên. Ma nó hại bà thật sao? Có thể lắm, vì dạo này ma nó xuất hiện nhiều, bà có năng đi cầu các Ngài, nhưng vì ma nó đang thắng thế, nên các Ngài chưa làm gì được. Đúng rồi, nó biết nên nó thù bà. Bà là người của thần tiên, bà vạch mặt chúng nó. Ờ cái loại như thằng con lão Mộc ấy, và chúng đã làm thế này đây. Đồ hèn mạt, bẩn thỉu. Cái thằng khốn nạn mấy hôm nay đi đâu nhỉ? Đích thị là nó rồi, nó sai lũ ma con đi đốt nhà bà.

Ổn định trong nhà xong, bà đến từng gia đình một để làm cái việc gọi là có mấy lời cảm ơn. Nhưng thực chất là bà thông báo cho mọi người biết sự phát hiện của mình. Bà còn phán rằng, đã nghe cả lũ ma nói chuyện với nhau, vì đã vạch mặt chủ của chúng trong vụ đôi rắn mào, nên chúng phải trả thù. "Được rồi, tôi sẽ cho nó biết tay, tôi sẽ đi bẩm với các Ngài, phải trừng trị lũ này cho làng mình yên ổn". Bà dừng lại, chép miệng:

— Rõ, làm phúc phải tội, tôi cầu thần Phật, bà cầu cho làng mình, chứ phải cho riêng tôi đâu! — Bà xịu mặt, khiến chủ nhà cảm thấy áy náy — Một mình tôi gánh chịu hậu quả, nhưng cũng chẳng sao. Chỉ ức cái nhà Dũng kỹ ấy, lại còn có vẻ mỉa mai nữa. Thằng Tượng ấy mà, nó đích thị là ma, tôi đã bảo ngay từ dạo đầu, vậy mà các bác không tin. Giờ thì rõ rồi nhé.

Tuy không ra mặt đồng tình hay phản đối, nhưng tất cả đều trở nên suy nghĩ và họ nhớ lại vụ rắn mào hôm nào. Lối xuống sông gần nhà Tượng bắt đầu thưa dần và không có ai có việc qua đây nữa. Lũ trẻ giúp Tượng trông mấy luống rau và mía, nhân dịp anh đi vắng, cũng chểnh mảng và thôi hẳn. Một hai luống mía ăn được, đã bị ai đó bẻ vắng.

Người ta thấy bà Châu vào nhà ông Kim một lúc, rồi hằm hằm đi ra:

— Con Thủy thế mà láo — Bà càm ràm một cách phẫn uất với ông Bồi. — Tôi vào hỏi thăm sức khỏe bác nó, mới nói đến chuyện thằng con lão Mộc một tý mà nó đã át đi. Nó bênh cái thằng ma đó. Nhãi ranh, mới ba cái tuổi đầu, biết gì mà dám lên mặt rằng không được nói xấu, không được vu vạ! — Bà bĩu môi, dài giọng — Con này nó mù quáng đây mà, không nhớ cái nhục ngày trước của bố mẹ, lại còn... Đúng là quân vố giáo dục. Phải con tôi, tôi cứ thả rọ trôi sông từ lâu rồi. Mất dạy.

Bà xả ra một tràng dài và kết luận rằng, có khi con này phải lòng thằng ấy cũng nên. Ông Bồi ngồi nghe chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Ông đang ấm ức về chuyện thằng Vinh không chịu sang nhà Thủy chơi. Vả lại, ông cũng chẳng ưa bà Châu Cải cho lắm. "Mụ ấy cùng một giuộc với mụ Linh lùn! Cái quân suốt ngày đưa chuyện!". Ông vẫn nói với vợ con như vậy. Dẫu sao bà Châu Cải cũng gieo vào lòng ông một sự bức bối khó nói về Tượng.

— Mày nên tránh xa nó được rồi! — Ông dặn Vinh.

Còn bà Châu Cải, về đến nhà, lập tức mang ngay một bó hương và mấy bông hoa đặt lên chiếc đĩa con, hăm hở đi vào khu miếu của làng. Cái miếu nhỏ, ẩn dưới làn duối dại, ít khi có hương, vì người ta còn bận nhiều việc quá. Rêu mọc át cả dòng chữ Nho khắc chìm trước cổng miếu. Có thể nói rằng, chiếc miếu này do bà Châu độc quyền. Bà dừng lại, sửa áo sống chỉnh tề rồi thành kính bước vào. Bỗng bà Châu rú lên, vứt cả đĩa hoa và mấy thẻ hương chưa kịp đốt xuống bụi bên cạnh rồi lao vụt ra ngoài.

Trời xẩm tới.

Dơi bay chằng chịt trên những vòm lá sót lại đang run rẩy vì lạnh.

"Mỗi lần ngồi vào mâm, bố ta lại cụp mắt, gõ gõ đôi đũa lên miệng bát, giọng bố lạc hẳn.

— Mỗi bát cơm, hai củ lạc!

Đấy là lời nhắc nhở cho những đôi mắt đang hau háu nhìn vào mâm cơm sơ sài của anh em ta. Trận đói trong làng kéo dài đến nửa năm. Lạc ăn cũng trở nên hiếm. Nhà ta lâm vào cảnh như tất cả các nhà khác, và lời nhắc của bố ta cũng là lời nhắc của tất cả các ông bố khác. Lạc rang muối quả là một sự quyến rũ đến khó cưỡng nổi đối với lũ trẻ chung ta. Hạt lạc nhỏ hơn qua cầm canh một tý, nầm chen chúc trong cái bát sắt nông toẻn hoẻn, phô sự giòn bùi và thơm, lại pha thêm cái mặn vị pha muối. Nếu không có lời nhắc nhở đầy ẩn ức, xót xa ấy, chắc chắn rang cơm trộn ngô chưa hết, bát lạc đã hết rồi. Mà lạc lại là món thức ăn duy nhất để lót dạ thứ cơm khó nuốt kia. Chuyện ấy là ký ức, mà ký ức thì luôn luôn gây một nỗi buồn đến tuyệt vọng. Mẹ ta đạp may thuê cả ngày mà bữa cơm cũng không khá lên được. Bố ta làm thuyết minh chiếu bóng mãi tận Gang Thép. Ta chưa từng được sang đó bao giờ. Khi ta ngồi tỉ mẩn nhổ râu và tóc sâu cho bố, bố lại kể chuyện về những lần chinh chiến mãi trên Cao Bằng của mình. Bố bị thương ở lưng và bắp tay phải. Ta thích sờ vào hai vết sẹo to bằng đồng mười xu đó, vì nó niêm và lõm. Rồi cơm trộn ngô lại trở thành ao ước vì bột mì thay thế nó. Mẹ nhìn anh em ta trệu trạo nuốt khan những chiếc bánh bao không nhân mà ứa nước mắt. Ta không ăn nổi nữa và la đùng ra đòi cơm. Bố miễn cưỡng nổi cáu, dĩ nhiên sau mấy cái bạt tai xong, bố lại quay đi chỗ khác, những sợi tóc bạc sớm rung lên. Anh ta phải sắm chiếc dậm đi dọc sông Cầu có khi vào tận phía Ao Lang để kiếm cua, cá. Sáng anh đi, quá trưa hoặc sẩm chiều mới về. Ta háo hức ngồi xổm nhìn những con cua được dốc ra từ chiếc giỏ nan thâm xịt vì nước váng. Những con cua nhỉnh hơn đầu ngón chân cái một chút, thỉnh thoảng lại lạc vào đó vài con cá rô hoặc mấy chú cờ vần. Anh ta gầy như ta. Anh ít nói và cục tính. Chẳng hiểu sao, trong một lần vui chuyện, ông hàng xóm lại gọi anh ta là Toòng Lơ. Có lẽ anh giống một người nào có tên như thế và bắt đầu từ đó là:

— Hôm nay Toòng Lơ đi làm mấy con cua về cải thiện, bố sẽ cắt ít cải về nấu!

— Thế nào Toòng Lơ? Củi sắp hết rồi, chịu khó một tý vậy. Ta thích thú chạy khắp làng, reo âm lên: "Ôi Toòng Lơ, Toòng Lơ! Anh tao là Toòng Lơ nhé, chẳng thằng nào có anh tên như vậy cả. Tao thách chúng mày!"

Anh không thích tên đó, nhưng cũng chẳng phản đối. Anh mê bóng đá nhất trần đời, trận nào anh cũng được chỉ định làm thủ môn. Bây giờ bụi cây này, con đường này, dòng sông này, ta mang máng tìm gì đó mà chính mình cũng không hiểu nữa. Tìm những bọt tăm sủi lên từ chiếc mõ dậm anh ta sục từ thủa nào ư? Hy vọng gì. Thời gian đã xóa đi tất cả. Bố từng bảo thế này:

— Thời gian đi qua bóng đen cuộc đời mỗi người và trút thêm lên đó một chiếc bóng khổng lồ nữa.

Ta chẳng hiểu gì hết, ta chẳng thấy bóng đen nào đi qua mình cả, ngoài cái mảng đen đặc của màn đêm muôn thuở. Đêm quả là khủng khiếp. Mẹ bảo rằng, cứ gần sáng, lại nghe tiếng con gì ư hử đi lộp cộp qua đường.

— Có lẽ con sơn dương lạc mình ạ!

Nghe mẹ bảo, bố mượn cơ quan một khẩu súng dài, hết buổi chiếu phim, đạp lóc cóc từ phố về, cất xe là ra ngay bụi cây cạnh đường để phục. Bố phục ba đêm liền nhưng chẳng thấy gì.

— Mình nghe quáng thế nào chứ tôi chẳng thấy gì sất. Chỉ muỗi là muỗi — Bố càu nhàu.

Mẹ ta chẳng nói, chẳng rằng, cắm cúi vào đường chỉ. Hôm sau nữa mẹ bảo lại nghe thấy, lần này rõ và chậm hơn. Nhưng bố đã chán và lảng sang chuyện khác. Bố kể cho ta nghe về sự tích hang dơi. Ta tò mò muốn biết lắm, ta bíu tay bố hỏi, bố ngần ngừ rồi nói:

— Đấy là ma con ạ. Ma có tiếng nhưng không có hình. Đất này gàn dở thế đấy, cứ đi chơi đêm, thế nào nó cũng bắt.

Mà ta hay được đi chơi hoang thật. Ta đi một mình vì không thích lũ bạn đồng niên nữa. Chúng vạch quần, đái vào gốc cây rồi cười bảo ta:

— Tràng của mày đây này!

Ta đi, lay quơ quơ phía trước như bắt trăng. Bụng ta bình bịch đầy bột mì. Ta nói chuyện với trăng suốt đêm nếu không bị mẹ và các chị lôi về đi ngủ.

— Nó bị bệnh! — Mẹ rưng rưng bảo bố như vậy.

Ta không được chơi đêm nữa, ta phải ở yên trong nhà, và mặt ta lõm đi trông thấy. Ta thèm trăng vì trăng hiền lành xua đuổi bóng đêm đen kịt.

— Nó là người của trời đất, biết làm sao được.

Bố nói vậy rồi lại cho ta đi, nhưng ta không muốn đi nữa. Ta sợ mình bị bệnh.

Gia đình ta có uy tín nhất làng, mà đôi khi vẫn xảy ra những trận cãi nhau với hàng xóm. Chao ơi, cái nhau là bệnh kinh niên ở đây rồi. Người ta thích cãi nhau. Đời buồn quá, tẻ nhạt quá, khô quá và phải cãi nhau để xả bớt bức xúc ra ngoài. Ta hoảng sợ trước sự cọ sát đến đổ máu của kiếp người. Ta kinh tởm những con mắt, những đôi tai giỏng lén đứng xem đầy vẻ thích thú. Ta đau đớn vì những âm thanh chói tai phóng ra. Ta căm ghét tất cả, ta phỉ nhổ tất cả! Ha ha ha! Ta phỉ nhổ tất cả!

— Kìa bông hoa nức nở trong yên tĩnh trăng hoang vu lượn sóng trên đồi. Kia, chiếc lá chót cành, hơi thở cuối run lên hồn thơ ngây.

Thanh khó nhọc đọc từng đoạn thơ trong suốt cuốn sổ mà Tượng đưa cho. Nó cáu bẳn vứt cuốn sổ vào bụng thằng Vinh, lúc đó đang nằm chềnh ềnh trên tấm phản.

— Tao chẳng hiểu gì cả. Thế mà anh Tượng bảo là hay lắm.

— Thơ với thiếc, để tao xem!

Thằng Vinh nhổm dậy, lật lật cuốn sổ ở đoạn giữa, mắt nhíu lại, dài giọng:

— Gì đây? À thế này mới khiếp chứ: "Đi và nhớ, đi nghe trong tưởng tượng - Những lối mòn mất hút giữa vùng khuya" đốt mẹ nó đi mày ạ, mệt cả óc.

— Đừng có dại, anh Tượng về thì nguy chứ lại! Thanh can.

— Yên tâm, nếu có hỏi, cứ bảo là đưa cho con Thủy xem rồi. Trước tao đã đốt tranh của nó. Vẽ như cứt.

Vinh xé mạnh một tập trong sổ, vo mạnh, ném vào chậu than đang hồng rực. Tiếc rẻ nhìn những tờ giấy ưỡn cong, giãy giụa trước khi bùng thành lửa, bỗng mắt Thanh sáng lên:

— Này, kiếm sẵn về, lấy giấy bọc lại nướng ăn cho khoái, Vinh ạ.

— Thì đi, lấy bái nhà cô Nhài chứ?

— Ừ!

Thanh gật đầu, chạy vội vào buồng, lôi từ vách xuống chiếc túi vẫn thường đeo đi sàn. Ra khỏi cổng nhà, cái rét làm hai thằng rúm lại, vai so ro vẻ khổ sở.

— Anh Tượng, chính ra không bằng ông Mộc, mày công nhận không? Thanh quay sang Vinh bắt chuyện — Ông Mộc ngày xưa giỏi võ, lại bắn nhạy vô cùng, chứ anh Tượng trông thế mà nhát gan lắm. Hôm đi săn, tao đã kể cho mày rồi nhỉ. Mặt anh ấy tái mét. Thế mà anh ấy bảo tao là sẽ cải tạo cho làng mình. Bốc phét — Thanh chép miệng.

— Cái mã nó mà cải — Vinh lầu bầu, đẩy nước bọt qua kẽ răng — Bố tao bảo nó giống ông Mộc y hệt.

Bãi sắn nhà cô Nhài, rộng và tốt nhất làng. Những cây sắn béo mập, tróc hết lá cành dày chen nhau thành một vòm như rào tre. Hai thằng lẩn vào giữa, thận trọng lay từng gốc một, chọn củ to nhất, bẻ đút túi.

— Bây giờ, tao đi trước, — Vinh rỉ tai Thanh. — Nếu có người, tao huýt sáo, là mày lẳng ngay vào bụi, nhớ chưa. Cô Nhài hay đi coi lắm đấy.

Nói đoạn, Vinh co ro đi trước, tai vênh lên. Thằng Thanh khoác túi lệch bên vai, thỉnh thoảng lại ngoái về phía sau. Cái lạnh làm mất cảm giác khắp mặt nó. Đến chỗ ngoặt, bỗng nhiên một bóng người từ đâu lao vụt lại. Vinh chưa kịp huýt sáo, cái bóng đã đờ ra, rồi sụp trước mặt:

— Con lạy ông, con lạy Ngài, tha cho con...

Cái bóng lắp bắp rồi ngã vật xuống.

Chẳng kịp hiểu gì cả, hai thằng vùng chạy. Thanh đeo túi sắn nên thở hồng hộc. Nó tụt lại đằng sau Vinh, nghe có ai thình thịch đuổi sát theo mình.

Vinh không về nhà Thanh nữa, cứ cắm mặt, nhảy qua các bờ rào rồi nằm vật ra gốc sung cạnh sông thở. Còn Thanh, kín trạm cổng nhà, nó bình tĩnh, dừng lại xem xét chung quanh, sau đó đẩy cổng nhẹ nhàng lách vào. Chưa kịp bỏ túi sắn khỏi vai, Thanh nhảy người, lặng đi như bốc hơi khỏi mặt đất. Phía cổng nhà ông Kim có tiếng cú vọng lại.

Cú cù, cú cù, cú cù!

Ba tiếng ghê rợn như tạc vào đêm.