- 2 -
Sách vở thường viết rằng sự thụ thai xảy ra khi tinh trùng xâm nhập vào trứng, và tất cả đều dùng từ đó - xâm nhập. Sách nào cũng thế! Cứ như sự sống bắt đầu bằng một trận chiến vậy:“Hãy đột chiếm lấy trứng nào!” Hoặc, có thể là, như một sự thâm nhập của các điệp viên hay những kẻ phá hoại:“Chúng ta sẽ im lặng áp sát trứng, rồi sau đó bò vào qua cửa sổ nhà bếp khi cô ả ngủ say!” Tôi thật không hiểu, tôi chẳng hiểu tại sao lúc nào cũng phải gọi là xâm nhập. Sao không gọi là gặp gỡ, hoặc hợp nhất, hay gần gũi nhau?
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
TRONG SẢN KHOA, khi sự việc trở nên xấu đi, chúng sẽ xấu đi rất nhanh. Chúng rơi tòm xuống vực. Phút trước mẹ và thai nhi còn vui vẻ thưởng ngoạn phong cảnh trên đỉnh núi, phút sau họ đã ngã nhào xuống vực sâu, rơi tự do lên đất đá và cây cối tít phía dưới.
Tôi thường nghe các bác sĩ ví von như thế suốt thời gian tôi trưởng thành. Và dĩ nhiên hầu như mỗi một bác sĩ sản phụ khoa mà chính quyền bang trình ra trước bồi thẩm đoàn khi mẹ tôi bị xét xử đều có một bài diễn văn của riêng họ mô tả chuyện sinh đẻ giống như làm xiếc trên không.
“Trong đa số trường hợp, việc sinh con cũng giống như lái xe ở miền đồng quê. Sẽ không có gì bất thường xảy ra. Nhưng đôi khi - đôi khi - bạn sẽ đâm phải một khối băng trong suốt và xe trượt ra khỏi lòng đường, hoặc một chiếc xe chở rác sẽ mất tay lái và lao vào xe bạn.”
“Hầu hết các ca sinh đẻ không đòi hỏi bất kì sự can thiệp y tế nào. Đó là một quá trình tự nhiên mà phụ nữ đã thực hiện kể từ khi, xem nào, kể từ khi bắt đầu có sự sống. Nhưng trí nhớ tập thể của chúng ta đã không còn kí ức về việc dù cho sinh đẻ là chuyện tự nhiên, nó vẫn rất nguy hiểm. Hãy đối mặt với sự thật, đã có lúc phụ nữ và trẻ em liên tục mất mạng trong quá trình sinh nở.”
Quan điểm của họ lúc nào cũng giống nhau: Phụ nữ không nên sinh con ở nhà với mẹ tôi. Họ nên sinh trong bệnh viện với bác sĩ.
“Bệnh viện cũng giống như ghế ngồi an toàn cho trẻ em trong xe ô tô: Nếu sự cố xảy ra và có va chạm, chúng tôi có dụng cụ để kéo em bé ra khỏi lò,” một bác sĩ nhấn mạnh, trộn lẫn các hình ảnh ẩn dụ và nhầm lẫn một cái dạ con với một thiết bị nhà bếp của Sears[5].
Vào cuối những năm 1970 và đầu 1980, mẹ tôi là một trong khoảng một chục bà mụ độc lập hay còn gọi là “không chuyên” làm việc đỡ đẻ tại nhà ở Vermont. Hầu như không có bác sĩ nào làm việc đó. Chi phí mua bảo hiểm cho sơ suất trong quá trình đỡ đẻ tại nhà rất đắt, và đa số bác sĩ sản phụ khoa tin rằng sẽ an toàn hơn nếu đưa một đứa trẻ từ tử cung ra ngoài đời ở trong bệnh viện.
Mẹ tôi không đồng tình, bà và các bác sĩ khác thường dùng số liệu thống kê để đấu với nhau. Khi còn bé, tôi thường nghe những cụm từ và con số bay qua bay lại như quả cầu trên sân cầu lông, và tôi rất thích thú với sự dứt khoát đằng sau những từ ngữ nghe có vẻ rất bệnh viện, rất sạch sẽ. Bệnh tật của sản phụ. Tử vong ở trẻ sơ sinh. Tử vong khi sinh.
Từ sinh non mê hoặc tôi. Sinh non. Lúc chín hay mười tuổi, tôi cứ nghĩ nó có nghĩa là một ca đẻ ở chốn luyện ngục, một ca đẻ diễn ra mãi mãi.
“Nó vẫn còn đang được đẻ à?”
“Phải rồi. Đáng sợ quá nhỉ? Bây giờ đang đẻ đến năm thứ ba rồi đấy...”
Mẹ tôi tin rằng đẻ tại nhà rất an toàn, ít nhất một phần bởi lẽ bà từ chối đỡ đẻ tại nhà cho những ca mang thai có nguy cơ cao. Ví dụ như phụ nữ có huyết áp cao. Tiểu đường. Sinh đôi. Bà nhấn mạnh những thai phụ đó phải vào bệnh viện, ngay cả khi họ nài nỉ bà đỡ đẻ tại nhà cho họ.
Và bà chưa bao giờ chần chừ khi phải chuyển một thai phụ đang chuyển dạ cho bệnh viện, nếu có gì đó khiến tim bà đập nhanh hơn một chút - như bà đã có lần mô tả cảm giác đó với tôi. Đôi khi vì linh cảm của mẹ tôi về một ca sinh không tiến triển trong nhiều giờ liền, và bệnh nhân của bà mệt lả. Đôi khi mẹ tôi có thể đề nghị nhập viện vì bà sợ một chuyển biến nguy hiểm đang cận kề, điều mà giới y khoa mô tả một cách hoa mỹ là “sự cố không lường trước”: nhau bong ra khỏi thành dạ con trước khi đứa bé chào đời hoặc những dấu hiệu thai suy như nhịp tim giảm.
Dữ liệu cho thấy trong suốt những năm mẹ tôi hành nghề, chỉ có khoảng bốn phần trăm trường hợp bà đưa thai phụ đang chuyển dạ đến bệnh viện.
Trong đầu tôi không hề nghi ngờ chuyện mẹ tôi và giới y khoa không ưa nhau. Nhưng bà không bao giờ để những mâu thuẫn ấy ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân. Đó là một thực tế.
Tôi có thể bắt đầu câu chuyện của mẹ tôi bằng cái chết của Charlotte Fugett Bedford, nhưng như thế đồng nghĩa với việc tôi đã chọn cách mở đầu cuộc đời bà bằng một điều mà đối với bà là khởi đầu của dấu chấm hết. Nó sẽ khiến bạn nghĩ rằng điều quan trọng nhất trong cuộc đời bà chính là thử thách nghiệt ngã ấy, điều đã biến gia đình tôi thành một phần trong chú thích nhỏ đầy bi kịch của câu chuyện.
Vì vậy tôi sẽ không làm thế.
Vả lại, tôi xem đây cũng là chuyện của tôi, và là lý do tại sao tôi tin rằng trẻ em cũng trở thành sứ mệnh của tôi.
Và tôi tin rằng câu chuyện của chúng tôi bắt đầu vào đầu mùa xuân năm 1980, tròn mười tám tháng trước khi mẹ tôi chứng kiến cảnh cuộc đời mình tan nát trong một phòng xử án đông người ở Bắc Vermont, và ít nhất một tháng trước khi gia đình Bedford chuyển đến bang chúng tôi.
Đây là những gì tôi nhớ: tôi nhớ năm đó bùn đất là một cơn ác mộng, nhưng nghề nấu đường thì tuyệt vời. Thường là như thế. Nếu bùn rất bẩn, thì cây phong sẽ tốt, vì bùn và cây phong là anh em họ về mặt khí tượng học với nhau. Kiểu thời tiết biến những con đường bẩn ở Vermont thành cát lún trong tháng ba - một mùa đông lạnh lẽo, đầy tuyết, nối tiếp bằng một mùa xuân với ngày ấm và đêm lạnh, rất lạnh - cũng kích thích cây phong sản sinh ra thật nhiều nhựa ngọt, tuôn chảy như những dòng sông cuồn cuộn nước tan ra từ băng và tuyết.
Gia đình nội ngoại của tôi đã không còn nấu đường nữa, vì thế kí ức của tôi về tháng ba năm ấy tập trung nhiều vào bùn hơn là vào nhựa đường: Với tôi, tháng ba ấy chủ yếu là một dòng chảy không dứt của lớp bùn nâu nhớp nhúa. Bùn bám lên đôi bốt của tôi đến tận cẳng chân mỗi khi tôi dò dẫm bước qua đoạn đường bốn mươi lăm mét từ đầu đường chạy xe vào nhà từng là đất tơi đến căn phòng nhỏ nằm giữa cửa phụ và nhà bếp, được gọi là phòng bùn vào những ngày đó: Sàn và tường lúc nào cũng phủ một lớp bùn. Khi bùn ướt, nó có màu thuốc lá sậm; khi bùn khô, màu trở nên nhạt hơn và giống loại bột mà lúc đó chúng tôi dùng để pha sữa chocolate.
Nhưng dù ướt hay khô thì bùn cũng xuất hiện khắp nơi trong hai tuần tháng ba năm 1980. Những con đường lầy lội bắt đầu biến thành những miếng bọt biển khiến xe cộ liên tục bị lún và mắc kẹt, đôi khi lún sâu đến nỗi người lái xe không thể mở cửa để thoát thân mà phải trèo ra ngoài qua cửa sổ xe. Sân trở thành đầm lầy, khiến lũ chó chạy lệt bệt như đang đi. Hầu như gia đình nào trong thị trấn chúng tôi cũng trải vài ba tấm ván dài hoặc tấm phản để làm cầu bắc qua những vũng bùn trên thảm cỏ, hoặc bắc cầu nối từ điểm đỗ xe đến trước hiên nhà.
Mẹ tôi đỗ chiếc xe nhà ga[6] của bà ngay cạnh đường nhựa, cuối đoạn đường chạy xe vào nhà của chúng tôi, như bà vẫn thường làm vào mùa đông và đầu mùa xuân, để đảm bảo đến nhà bệnh nhân kịp lúc. Dù vậy, thỉnh thoảng vẫn có những ca sinh mà ngay cả người quyết đoán như mẹ tôi cũng không thể đến kịp. Khu nhà cũ mà mẹ dùng làm phòng làm việc có một bức tường treo đầy ảnh chụp những đứa trẻ sơ sinh do mẹ tôi đỡ đẻ với bố mẹ chúng, và một trong những tấm ảnh đó chụp một đứa bé đang nhú đầu ra còn người mẹ đang được chị gái đỡ đẻ. Người chị đang kẹp điện thoại giữa tai và vai trong lúc chuẩn bị đỡ lấy đứa bé. Mẹ tôi đang ở đầu dây điện thoại bên kia, hướng dẫn người chị cách đỡ đẻ, vì một trận bão tuyết đã khiến mẹ tôi lẫn đội cứu hộ của thị trấn không thể đến chỗ thai phụ trước khi đứa bé quyết định đã đến lúc chui ra.
Mùa xuân năm đó, ngay cả một thành phố chẳng có gì ngoài đường trải nhựa và vỉa hè cứng như Montpelier - thủ phủ của bang - cũng đã xuất hiện những lớp bùn bóng mượt trên hàng dặm nhựa đường và xi măng.
Nhưng nghề nấu đường thì rất thuận lợi và đó là năm bội thu mật đường. Bạn thân của tôi, Rollie McKenna, có một con ngựa, và dù cả hai chúng tôi không nên cưỡi ngựa cùng lúc, nhưng chúng tôi vẫn cưỡi thường xuyên. Tháng ba năm đó, chúng tôi cưỡi ngựa lên xưởng đường của nhà Brennan sau giờ học ít nhất ba, bốn lần để ngửi làn khói ngọt ngào bao trùm khu vực khi Gilbert và Doris chậm rãi nấu nhựa cây thành nước mật đường.
Đương nhiên, còn có nhiều lý do khác để cưỡi ngựa lên quả đồi nơi nhà Brennan treo hàng trăm chiếc xô trên những cây phong. Chúng tôi còn cưỡi ngựa đến đó vì đường đến xưởng đường sẽ dẫn chúng tôi đi ngang qua sân bóng của thị trấn, nơi Tom Corts và các bạn của anh thường đứng hút thuốc.
Vào năm mười hai tuổi (và sắp lên mười ba), tôi thường không quản ngại cưỡi ngựa, chạy bộ hoặc đi bộ nhiều cây số để xem Tom Corts - lớn hơn tôi hai tuổi và đang học lớp chín - hút thuốc. Có thể tôi cũng sẽ không quản ngại vượt nhiều cây số để xem Tom Corts chất củi hay sơn ván che. Anh lúc nào cũng mặc áo cổ lọ, thường là màu đen hoặc xanh nước biển, và chúng luôn khiến anh trông khá ngầu. Nhưng anh lại có mái tóc vàng rất nhạt, và đôi mắt màu xanh lục trông chẳng khác gì con gái, khiến cho tinh hoa của nét lãng tử hấp dẫn bao trùm xung quanh anh trở nên rất thi vị. Tom là người đầu tiên trong số nhiều chàng trai hút thuốc có tâm hồn nhạy cảm mà tôi yêu mê mệt, và dù chưa bao giờ thử hút thuốc, nhưng tôi biết rất rõ vị khói trên đầu lưỡi mình.
Tom Corts hút Marlboro đựng trong hộp chống móp, anh thường cầm điếu thuốc giống kiểu những tên tội phạm nguy hiểm trong phim: bằng ngón cái và ngón trỏ. (Vài năm sau khi tôi lên trung học, một đứa con trai học bằng lớp tôi và là đệ tử của Tom đã dạy tôi cách cầm một mẩu theo kiểu như vậy.) Anh không hít vào nhiều, có lẽ chỉ vừa đủ để làm cháy điếu thuốc, rồi giữ cho nó cháy; phần lớn thời gian điếu thuốc từ từ biến mất trên tay anh, để lại tàn trên đất hoặc bùn của sân bóng, vỉa hè, hoặc mặt đường.
Tom nổi tiếng làm cho người lớn phát điên, dù hiếm khi theo cách mà họ nghĩ là họ phải - hoặc có thể - kỉ luật được anh. Tôi nhớ mùa đi săn đầu tiên khi anh được giao một khẩu súng và đem nó vào rừng với những người lớn tuổi hơn trong hội đi săn, anh đã bắn trúng một trong những con hoẵng đực to nhất bị hạ trong năm đó ở hạt. Tuy thế, niềm kiêu hãnh của cánh đàn ông dành cho chàng trai trẻ đã giảm sút khi họ trông thấy Tom làm dáng trước ống kính trong tấm ảnh mà ông chủ cửa hàng bách hóa chụp cho anh và con hoẵng để treo lên bức tường danh vọng hằng năm của ông ta. Tom quàng một tay qua cổ con hoẵng đã chết và giả vờ khóc, tay kia giơ cao tấm biển trên đó anh viết tên con hoẵng, “Vô tội.”
Người trong thị trấn cũng tin rằng Tom là kẻ cầm đầu nhóm trộm những lon sơn màu vàng mà đội công nhân làm đường dùng để kẻ vạch trên đường cao tốc, và vào một lễ Halloween dùng nó phủ lên bức tường ngoài phòng làm việc của tân thư kí tòa thị chính. Tòa nhà đó, một vật thấp lè tè chướng mắt mà ngay cả các ủy viên hội đồng thị chính cũng không thể chấp nhận nổi, là một sai lầm mà toàn thể thị trấn hối tiếc, và cả cảnh sát cấp hạt lẫn cấp bang đều chẳng buồn nhọc công tìm xem ai là thủ phạm.
Vào bất kì ngày nào, rất có thể thấy Tom ở đâu đó đọc một quyển sách bìa mềm về thần thoại Hi Lạp - không phải bài tập về nhà - hoặc một quyển tạp chí về trượt tuyết bằng xe; anh thuộc kiểu người khó đoán, có thể bỏ một chuyến tham quan của lớp học đến cung thiên văn ở St. Johnsbury, nhưng sau đó lại viết một bài luận về lỗ đen khiến thầy giáo phải kinh ngạc.
Thoạt đầu, bố tôi không thích Tom, nhưng chưa đến nỗi khiến ông can ngăn tôi tìm cách thu hút sự chú ý của anh, hay bảo rằng tôi và Rollie không nên cố gắng lấy lòng bạn bè anh. Tôi cho rằng bố tôi - mẫu kiến trúc sư ngăn nắp, thường mỗi tối sắp xếp những đồng tiền xu theo kích thước trong suốt cuộc đời, để vào một buổi sáng bất kì tôi có thể tìm thấy trên bàn làm việc của ông những tháp nhỏ đồng 25 xu, 5 xu và 10 xu - nghĩ rằng Tom hư hỏng quá. Bố tôi xuất thân từ một gia đình thành đạt - dòng dõi những người nông dân đã thực sự ăn nên làm ra trên nền đất đá lởm chởm của Vermont, tiếp nối bằng hai thế hệ doanh nghiệp nhỏ thành đạt - và ông nghĩ nòi giống không mấy tốt đẹp của Tom có vấn đề. Dù biết rằng Tom rất thông minh, nhưng ông vẫn lo sợ anh kết cục sẽ giống như hầu hết những người mang họ Corts ở Reddington: ngày làm việc ở garage ô tô bừa bộn trông như một nghĩa trang ô tô, còn đêm thì mua bia Budweiser bằng tem phiếu. Đó có thể không phải là một cuộc đời tồi tệ nếu nhớ tiêm văcxin ngừa uốn ván đủ liều, nhưng đó không phải cuộc sống mà bố tôi mong muốn cho đứa con duy nhất của ông.
Mẹ hiểu tại sao tôi thấy Tom đáng yêu, nhưng cả bà cũng bảo lưu ý kiến của mình. “Có thể còn có người tệ hơn cả cậu Tom Corts trên thế gian này,” bà từng cảnh cáo, “nhưng mẹ vẫn muốn con cẩn thận với cậu ta. Hãy tỉnh táo.”
Cả hai đều đã đánh giá thấp Tom, như họ sẽ nhận ra vào năm sau đó. Anh đã luôn có mặt bên tôi khi tôi cần anh nhất.
Vào mùa bùn năm 1980, con ngựa Witch Grass của Rollie tròn hai mươi tuổi, và dù những năm tháng tốt đẹp nhất của nó đã qua, nó vẫn là một con ngựa giỏi. Kiên nhẫn. Không đòi hỏi. Và tăng tốc chậm. Đặc điểm cuối cùng này rất có ý nghĩa với chúng tôi (và, tôi phải nghĩ rằng, với bố mẹ chúng tôi), vì chúng tôi đã bỏ học cưỡi ngựa chính thống từ một năm trước, quá chán ngán khi bị bảo phải ngồi thẳng lưng, nhổm mông, và phi nước kiệu.
Witch Grass có thể chở cả tôi và Rollie đi một quãng đường dài trên tấm lưng màu hạt dẻ, dù chúng tôi cố gắng giảm thiểu thời gian chất khối lượng tám mươi sáu kí lô lên cột sống già nua của nó. Một trong hai đứa đôi khi lại xuống đi bộ cạnh bên.
Có lẽ là vào tuần thứ ba của tháng ba, tôi đã để Tom hôn tôi lần đầu tiên.
Đừng hiểu nhầm, đó không phải là khoảnh khắc “chúng tôi đã hôn nhau” nồng nàn đến vậy: tôi đã thụ động một cách cố ý suốt thời gian diễn ra nụ hôn đầu đời, và dù Tom là người khởi xướng nụ hôn (còn tôi thật ra là kẻ tham gia nhiệt tình), nhưng anh lại kết thúc nó rất chóng vánh, và chúng tôi còn quá trẻ - mà nền đất thì quá lầy lội - để cảm thấy mặt đất chỗ chúng tôi đứng di chuyển.
Tôi và Rollie dự định thay phiên nhau cưỡi Witch Grass lên đồi Gove như đã làm ngày hôm trước. Đó là điểm duy nhất ở Reddington mặt đất vừa không lát xi măng vừa không có bùn quá sâu mà mẹ của Rollie có thể nghĩ đến. Khi con ngựa đã có cơ hội sải bước, chúng tôi cùng nhau cưỡi nó băng qua đường và ngang qua cửa hàng bách hóa đến sân bóng, trộm nhìn Tom Corts và đám bạn lêu lổng của anh. Chúng tôi sau đó lại đi tiếp đến xưởng đường của nhà Brennan, vì ngay từ trung tâm thị trấn đã có thể trông thấy khói bốc lên từ những hàng cây như một mạch nước nhỏ phun trào cực mạnh.
Vậy là Rollie cưỡi Witch Grass trước, còn tôi leo qua hàng rào điện để vào cánh đồng cạnh chuồng ngựa nơi con ngựa thường gặm cỏ mỗi khi Rollie đi học, và bắt đầu xúc những tảng phân ngựa to thành cái mà tôi và Rollie bí mật gọi là Gò Phân. Witch Grass không phải là ngựa của tôi, nhưng tôi đã dành nhiều thời gian cưỡi nó, nên tôi cũng giúp một tay trong việc chăm sóc và cho nó ăn - chủ yếu là làm công việc xúc phân vào buổi chiều.
Tôi chỉ mới làm được một lúc thì nghe chiếc xe nhà ga của mẹ nổ máy trên đường tiến về phía tôi, với tiếng động cơ kêu xình xịch khó chữa không lẫn vào đâu được. Nó là một chiếc xe màu xanh bằng gỗ to khổng lồ từ cuối những năm 1960, và dù bố mẹ đã tính đến chuyện đổi nó trong cuộc khủng hoảng dầu năm 1973 - một cuộc tranh luận bắt đầu vừa vì tội lỗi do con vật nuốt quá nhiều xăng dầu vừa vì chi phí bơm những con khủng long chết vào bụng nó để nó tiếp tục chạy - mẹ tôi vẫn không thể nào rời xa nó. Bà đã có chiếc xe đó gần bằng thời gian bà có tôi, nó đã đưa bà an toàn đến hơn năm trăm ca đẻ, và bà không thể chịu nổi cảnh ném người bạn đường thân thiết này ra bãi cỏ.
Cánh đồng nằm cạnh một con đường nhộn nhịp của Reddington, con đường uốn cong vào Đường 15 - nằm ở phía tây Morrisville và phía đông St. Johnsbury. Như vậy có nghĩa là mẹ tôi có thể đang trên đường đến bất kì đâu: tiệm tạp hóa, ngân hàng, bà bầu đang chuyển dạ.
Mẹ giảm tốc độ khi trông thấy tôi, cho xe dừng lại giữa đường (bà không dám đỗ xe vào vũng bùn bên đường), và hạ cửa kính. Tôi băng qua đường, tay vẫn cầm xẻng của nhà McKenna, và giữ thăng bằng hai chân trên đường vạch màu vàng kẻ giữa vỉa hè, giả vờ như hai đường vạch là hai sợi dây thừng trên không.
“Em bé của cô Wanda Purinton sắp chào đời rồi,” mẹ nói, mỉm cười thanh thản như cách bà vẫn cười mỗi khi một bà bầu của bà bắt đầu chuyển dạ.
“Cô ấy còn chờ lâu không ạ?” tôi hỏi.
“Chẳng biết nữa. Xem chừng sắp co thắt rồi. Để xem thế nào.”
“Mẹ sẽ không về ăn tối đúng không.” Tôi cố giấu sự thất vọng; tôi cố thể hiện nhận thức này như một thực tế đơn giản cần được xác nhận, nhưng lại không nói ra được như thế.
Mẹ lắc đầu. “Không, cưng ạ. Con và bố ăn một mình nhé. Con không phiền khi phải nấu bữa tối chứ?”
“Không ạ.” Nhưng thực ra thì có. Và dĩ nhiên mẹ tôi biết điều đó.
“Mẹ lấy ít thịt băm ra khỏi tủ đông rồi. Con làm hamburger nhé.”
“Vâng ạ.” Trình độ nấu nướng của tôi ở tuổi mười hai chỉ đạt đến món hamburger mà thôi. Hamburger và phô mai nướng. Thực ra, đến trước khi tôi tham gia lớp học nấu ăn hai tuần để tiêu khiển vào tháng giêng ở năm hai cao đẳng, thì đó là tất cả những gì tôi biết nấu.
“Có thể cơn đau đẻ chỉ ngắn thôi. Cô Wanda là người nhà Burnham, mà người Burnham thì thường đến nhanh lắm.”
“Và cũng có thể mẹ sẽ ở đấy cả đêm.”
Bà nhướng một chân mày. “Có thể lắm. Dù sao thì chúng ta cũng sẽ có một buổi ăn sáng thịnh soạn cùng nhau.” Bà rướn đầu một nửa ra khỏi cửa xe. “Thơm mẹ một cái nào?”
Tôi vâng lời, hôn chiếu lệ lên má bà, rồi nhìn theo chiếc xe tăng tốc và lao đi. Tôi không hẳn là giận mẹ mà chỉ thấy thất vọng: Công việc của bà và đứa bé của cô Wanda Purinton đồng nghĩa với việc tôi phải về nhà sớm hơn dự định. Không phải vì một bữa tối với hamburger và đậu đóng hộp lại mất nhiều thời gian chuẩn bị, nhưng tôi luôn cảm thấy có trách nhiệm đạo đức phải có mặt ở nhà khi bố đi làm về mỗi lần mẹ vắng nhà. Tôi không biết tư tưởng này ăn vào đầu óc tôi do mấy bộ phim truyền hình nhiều tập mà tôi xem hàng giờ liền trên chiếc ti vi thường xuyên bị nhiễu của gia đình chúng tôi, hay đó là kết quả từ cảm nhận của tôi về cách cư xử của mẹ các đứa bạn - những người phụ nữ khác nhau một trời một vực như bà McKenna từ Westchester và cô Fran Hurly, người Vermont chính hiệu - nhưng như những gì tôi biết, trừ bà đỡ ra, bà mẹ nào cũng thường phải có mặt ở nhà khi ông bố đi làm về.
Tôi bước trở lại cánh đồng và uể oải xúc phân được vài phút, biết rằng sẽ không có thời gian để vừa cưỡi ngựa lên đồi Gove vừa lấy con ngựa làm cớ để xem Tom Corts hút thuốc. Và thế là tôi cắm xẻng lên một tảng đá khô to, thả lai quần jeans xuống đôi bốt đen cao cổ, và quyết định đi bộ một mình dọc theo sân bóng. Tôi tự nhủ thực ra mình định ghé qua cửa hàng bách hóa để mua kẹo cao su, nhưng ngay cả làm thế cũng là có động cơ: hơi thở thơm tho hơn nếu Tom hoặc tôi... hơi thở thơm tho hơn.
Tom đang ngồi với hai anh chàng lớn tuổi hơn khi tôi lững thững đi qua, những chàng trai vị thành niên đủ lớn để quyết định không cần học hết phổ thông để đi rửa bát ở những nhà hàng nằm xung quanh Power Peak, khu nghỉ mát trượt tuyết nằm ở phía Nam, hoặc trở thành thợ mộc làm thuê, và vì thế đã bỏ học. Tôi nhận ra một người là con nhà O’Gorman, nhưng anh ta lớn hơn tôi bốn tuổi và tôi chẳng biết anh ta là ai trong số anh em nhà đó, người kia là Billy Metcalf, kiểu con trai ngày càng gầy và cao khiến hàm râu lởm chởm trở nên đáng sợ kì lạ.
Nếu Tom ở một mình, tôi hẳn đã lấy hết can đảm đi một vòng đến khán đài ngoài trời băng qua đống rác mà trong một hai tháng nữa sẽ trở thành bãi cỏ, nhưng anh không ở một mình, vì thế tôi lê bước thẳng tiến đến cửa hàng. Kẹo cao su và kẹo bạc hà nằm trên kệ kim loại đối diện quầy tính tiền bằng gỗ mà John Dahrman thường ngồi ở phía sau ngày này qua ngày khác, một ông già góa vợ trầm lặng có mái tóc bạc trắng và đôi mắt sâu hoắm như hai hốc mắt ma quái của Abraham Lincoln trong các tấm ảnh chân dung in đầy chương Nội chiến trong sách giáo khoa lịch sử của tôi. Dù tóc bạc trắng và mắt thâm quầng, nhưng da của ông rất mềm mại, và lúc đó tôi đã tưởng tượng rằng ông phải trẻ hơn rất nhiều so với hình dung ban đầu của mọi người. Ông đã sở hữu cửa hiệu này ít nhất là từ khi tôi ra đời và nhận thức được về những điều như mua bán và kẹo cao su, được một lô lốc những cháu trai cháu gái phụ giúp ở quầy tính tiền khi chúng đã lớn và biết làm phép tính.
Khi tôi đang trả tiền kẹo cao su, thất vọng não nề vì không thể tiếp cận phạm vi ba mươi mét quanh đối tượng làm tôi phát cuồng, thì tôi nghe thấy tiếng chuông leng keng trên cửa. O’Gorman và Billy Metcalf đang tiến về phía tủ lạnh có bia ở cuối cửa hàng. Họ chưa đủ tuổi để mua bia, nhưng trước đây tôi từng thấy họ đứng lảng vảng ở đó và dán mắt vào lốc sáu chai bia sau cửa kính, lớn tiếng bàn tán xem họ uống được bao nhiêu và nên mua hiệu nào khi đã đủ tuổi. Cuối cùng ông Dahrman thường tống cổ họ ra ngoài hoặc lùa họ đến dãy hàng có bán khô bò và bánh phô mai phồng nhân tạo, những sản phẩm họ cảm thấy cũng thú vị chẳng kém gì bia mà lại được pháp luật cho phép mua.
Tôi chờ Tom Corts bước vào sau họ, nhưng không thấy. Tôi nghĩ như thế có nghĩa là anh đã về nhà, nhưng vẫn nuôi hi vọng mong manh rằng anh đang ở ngoài sân bóng một mình, và nếu tôi đi nhanh, tôi có thể có chút thời gian với anh trước khi O’Gorman và Metcalf quay lại với mớ thức ăn Slim Jim và Jax. Tôi không thể hình dung được khi ấy mình sẽ làm gì, bởi phần lớn những cuộc giao tiếp của tôi và Tom cho đến lúc đó chỉ là những lời chào gói gọn vào lòng bàn tay khi chúng tôi vẫy nhau.
Hóa ra chẳng cần bận tâm, vì Tom đã đi rồi. Khán đài ở mặt thứ nhất và mặt thứ ba của sân bóng trống trơn, và sự sống duy nhất mà tôi nhìn thấy là con chó tha mồi màu vàng ngu ngốc của nhà Cousino, một con chó ngốc đến nỗi có thể sủa hàng giờ liền trước những gốc cây và miệng trụ nước. Lúc này nó đang sủa cái lò nướng bằng gạch nằm giữa vạch kẻ bên phải sân bóng và con sông chảy cạnh sân bóng. Tôi cố gắng quên đi nỗi thất vọng bằng cách hài lòng với những quả bong bóng thổi to và vị ngọt của kẹo cao su khi tôi dùng lưỡi đè nó thật chặt vào thành răng, rồi đi bộ trở về cánh đồng nơi tôi xúc phân khi nãy. Tôi chẳng bận tâm Tom đã đem nét mặt cau có và những điếu thuốc của anh đi đâu, tôi chỉ chấp nhận thực tế rằng anh đã biến mất và tôi phải chờ thêm một ngày nữa mới được thấy anh.
Tôi sải chân qua hàng rào điện và nhặt cái xẻng lên từ tảng đá mà tôi đã cắm nó xuống. Đứng tựa lưng vào tường chuồng ngựa cách đấy chưa đến hai mươi mét là Tom Corts. Anh rút điếu thuốc ra khỏi môi và bắt đầu tiến về phía tôi, lơ đễnh - hay không bận tâm - trước thực tế rằng với từng bước đi, đôi giày của anh lại lún sân xuống phân ngựa hoặc bùn.
Tôi đứng yên, chờ đợi với trống ngực đập thình thịch. Khi anh đã đến rất gần, tôi ngửi thấy mùi thuốc lá trong hơi thở anh, anh dừng lại và hỏi, “Họ trả tiền cho em làm việc này à?”
Tôi khựng lại, suy nghĩ, Việc này? Rồi tôi nhận ra: xúc phân. “Không.”
“Vậy tại sao em lại làm?”
“Vì Rollie là bạn em.”
Anh gật đầu: “Và vì em cưỡi con ngựa ấy.”
“Ừ, vì thế nữa.”
Anh thọc bàn tay không cần dùng để hút thuốc vào sâu trong túi áo khoác jeans màu xanh của mình. “Tối nay trời sẽ lạnh lắm đấy. Lạnh kinh khủng đối với lũ gia súc. Bản năng của chúng đang mách bảo chúng rằng mùa xuân đang ở đây và một tháng giêng lạnh lẽo đã qua. Nhưng rồi tối nay nhiệt độ sẽ xuống còn âm sáu độ, và vì chúng không nghĩ đến điều đó, chúng sẽ cảm thấy như âm hai mươi độ.”
Tôi chẳng biết giả thuyết của Tom có giá trị hay không, nhưng chiều hôm đó nó nghe chừng có lý. Và nhân từ. Nó cho tôi thấy người con trai này có một tâm hồn bí ẩn cũng như đôi mắt dịu dàng của anh vậy.
“Gia đình anh có gia súc không?” tôi hỏi. Gia đình Corts đã không làm nông trong nhiều năm nay, nhưng tôi cảm thấy mình cần phải hỏi gì đấy. “Bò hay ngựa?”
“Ông bà anh - tất cả họ - đều từng có. Ông nội anh có một đàn gia súc năm mươi con trong nhiều năm, trước đây thế là to lắm. Và họ cũng có nuôi vài con ngựa nữa. Giống ngựa Morgan.”
“Anh có biết cưỡi ngựa không?”
Anh lắc đầu. “Không. Chỉ trượt tuyết bằng xe thôi. Và cưỡi xe máy.”
Tôi đã thấy Tom trượt tuyết bằng xe, thường vào những khi bố và tôi đi băng qua hạt đến trượt tuyết trên những con đường cao tốc thiên nhiên và đường mòn ở Bắc Reddington. Chúng tôi thường phải tấp vào lề trên ván trượt hàng chục lần để nhường đường cho Tom và những người bạn lớn tuổi hơn cùng anh em họ của anh. Nhưng tôi có cảm giác anh đang nói dối về chuyện cưỡi xe máy, và chẳng hiểu sao điều đó lại khiến tôi mến anh, cũng như sự hiểu biết của anh về loài vật vậy.
“Em chưa bao giờ trượt tuyết bằng xe.”
“Anh sẽ chở em, nếu em thích. Có thể là năm nay đi luôn. Chúng ta sẽ có nhiều tuyết hơn, em biết đấy.”
“Ồ, em biết.”
“Anh đã thấy em trượt tuyết. Với bố mẹ em.”
“Chỉ có bố thôi. Mẹ em không thích trượt tuyết.”
“Bác ấy thông minh đấy. Trượt tuyết bằng xe vui hơn. Em đi nhanh hơn, và em sẽ luyện tập thể thao được nhiều hơn. Nhiều hơn đa số người vẫn nghĩ.”
“Em nghĩ mẹ cũng không thích trượt tuyết bằng xe.”
Anh búng điếu thuốc xuống chân rồi đạp nó lún xuống bùn.
“Em học tiếng Pháp với cô Purta phải không?”
“Vâng.”
“Thích cô ấy không?”
“Có. Đương nhiên.”
Anh gật đầu, tiếp nhận thông tin này và chuyển hóa nó vào trong đầu để hiểu ý nghĩa. Một tín hiệu. Có thể là xác nhận về sự trưởng thành của tôi. Rồi sau đó anh nói một câu có thể mang tính đe dọa đối với tôi nếu tôi đã không nghe ba từ đó từ mẹ tôi chỉ một lúc trước đó, một sự trùng hợp cho tôi thấy sự sắp đặt của duyên số. Hơn nữa, giọng nói của anh đột ngột trở nên lúng túng, giống như giọng tôi vậy.
“Hôn một cái trước khi anh đi, nhé?” anh hỏi, và giọng nói anh run run làm cho từ “nhé” trở thành một mệnh lệnh. Tôi đứng như trời trồng trước mặt anh, mà ở tuổi mười hai đó là cách gần nhất để tôi nói đồng ý, và sau một giây đủ dài để gai ốc sởn lên dọc cánh tay và nhảy múa dọc làn da dưới tay áo sơ mi và áo khoác của tôi, anh đã rướn về phía tôi và dán môi anh lên môi tôi. Chúng tôi đều hé miệng ra và nếm hơi thở của nhau.
Chỉ sau khi anh đứng thẳng lên và cơ thể chúng tôi rời nhau ra, tôi mới nhận ra anh đã không đưa lưỡi vào miệng tôi. Tôi rất mừng, nhưng chủ yếu là vì tôi không biết làm thế nào để vờn lưỡi của Tom Corts với một thỏi kẹo cao su bong bóng giấu trong má mình.
Lúc đó hẵng còn tám tháng trước khi tôi và Tom trở thành bạn trai và bạn gái của nhau, và tròn một năm rưỡi trước khi tôi nhìn về cuối phòng xử án ở Newport và thấy anh đứng đó, quan sát. Lúc đó là tròn một năm rưỡi trước khi tôi khóc trong vòng tay anh giữa đêm.
Chú thích:
[5] Sears: chuỗi cửa hàng bán lẻ nổi tiếng ở Mỹ.[6] Xe nhà ga (station wagon): Loại xe ô tô có thể vừa chở người vừa chở hàng, ban đầu chuyên dùng để chở hành khách và hành lý đến hoặc đi khỏi ga tàu hỏa.