- 3 -
Hợp tử không phải là một từ xấu, nhưng nó cũng chẳng hề hoàn hảo. Một mặt, tôi thích nguồn gốc của từ này - tiếng Hi Lạp có nghĩa là “hợp lại với nhau.” Tôi cảm thấy như vậy là đúng, vì đó chính là điều đã xảy ra. Một trứng và một tinh trùng đã hợp lại với nhau, và chúng tiến hành một chuyến hành hương nho nhỏ đến dạ con.
Mặt khác, tôi không thích cách phát âm của từ này khi ta nói to nó ra: Hợp tử! Nó luôn nghe như cần một dấu chấm than. Nó luôn nghe như một tiếng chửi thề từ một nhà khoa học cáu giận phát điên nào đó. Hợp tử! Chiếc cốc thí nghiệm bị nứt rồi! Hợp tử! Radium lan khắp phòng thí nghiệm rồi!
trích nhật kí bà mụ Sybil Danforth
MẸ TÔI ĐƯỢC ĐẶT TÊN SIBYL theo tên bà ngoại của mình. Bà ngoại của bà được sinh ra tại một ngôi làng nhỏ ở Đông Mexico, con gái của những nhà truyền đạo đến từ Massachusetts. Những nhà truyền đạo ấy - ông bà cố của mẹ tôi - đã sống mười năm tại một thị trấn nhỏ ven biển có tên gọi Santiago, trong một thập kỉ đó họ đã lập ra một nhà thờ Thiên chúa giáo, đã kết bạn tâm giao với một thầy thuốc của làng tên là Sibella, và có hai đứa con. Một trong hai người con ấy sống sót - bà ngoại của mẹ tôi - còn một người thì không.
Người không còn sống là một bé trai tên Paul, và chính cái chết của cậu đã phá vỡ đức tin của gia đình, buộc họ khăn gói trở về Mỹ. Tôi nghe kể Paul bị chết đuối trong chỗ nước cạn, điều đó làm cho trong nhiều năm liền trong đầu tôi luôn hiện lên hình ảnh một con sóng dữ ở vùng Vịnh gần bờ, và một cậu bé ba tuổi nhấp nhô vài lần trên sóng trước khi bị nhấn chìm mãi mãi. Cuối cùng mẹ tôi bảo bà không hề tin rằng đó là điều đã xảy ra. Truyền thống của gia đình - đồn đại hay thực tế, ai mà biết được - nói rằng cậu bé chết trong bồn tắm.
Khi những nhà truyền đạo và con gái của họ trở về Mỹ, họ suýt nữa thì tái định cư ở miền Trung Massachusetts như đã dự tính, nhưng trong một nỗ lực nhằm làm lại cuộc đời, họ quyết định làm lại từ đầu tại một nơi mới, và cứ tiếp tục tiến về phía Bắc cho đến khi họ ra khỏi Massachusetts và New Hampshire, đến Vermont. Ở Reddington.
Tôi nghĩ đa số những người ở tuổi tôi đều cho rằng trẻ con ở thế kỉ mười chín thường xuyên tử vong đến mức người ta không đau buồn sâu sắc hoặc trong thời gian dài như chúng ta ngày nay. Tôi không tin là vậy. Người phụ nữ mà mẹ tôi được đặt theo tên chào đời năm 1889, và em trai bà chào đời năm 1891. Cậu qua đời năm 1894: Có một vật đánh dấu cho cậu bé ở nghĩa trang Reddington, một cái khác ở lô đất của gia đình tại một nghĩa trang trong thị trấn Worcester, Massachusetts, và một bia mộ thứ ba đánh dấu thi hài thực sự của cậu bé tại một nghĩa trang ở Santiago.
Không ai biết người nào chịu trách nhiệm tắm Paul khi cậu chết. Chi tiết đó bị thất lạc trong lịch sử gia đình chúng tôi.
Dù sao thì, khi những nhà truyền đạo đó, những người từng hăng hái dọn đến Mexico để truyền đi lời của Chúa và xây một nhà thờ - về nghĩa đen là giúp dựng lên công trình bằng sa thạch đó dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt bằng chính đôi tay New England trắng trẻo của họ - cuối cùng định cư tại Reddington, họ hiếm khi đặt chân vào bất kì nhà thờ nào, Thiên Chúa giáo hay Tin lành, một lần nữa.
Mẹ tôi thực sự là dân hippie yêu chuộng hòa bình, thích hãng tin Liberation, tự do tự tại và thành thật với Chúa. Đây là một thành tựu không nhỏ, vì bà lớn lên trong một ngôi làng nhỏ ở phía Bắc Vermont. Những ngôi làng như Reddington chậm tiếp nhận thay đổi văn hóa do núi cao, thời tiết khắc nghiệt, tín hiệu truyền hình kém, và mật độ dân cư thưa thớt (điều này có thể giải thích vì sao bà không bao giờ thực sự tìm cách bỏ trốn đến những nơi như San Francisco, East Village, hoặc Woodstock), vì thế phải dành đáng kể sự quan tâm tìm hiểu và lòng can đảm mới tìm ra cuộc cách mạng ấy - hoặc thậm chí tìm ra một chiếc váy bohemian tử tế.
Dù mẹ chưa bao giờ thực sự đặt chân lên một chiếc xe buýt đưa đón học sinh hay vào công xã, nhưng những bức ảnh chụp bà trong nửa sau thập niên 1960 cho thấy một cô gái yêu thích quần ống loe và khăn choàng, chuỗi hạt tình yêu, huy hiệu và dép xăng đan. Những tấm ảnh đó cho thấy một cô gái có đôi mắt tròn xoe xanh biếc và mái tóc vàng sậm xoăn tít, những đặc điểm mà tôi thừa hưởng, dù tóc tôi thẳng hơn tóc bà nhiều.
Bà đến học ở trường cao đẳng Mount Holyoke trong hai năm, nhưng đã gặp một người đàn ông khá lớn tuổi hơn trong thời gian làm bồi bàn ở Cape Cod vào mùa hè giữa năm hai và năm ba rồi quyết định bỏ học, trải qua mùa đông trong một căn nhà thôn dã với ông ở miền biển. Mối quan hệ này không kéo dài. Đến Lễ Tạ ơn bà đã dọn đến Jamaica Plain ở Boston, giúp tổ chức Những Con Báo Đen khởi xướng một chương trình bữa ăn sáng cho người nghèo, trong khi làm thêm bằng nghề trực điện thoại cho một tờ báo. Đến mùa xuân, bà cảm thấy đã quá đủ - không phải vì bà mệt mỏi với Phong trào này, mà bởi vì bà nhớ đồng quê. Nhớ Vermont. Bà muốn về nhà, và cuối cùng đã về.
Bà trở về ngay trước sinh nhật thứ hai mươi của mình, nói với bố mẹ rằng bà sẽ ở đến hết mùa hè rồi sau đó đi học lại vào mùa thu. Ông bà ngoại tôi luôn quả quyết rằng mẹ đã bỏ học khi điểm số rất tốt, toàn A và B, và trường Mount Holyoke sẽ vui mừng nhận bà vào học lại.
Nhưng tôi không tin việc trở lại trường cao đẳng là khả thi. Bà đã hình thành trong lòng một cảm giác rất phổ biến lúc bấy giờ, đó là chán ghét hầu hết chính quyền truyền thống hoặc học viện, và Mouth Holyoke đã trở nên đáng nghi trong mắt bà. Vả lại, đến tháng bảy bà đã gia nhập một nhóm nghệ sĩ tự phát ở khu đồi phía bắc Montpelier, một hội gồm những ca sĩ, họa sĩ và nhà văn, trong đó có một họa sĩ minh họa sau này quyết định trở thành kiến trúc sư thay vì thiết kế bìa album ca nhạc - bố tôi. Nam giới trong hội vẫn duy trì việc học cao đẳng để hoãn quân dịch, nhưng nữ giới thì đã bỏ học và chuyển sang nặn lọ gốm, đan thảm, viết ca khúc.
Mẹ có mang tôi không lâu sau đó, cả bà và bố luôn cam đoan với tôi rằng họ chưa bao giờ tính đến chuyện tìm một chuyên gia ở Boston hay Montreal để bỏ tôi.
Biết rõ bố mẹ mình, tôi thực tình tin rằng ý tưởng bỏ tôi chưa bao giờ xuất hiện trong đầu mẹ, nhưng tôi tin chắc suy nghĩ ấy đã đến với bố tôi. Tôi chắc chắn như thế. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ tình thương của ông, và tôi tin ông rất vui khi tôi ra đời, nhưng ông luôn là một người ngăn nắp, mà những cái thai ngoài dự tính luôn là những sự cố rườm rà. Việc thụ thai tôi đã hoãn vô thời hạn, và sau đó là mãi mãi, bất kì cuộc thảo luận nào về việc mẹ đi học trở lại.
Đó là một trong những lý do chính khiến mẹ tôi trở thành một bà mụ không chuyên thay vì một nữ hộ sinh có đào tạo bài bản, hoặc thậm chí có thể là một bác sĩ sản phụ khoa: không có chứng chỉ cao đẳng và - theo thời gian - kết luận rằng bà không cần chứng chỉ đó.
Đương nhiên, mẹ cũng hết sức tin rằng trong đa số trường hợp, thai phụ nên sinh con tại nhà. Bà nghĩ như thế sẽ tốt hơn cho mẹ và em bé. Trong suy nghĩ của mẹ, phụ nữ đẻ con hiệu quả nhất trong môi trường mà họ thông thuộc nhất và điều đó khiến họ cảm thấy thoải mái nhất; tương tự, việc chào đón một đứa trẻ đến với thế giới này trong một căn phòng ấm áp, và đỡ lấy đứa bé với đôi tay trìu mến, là điều rất quan trọng. Nghĩ đến loại kẹp đầu em bé giống như đồ kẹp xà lách và máy siêu âm bụng khiến mẹ tôi cáu tiết, và - cuối cùng, điều này lại chứng tỏ là sự trớ trêu nghiệt ngã nhất - bà sẽ cho một thai phụ đang chuyển dạ mọi cơ hội trên đời này để đẻ con qua âm đạo. Trong vài trường hợp, bà đợi trong nhiều ngày liền, luôn luôn kiên nhẫn, trước khi đưa thai phụ đến bệnh viện để bác sĩ gây mê, sau đó rạch bụng và thành tiểu của thai phụ rồi nhấc đứa bé ngơ ngác lên dưới ánh đèn huỳnh quang của phòng mổ.
Mẹ tôi biết đẻ tại nhà không phải dành cho tất cả mọi người, nhưng bà muốn nó được duy trì thành một lựa chọn cho những ai có nhu cầu. Và nếu bà có trở thành bác sĩ hay nữ hộ sinh đi chăng nữa, thì chắc chắn Ủy ban nghề y của bang cũng sẽ phải cố gắng ép buộc mới khiến bà chịu hành nghề trong bệnh viện.
Quy định là như thế vào thời đó; quy định là như thế vào lúc này. Nếu bác sĩ và nữ hộ sinh đỡ đẻ tại nhà, thì họ sẽ hành nghề mà không có bảo hiểm sai sót hoặc sự phê chuẩn của bang. Vì thế theo quan điểm của mẹ tôi, chẳng có lý do gì để lấy bằng cấp y khoa cả. Bà biết mình đang làm gì.
Liệu Sibyl Danforth có ghét bệnh viện và điều mà các công tố viên mô tả là cơ sở y tế không? Đã có lúc, tôi nghĩ rằng bà ghét những nơi đó. Bà có phải là, như họ gọi, một kẻ nổi loạn không? Còn phải hỏi. (Dù khi bị buộc tội là người nổi loạn trước tòa, bà đã mỉm cười và nói, “Tôi thích nghĩ mình là một người tiên phong hơn.” Mỗi khi đọc đến đoạn ghi chép đó trong những đống hồ sơ giấy tờ tòa án mà tôi đã thu thập được, tôi lại mỉm cười.)
Có những chuyện hài hước về thái độ chống bác sĩ sản phụ khoa của mẹ nhưng chúng không bao giờ xuất hiện ở tòa án. Trong một bức ảnh của mẹ chụp năm 1969, bà đứng dựa lưng vào một chiếc xe con bọ VW, và ở đầu gối bà là hai miếng dán: HÃY HỎI CHÍNH QUYỀN! và CHỈ CÓ VỊT MỚI ĐƯỢC LÀM LANG BĂM. Lòng nghi ngại bà dành cho cái gọi là quyền lực bị xói mòn của những giáo sư và hiệu trưởng cao đẳng, bà cũng dành nó cho các bác sĩ và ban quản trị bệnh viện.
Và dù cho bà đã bỏ qua rất nhiều sự bất tín nhiệm dành cho bác sĩ - dù bà chưa bao giờ lãng phí thời gian khi quyết định một thai phụ cần can thiệp y tế, dù bà chắc chắn đưa tôi đến bác sĩ nhi khi tôi thấy không khỏe lúc còn bé - đa số bác sĩ lại chưa bao giờ tin tưởng bà.
Ca đẻ của tôi không phải là ca đẻ đầu tiên mẹ có mặt. Đó là ca thứ ba.
Trong vòng một năm rưỡi kể từ khi bà trở về từ Boston đến lúc tôi chào đời ở Vermont, hai người phụ nữ khác trong nhóm bạn ở Đông Bắc Montpelier đã sinh con, và mẹ tôi đã có mặt tại ca đẻ đầu tiên do tình cờ, và tại ca đẻ thứ hai do lựa chọn. Thích hợp làm sao, ca đẻ đầu tiên lại diễn ra tại phòng ngủ của một căn nhà cũ tạm bợ nằm trong trang trại ở Vermont, không phải trong một phòng sinh đẻ vô trùng ở bệnh viện.
Ca đẻ đầu tiên - và là thử thách đầu tiên của mẹ tôi với nghề bà mụ - chính là ca đẻ của Abigail Joy Wakefield.
Cô bé được dự tính sinh trong bệnh viện, nhưng lại chào đời sớm hai tuần. Sáu người lớn có mặt vào đêm mẹ cô bé bắt đầu đau đẻ, trong đó có hai người sau này trở thành bố mẹ tôi, sợ rằng họ đã quá phê thuốc đến độ không lái nổi chiếc xe nào trong số xe đỗ bừa bãi cạnh ngôi nhà nhỏ như thể ở đó vừa xảy ra một trận động đất. Kết quả là, họ quay lại phân công nhiệm vụ theo giới tính, sự phân công mà tôi cho rằng một phần thuộc về bản năng, một phần do bị xã hội hóa, cánh đàn ông đồng ý chạy bộ gần sáu cây số đến cửa hàng bách hóa để dùng điện thoại công cộng gọi xe cấp cứu, còn cánh phụ nữ thì đưa người mẹ đang chuyển dạ lên lầu để giúp cô cảm thấy thoải mái - và đỡ đẻ đứa bé, nếu việc đó xảy ra.
Tại sao cả ba người đàn ông đều đi, trong đó có bố tôi, đã trở thành một chuyện khó lý giải được bạn bè của bố mẹ tôi kể đi kể lại trong nhiều năm. Bố tôi nhấn mạnh rằng đó là một quyết định tự phát bắt nguồn từ việc tất cả cánh đàn ông đều đã phê thuốc và đơn giản là không thể suy nghĩ sáng suốt về quyết định đó. Tuy nhiên, mẹ tôi và những cô bạn luôn trêu ông rằng mỗi người trong số họ là một kiểu đàn ông điển hình, muốn tháo chạy khỏi bà bầu đau đẻ càng xa càng tốt. Thực ra, sau khi đi được gần năm cây số trong đêm tối, cánh đàn ông đã quyết định đứng bên con đường chính đợi xe cấp cứu, để chắc chắn chiếc xe tìm được đường đến ngôi nhà đó.
May mắn là cả mẹ tôi lẫn mẹ của Abigail Joy, cô Alexis Bell Wakefield, đều tỉnh táo. Tối hôm đó họ hầu như chẳng hút tí cần sa nào.
Lúc đầu, mẹ tôi và Alexis ở trong phòng ngủ cùng Luna Raskin. Khác với hai người phụ nữ còn lại, Luna có đủ mọi thể loại hóa chất nhân tạo trong người, và mỗi khi Alexis nức nở, “Ôi trời ơi, đau quá, đau quá đi mất!” Luna lại túm lấy áo sơ mi của mẹ tôi và gào lên, “Họ đang giết cô ấy, họ đang giết cô ấy!”
Mẹ tôi thoạt đầu nghĩ rằng Luna muốn nói đến những cơn co thắt của Alexis. Nhưng cô ấy càng nói, mẹ tôi càng nhận ra với một cảm giác kết hợp giữa khiếp đảm và ngạc nhiên rằng Luna đang nói đến Tổng thống Lyndon Johnson và Ngoại trưởng Dean Rusk, hai nhân vật có ảnh đăng trên trang nhất số báo ngày hôm đó.
Vào lúc đó mẹ tôi tống Luna ra khỏi phòng và tự mình đỡ đẻ đứa bé.
Mẹ tôi không biết mình sẽ cần đến dụng cụ đỡ đẻ nào, và đã thực hiện một quyết định cho thấy bà quả thật có duyên làm bà mụ: Bà kết luận rằng phụ nữ đã đẻ con từ lâu, rất lâu trước khi có người phát minh ra dụng cụ đỡ đẻ, bất kể chúng là gì. Bà tưởng tượng cơ thể người phụ nữ hiểu khá rõ nó cần phải làm gì, nếu bà có thể đơn giản giữ cho Alexis bình tĩnh.
Dù vậy, bà vẫn gom toàn bộ vải vóc và khăn mà bà tìm được, rồi đổ đầy nước sôi vào một chiếc giỏ bắt tôm hùm to tướng. Bà không biết nhau trông như thế nào, bà chẳng hiểu rặn có ý nghĩa gì, và (sau này nhận ra như thế thì lại tốt hơn) bà chưa từng nghe nói đến thuật ngữ như sự không cân đối đầu và xương chậu - một cái đầu trẻ sơ sinh có kích thước to hơn xương chậu của mẹ.
Bà tắt bóng đèn ở trần phòng ngủ, nghĩ rằng Alexis sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu không phải nhìn thẳng vào ánh sáng chói mắt; chiếc đèn bàn ở góc phòng soi vừa đủ ánh sáng cho mẹ tôi nhìn rõ tất cả những điều mà bà không hiểu.
May mắn là mẹ của Alexis luôn nhắc nhở con gái phải đi khám bác sĩ sản phụ khoa, và Alexis đã tự đọc một số sách. Cô cũng may mắn khi chuyển dạ rất ngắn và hạ sinh một đứa trẻ bé xíu - nhưng khỏe mạnh. Nhưng chẳng có cơn đau đẻ nào là dễ dàng, và dù mẹ tôi chưa bao giờ mất đi niềm tin rằng tiến trình mà bà chứng kiến đẹp không thể tả, nhưng khi cơn đau của Alexis trở nên tồi tệ hơn, mẹ tôi bắt đầu lo sợ rằng có gì đó không ổn. Bà xoa chân của Alexis và mát xa lưng cho cô, thủ thỉ rằng Alexis chỉ đang trải qua điều mà hầu hết mọi phụ nữ đều cảm thấy kể từ khi có sự sống loài người. Nhưng trong lòng mẹ tôi cũng không mấy tin điều mình đang nói.
Khi một giờ đã trôi qua mà cánh đàn ông lẫn xe cấp cứu đều chưa đến, mối lo sợ ấy khiến bà đi rửa tay một lần nữa, lần này với một sự tỉ mỉ có thể gây ấn tượng với cả một bác sĩ giải phẫu tim. Bà cởi những chiếc vòng đeo tay bằng bạc và ba chiếc nhẫn đang đeo trên ngón tay, trong đó có một chiếc bố tôi tặng bà sau một đại hội nhạc rock ở gần Walden Pond, rồi chà cổ tay và cánh tay đến tận cùi chỏ.
Khi hai tay đã sạch đến mức bà tin là chấp nhận được, mẹ tôi đưa một ngón tay vào sâu bên trong âm đạo của Alexis hết mức có thể, hi vọng biết được đứa bé có sắp chui ra hay chưa.
“Tớ đã giãn ra chưa?” Alexis rên rỉ, đầu lăn qua lăn lại trên gối như thể cột sống cổ của cô làm bằng thạch Jell-O.
Vào thời điểm đó trong cuộc đời của Sibyl, từ giãn nở luôn được dùng khi nói đến đồng tử và ma túy. Bà không hề biết rằng Alexis đang nói đến cổ tử cung của cô. Vì thế mẹ tôi ngước lên từ giữa hai chân Alexis để nhìn mặt bạn mình, nhưng cô ấy đã nhắm tịt mắt.
“Tớ nghĩ là rồi,” mẹ tôi trả lời; dù bà không thể nhìn thấy đồng tử của Alexis, nhưng bà cho rằng bất kì ai dành nhiều thời gian rên la như Alexis hẳn đều phải giãn toét cả mắt.
“Bao nhiêu rồi?”
“Suỵt,” bà mụ bất đắc dĩ nói. Bà luồn đầu ngón trỏ vào trong Alexis và lướt qua một vật cứng mà bà hiểu ngay là cái đầu. Đầu đứa bé. Rất nhanh bà xoay ngón tay quanh nó, ngạc nhiên khi thấy có thể sờ được nhiều đến vậy.
“Cậu có sờ được cái đầu không?” Alexis hỏi.
“Tớ có sờ được cái đầu,” Sibyl đáp, mê hoặc, và từ từ rút ngón tay ra.
Chỉ vài phút sau Alexis gào lên rằng cô phải rặn, và cô đã rặn.
“Cố lên,” mẹ tôi nói. “Cậu làm tốt lắm.”
Mẹ tôi đỡ Alexis dựa vào tấm ván đầu giường và chất gối xung quanh người cô, không nghĩ gì đến tính hợp lý trong hành động này mà chỉ thấy yên tâm ở một mức độ nguyên thủy rằng đó là việc nên làm. Mẹ tôi nghĩ nếu Alexis ngồi dậy, trọng lực sẽ giúp đứa bé rơi ra.
Sau đó bà quỳ gối trên giường giữa hai chân của Alexis và nhìn vài phút trong lúc cô ấy rặn, rên rỉ và nghiến răng, và tuyệt đối không một điều gì xảy ra. Môi âm đạo của cô ấy có thể đã ẩm ướt hơn, nhưng chắc chắn không có cái đầu nào bắt đầu nhô ra giữa chúng.
“Hãy nghỉ mệt một phút nào. Tớ nghĩ cậu đã tiến bộ rất nhiều rồi đấy,” mẹ tôi nói dối. Bà luồn cánh tay xuống từng đầu gối của Alexis rồi nhấc chân cô dạng ra, hi vọng nới rộng lối ra cho em bé. “Sẵn sàng chưa?” bà hỏi Alexis, và Alexis gật đầu.
Trong ba mươi phút tiếp theo Alexis cứ rặn rồi nghỉ, rặn rồi nghỉ. Suốt thời gian đó mẹ tôi không ngừng cổ vũ cô, nói đi nói lại rằng cô sẽ làm được, cô sẽ rặn thêm một giây nữa, một giây nữa, và đứa bé sắp phọt ra như cái nút bấc nếu cô rặn, rặn, rặn, rặn.
Gần một giờ sáng, khi mẹ tôi đã sắp ngã ngửa ra giường thì toàn bộ nỗ lực rặn đó đột nhiên phát huy tác dụng, chỏm tóc đen đã trêu ngươi bà sau môi âm đạo suốt từ nãy đến giờ đội nhiên phọt ra, và bà đang nhìn xuống trán của em bé, đôi mắt em bé, cái mũi em bé, và cái miệng em bé. Đôi môi chúm chím như nụ hồng, bé xíu xiu như môi búp bê. Bà lấy hai tay đỡ cái đầu, dự định làm gối đón nó đến với cuộc đời, thì một cái vai thò ra, rồi một cái nữa, và rồi toàn bộ Abigail Joy và cuống rốn. Đứa bé màu hồng, và khi mở mắt nó bắt đầu khóc rống lên, một tiếng khóc trẻ thơ rất dài khiến Alexis vừa khóc vừa cười, một tiếng khóc ré ấn tượng đến mức nếu mẹ tôi vào lúc đó biết thang điểm Apgar[7] là gì, bà hẳn sẽ cho đứa bé một điểm mười hoàn hảo.
Khi mẹ tôi nghiên cứu hai điểm nơi cuống rốn của mẹ và bé nối với nhau, nghĩ rằng bà phải dùng kéo cắt nó trong khi chưa biết làm thế nào, thì bà nghe thấy tiếng còi hụ leo lên đồi tiến về phía ngôi nhà, và bà biết một chiếc xe cấp cứu sắp đến. Bà ngay lập tức cảm thấy nhẹ nhõm, đồng thời với thất vọng. Bà đã hoảng sợ, không nghi ngờ điều đó, nhưng áp lực vào giây phút đó đã đem lại cho bà niềm đê mê khiến bà choáng váng. Bà đang chứng kiến sinh lực sống, phép màu nằm trong sức lực và cơ thể người mẹ - một cơ thể đã chuyển biến trước mắt một con người - và phép màu nằm trong đứa bé, một linh hồn trong một hình hài nhỏ bé nhưng khỏe mạnh, có khả năng tự đẩy nó đến với cuộc đời và gần như ngay lập tức tự thở, ngọ nguậy và khóc thét.
Khi cô bạn Donna của mẹ tôi sinh con vài tháng sau đó, cô đã nhờ bà túc trực bên cạnh trong bệnh viện. Tôi chưa ở trong người mẹ khi bà đỡ đẻ Abigail Joy, nhưng tôi đã có mặt tại ca đẻ thứ hai mà bà chứng kiến. Tôi tính ra mình được sáu tuần tuổi, có lẽ chỉ dài chừng một centimet, với khung xương bằng sụn và cái đầu rất dày mới chớm hình thành. Không mỏng như da tôi lúc bấy giờ.
Chú thích:
[7] Thang điểm Apgar: Dãy số biểu thị tình trạng của trẻ mới sinh, thường được xác định trong vòng 60 giây sau khi sinh, là tổng số điểm tính được dựa trên nhịp tim, sức thở, tình trạng hoạt động của cơ, phản xạ đáp ứng với kích thích và màu sắc.