← Quay lại trang sách

- 4 -

Bác sĩ dùng từ “co thắt” và rất nhiều bà mụ dùng từ “thúc”. Tôi thực sự không thích cả hai từ đó: Co thắt thực dụng quá, còn thúc mơ hồ quá. Một từ quá sinh học còn một từ thì quá... đời thường. Ít nhất đối với tôi. Tôi không rõ từ khi nào mình bắt đầu dùng từ “dâng trào tinh hoa”, hoặc trong lúc đỡ đẻ, đơn giản là từ “dâng trào”. Rand tin rằng đó là khi tôi đỡ đẻ Casey, con trai đầu lòng của Nancy Deaver, một ngày sau khi tất cả chúng tôi đứng quanh trụ sở nghị viện bang ở Montpelier, reo hò cổ vũ McGovern. Rand không có mặt tại ca đẻ, dĩ nhiên rồi, nhưng Casey ra đời vào buổi chiều và chính trong bữa ăn tối hôm đó, Rand bảo anh nghe thấy tôi dùng những từ dâng trào và dâng trào tinh hoa. Có lẽ anh đã đúng. Hẳn tôi đã liên hệ giữa sự ngây ngất của tất cả chúng tôi ở Montpelier khi McGovern phát biểu ngày hôm trước, hầu hết đều không bị hóa chất tác động, với sự ngây ngất của tôi và Nancy vào ngày hôm sau. Tôi đã cảm thấy rất tốt đẹp về hành tinh và tương lai trong cả hai buổi chiều. Khi tất cả chúng tôi đứng trên bãi cỏ của trụ sở nghị viện bang lắng nghe ông ấy, ngoài trời lạnh cóng, và khi hai má tôi lạnh đến nỗi da đau buốt, tôi có thể nhìn thấy hơi thở của mọi người khi họ nói chuyện, trông như họ đang phát tiết tinh hoa của mình một cách rất ư thiêng liêng, ý nghĩa và có lẽ đơn giản là khỏe mạnh. Và dù tôi luôn hiểu lý do sinh học căn bản của việc dùng từ “co thắt” trong các cơ quan y tế, dựa trên cả ca sinh của Connie lẫn tất cả những ca sinh mà tôi đã chứng kiến, ý tưởng về một sự dâng trào phản ánh cả khát vọng chào đời của đứa bé lẫn sức mạnh không thể tin nổi của người mẹ. “Dâng trào” cũng có thể chính xác hơn về mặt tinh thần, nhất là khi nó được gọi là “dâng trào tinh hoa.” trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth MÃI ĐẾN MÙA THU NĂM 1981 - mùa thu diễn ra phiên tòa của mẹ - bố Rand của tôi vẫn còn để tóc mai dài. Những sợi tóc không bò xuống mặt ông đến khóe miệng như người ta thường để vào những năm 1960 và đầu 1970, nhưng tôi nhớ đã nhìn lên má ông khi chúng tôi ngồi cạnh nhau trong phòng xử án và để ý thấy tóc mai xõa như những móng ngựa quanh tai ông, mọc dài xuống ngay phía dưới dái tai. Khi lời cung khai tỏ ra đặc biệt bất lợi cho mẹ tôi, hoặc khi mẹ bị luật sư của bang đối chất, tôi đã nhìn bố hồi hộp kéo chùm tóc đen mà ông đã để mọc dài phía sau tai. LUẬT SƯ WILLIAM TANNER: Vậy bà đã yêu cầu Mục sư Bedford đem đến cho bà một con dao? SIBYL DANFORTH: Đúng. TANNER: Bà không phải yêu cầu một con dao bất kì. Bà đã yêu cầu một con dao bén, có đúng không? DANFORTH: Có thể. Tôi không nghĩ mình lại đi yêu cầu một con dao cùn. TANNER: Cả Mục sư Bedford và người học việc của bà đều kể lại rằng bà yêu cầu “con dao bén nhất trong nhà.” Đó có phải là lời của bà không? DANFORTH: Đó có thể là lời của tôi. TANNER: Có phải lý do bà cần “con dao bén nhất trong nhà” là vì bà không đem theo dao mổ không? DANFORTH: Ý ông là đến các ca đẻ? TANNER: Chính xác là vậy. DANFORTH: Không, dĩ nhiên là tôi không đem theo. Tôi chưa từng gặp một bà mụ nào làm thế cả. TANNER: Bà chưa từng gặp một bà mụ nào đem theo dao mổ à? DANFORTH: Đúng. TANNER: Đó có phải là vì bà mụ không phải là bác sĩ phẫu thuật? DANFORTH: Đúng. TANNER: Bà có tin rằng bác sĩ phẫu thuật có chuyên môn đặc biệt mà bà với tư cách là một bà mụ không có? DANFORTH: Lạy Chúa tôi, ông không nghĩ thế à? TANNER: Thưa bà Danforth? DANFORTH: Đúng, bác sĩ phẫu thuật biết những điều mà tôi không biết. Tương tự như phi công lái máy bay và cô nuôi dạy trẻ. TANNER: Bà đang nói đến việc đào tạo của họ? DANFORTH: Tôi chưa bao giờ nói tôi là bác sĩ phẫu thuật. TANNER: Một ca mổ đẻ có phải là một ca phẫu thuật không? DANFORTH: Đương nhiên. TANNER: Bà có nghĩ bà đủ trình độ thực hiện cuộc phẫu thuật này? DANFORTH: Ngay cả trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình, tôi cũng không bao giờ hình dung tôi sẽ phải làm thế. TANNER: Tôi sẽ lặp lại câu hỏi của mình. Bà có nghĩ bà đủ trình độ thực hiện cuộc phẫu thuật này? DANFORTH: Không, và tôi chưa bao giờ nói tôi nghĩ rằng mình đủ trình độ. TANNER: Vậy mà bà lại làm. Với một con dao bếp, trên một người phụ nữ sống, bà... DANFORTH: Tôi sẽ không bao giờ gây nguy hiểm cho người mẹ để cứu thai nhi... TANNER: Bà không gây nguy hiểm cho người mẹ, bà đã giết... HASTINGS: Phản đối! Lẽ ra tôi phải ngạc nhiên khi đến cuối phiên tòa, đầu bố tôi dường như chẳng còn sợi tóc nào. Trong những tấm ảnh chụp vào mùa đông năm sau đó, tóc ông trông như bắt đầu bạc, nhưng tóc mai thì vẫn nổi bật như mọi khi. Sứ mệnh của mẹ tôi - đối với bà, nó chưa bao giờ là một công việc hay nghề nghiệp - đồng nghĩa với việc bố phải chăm sóc tôi khi tôi còn bé nhiều hơn các ông bố của bạn bè tôi. Luôn có một danh sách dài các cô trông trẻ đính lên cửa tủ lạnh bằng nam châm, và thỉnh thoảng tôi lại có mặt cùng mẹ tại ca đẻ của một ai đó, nhưng chuyện sinh đẻ thường vừa ngoài dự đoán vừa tốn thời gian, và bố thường xuyên lấp đầy lỗ hổng trông-nom-Connie. Dẫu sao thì tôi vẫn là con một, còn mẹ tôi thì thường biến mất mỗi lần mười hai giờ đồng hồ, hoặc một ngày, hoặc một ngày rưỡi. Bố tôi không phải là bạn chơi nhiệt tình cho lắm khi tham gia trò mặc áo cho búp bê hoặc đập phá nồi niêu xoong chảo bằng nhựa khắp nhà bếp đồ chơi của tôi (thực ra, ông cũng không được khéo lắm với những vật dụng ấy bằng gang hoặc kim loại), nhưng ông rất sáng tạo khi tôi cần giả giọng mới cho các chú lùn, và cực kì hữu ích khi cần xây một ngôi nhà đồ chơi lâu dài bằng gỗ, hoặc một cái tạm thời bằng bàn chơi bài và drap giường. Ông thường chịu đựng bất kì chương trình nào mà tôi muốn xem trên ti vi, ngay cả khi việc đó có nghĩa là phải vật lộn đến phát cáu để điều chỉnh bộ anten râu trên ti vi suốt mười lăm phút trước khi chương trình của tôi bắt đầu. (Tín hiệu tại chỗ chúng tôi sống ở Vermont kém đến nực cười. Tôi nhớ một ngày mùa xuân nọ - khi mùa bóng chày đã bắt đầu còn mùa bóng rổ và khúc côn cầu đang bước vào giai đoạn các trận hòa không dứt - bố tôi đang xem một trận bóng rổ qua màn hình hạt và nhiễu đến độ mẹ tôi ngồi xuống ghế sofa bên cạnh ông, lật qua các trang tạp chí trong năm, mười phút, rồi ngước lên và hỏi, “Người ta đang chơi môn gì vậy?”) Bố và tôi cũng dành kha khá thời gian cùng nhau dạo quanh miền Bắc Vermont trên chiếc xe Jeep của ông. Ông thường làm tài xế chở tôi và Rollie đến nhà sách hoặc cửa hàng đồ chơi ở tận Montpelier, cửa hàng bách hóa ở St. Johnsbury, hoặc đến nhà một đứa bạn thứ ba ở Hardwick hoặc Greensboro hoặc Craftsbury. Vào tháng chín và tháng mười, dường như ngày nào ông cũng chở chúng tôi đi đâu đó, rồi sau đó làm việc tại bàn ăn trong nhà suốt đêm để cố gắng bắt kịp công việc mà ông đã bỏ bê vào ban ngày tại văn phòng: Đã có một cuộc bùng nổ dân số đáng chú ý tại hạt vào mùa thu năm đó, khoảng chín tháng sau mùa đông lạnh nhất, khắc nghiệt nhất trong nhiều năm liền, và mẹ tôi rất bận rộn. Dù cho bố cực kì kiên nhẫn với tôi, và luôn luôn ít nhất cũng làm ra vẻ mãn nguyện trước viễn cảnh lại dành một buổi chiều thứ bảy hoặc buổi tối thứ tư làm bạn với đứa con gái tám, chín tuổi, nhưng tôi biết những yêu cầu trong công việc của mẹ đã làm cuộc hôn nhân của họ trở nên căng thẳng. Khi họ cãi nhau, và tôi nhớ họ cãi nhau nhiều nhất khi tôi học tiểu học, ở độ tuổi mà tôi còn đủ bé để cần người giám sát liên tục và đã đủ lớn để hiểu những xung động của điều đang xảy ra ở chừng mực nào đó, các cuộc cãi vã của họ thường được lọc qua tấm van nhiệt trên trần các căn phòng ở tầng trệt. “Mẹ kiếp, con bé cần một người mẹ!” bố tôi thường quát lên, hoặc “Cô chẳng bao giờ có mặt ở đây vì con!” hoặc “Tôi không thể làm việc này một mình!” Bất chấp thực tế, ông tiếp tục tin rằng có thể dùng tôi như con át chủ bài để thuyết phục mẹ ở nhà. Điều này không bao giờ phát huy tác dụng, và nó thường xuyên khiến ông phải thay đổi chiến thuật từ tội lỗi sang đe dọa: “Tôi không cưới cô về để sống một mình trong cái nhà này!” “Một cuộc hôn nhân cần đến sự quan tâm của hai người, Sibyl ạ.” “Tôi sẽ có một cô vợ trong đời này, Sibyl. Đó là sự thật.” Vào lúc bắt đầu của những cuộc cãi cọ này, mẹ tôi luôn có vẻ lúng túng và tổn thương hơn là tức giận, nhưng ẩn sau nỗi buồn ban đầu trong giọng điệu của bà là một sự bướng bỉnh không khoan nhượng, cũng như loại đá granite của Vermont vậy. Bà không thể dừng đỡ đẻ trẻ em nếu người ta không dừng tạo ra chúng. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng bố xứng đáng được điểm cao vì đơn giản đã chịu đựng tất cả những điều đó: Chồng của đa số các bà mụ không chịu đựng nổi giờ giấc làm việc của vợ được lâu, đặc biệt là khi chính họ cũng lên chức bố, và hầu hết bạn bè trong nghề của mẹ tôi đều đã li dị ít nhất một lần. Các cuộc cãi vã của bố mẹ thường kết thúc trong im lặng, thông thường vì bố tôi nổi tính đa nghi: “Đợi đã. Đứa bé chào đời lúc sáu giờ tối phải không?” Tôi có thể nghe ông hỏi thế. “Ừ. Julia. Thật là một cô bé xinh xắn.” “Bây giờ hơn chín giờ rồi! Cô làm cái quái gì trong ba giờ đồng hồ qua?” “Xếp quần áo trẻ con. Anh biết em thích xếp quần áo trẻ con mà.” “Cô xếp quần áo trẻ con những ba giờ đồng hồ á? Vậy bố mẹ đứa bé hẳn phải làm chủ cả một cửa hàng bán đồ trẻ em đấy.” “Ôi, vì Chúa, Rand ạ. Anh biết em đâu phải chỉ ở đấy để xếp quần áo trẻ con. Em muốn đảm bảo mọi người đều ổn cả. Đó làcon đầu lòng của họ, anh biết không.” “Vậy cô dành thời gian bao lâu...” “Ba mươi phút, Rand à. Có lẽ em đã dành ra ba mươi phút để xếp những bộ đồ sơ sinh và những chiếc áo cổ lọ tí hon của Julia.” “Nhưng cô đã la cà trong ba giờ đồng hồ...” “Vâng, đúng thế. Em đảm bảo Julia được bú đầy đủ, và mẹ của Julia đi lại khỏe mạnh. Em đảm bảo gia đình ấy có nhiều thức ăn trong tủ lạnh, và những người hàng xóm đang chuẩn bị đem món thịt hầm đến trong vài ngày tới.” “Và cô đảm bảo quần áo trẻ con được xếp lại.” “Còn phải hỏi,” mẹ tôi nói, và tôi có thể mường tượng cảnh bố lắc đầu ngán ngẩm. Một lúc sau tôi nghe ông rời nhà bếp, nơi họ đã cãi nhau, rồi đi một mình lên phòng ngủ của họ trên lầu. Đôi khi, sau đó, tôi nghe họ yêu nhau khi đã làm lành: Đến hôm nay, tôi nhớ tiếng động do giường họ tạo ra là một trong những âm thanh làm vững dạ nhất mà tôi từng nghe. Không may là, cũng có những cuộc cãi nhau càng lúc càng leo thang và trở nên tồi tệ, đôi khi vì bố tôi đã có hơi men. Ông hẳn đã ngà ngà say khi mẹ tôi về nhà, còn bà hẳn đã rất mệt mỏi và cáu kỉnh. Đây là một sự kết hợp dễ bùng nổ. Và trong khi mẹ tôi sẽ không bao giờ uống rượu để bắt kịp bố - tinh thần trách nhiệm của một bà mụ khiến bà không uống hoặc hút cần sa mỗi khi bà làm nhiệm vụ - nhưng khi bị tổn thương, bà có thể mắng té tát với một nỗi giận dữ vừa lưu loát vừa thô bạo về mặt từ ngữ. Tôi chưa bao giờ nghe bố mẹ tát hoặc đánh nhau, nhưng dưới sự khống chế của rượu scotch rởm và sự kiệt sức, họ thường nói những điều gây tổn thương không kém gì một nắm đấm. Có thể còn hơn cả thế. Tôi đã nghe những từ ngữ và lời đối đáp mà tôi không hiểu vào lúc đó nhưng vẫn khiến tôi hoảng sợ vì tôi biết một ngày nào đó tôi sẽ hiểu ra. Tôi không bao giờ kể chi tiết các cuộc cãi vã của bố mẹ cho Rollie, nhưng tôi kể cho nó nghe đủ để một ngày nọ, nó cho tôi lời khuyên rất có ích: Thỉnh thoảng thay thế khoảng hai centimet rượu Clan McGregor bằng chừng đấy nước máy. Phải sáng suốt nếu chai rượu sắp cạn, và luôn ghi nhớ trong đầu vị trí chính xác trên nhãn mà chất lỏng chạm đến - chẳng hạn như đường viền của váy người thổi kèn túi hoặc chiếc kèn túi, hoặc đáy của dòng chữ ghi tên nhãn hiệu rượu. Nó bảo đã làm thế với chính bố mẹ nó trong nhiều năm rồi, và nhìn xem cuộc hôn nhân của họ tốt đẹp thế nào. Vào những đêm bố chọn cách chôn vùi nỗi bực dọc của mình trong men rượu, các cuộc cãi vã của họ bùng nổ như sấm sét lúc ba giờ sáng: ồn ào và đáng sợ, đôi khi mãi thật lâu sau mới qua đi, nhưng thiệt hại nhìn thấy được mà nó gây ra rất nhỏ. Khi tôi nhìn sân nhà vào buổi sáng sau một trận bão tháng tám đặc biệt dữ dội và đáng sợ, ánh mặt trời thường hé lộ tổn thất nhỏ nhoi. Vài đóa hoa tú cầu trắng cuối hè vương vãi trên đất; một cây phong yếu ớt mất vài chiếc lá; sau nhà chúng tôi, thậm chí còn có cả một cái cây từ trong rừng, bị gió thổi đến bãi cỏ. Nhưng ánh mặt trời luôn trấn an tôi rằng bão không bao giờ tồi tệ như âm thanh của nó, và tôi thường cảm thấy thế sau những trận cãi nhau của bố mẹ, khi chúng tôi ăn sáng cùng nhau vào ngày hôm sau. Tôi biết bố mẹ chưa bao giờ ngừng yêu nhau - rất nồng nàn, điên cuồng, hỗn loạn - và một trong hai người luôn có mặt vì tôi. Căn cứ vào khoảng thời gian mà tôi được bố chở đi khắp nơi khi trưởng thành, chẳng có gì ngạc nhiên khi lần đầu tiên tôi làm quen với gia đình Bedford là khi tôi đi với bố. Nhưng dĩ nhiên số phận hai gia đình gắn kết với nhau chính là thông qua mẹ tôi: Cô Bedford là một bệnh nhân của mẹ và là trung tâm của những bi kịch công khai mà hai gia đình chúng tôi phải đối mặt. Cô Bedford - Charlotte Fugett Bedford, sau này tôi biết cái tên ấy từ báo chí - đến từ Mobile, Alabama. (Rất dễ liên tưởng cô ấy với “một trong những người mang họ Fugett ở Mobile”, nhưng như thế sẽ hàm ý một dòng dõi ấn tượng hơn thế hệ những người lĩnh canh, bán rượu lậu và trộm cắp vặt mà tôi biết mới thực là tổ tiên cô ấy). Chồng cô, Mục sư Asa Bedford, đến từ một thị trấn nhỏ ở Alabama, nằm cách xa bờ biển, gọi là Blood Brook. Nhiều năm sau, khi tôi quyết định đến thăm vùng này, tôi đã nhìn chăm chú hàng giờ liền vào chấm nhỏ đánh dấu nó trên một tấm bản đồ của câu lạc bộ ô tô tiểu bang trước khi đánh liều đến đó. Khi đến nơi, tôi đã ngay lập tức sợ hãi và ngạc nhiên trước trí tưởng tượng chính xác của mình. Nó là một giao lộ bẩn thỉu tập trung những căn nhà lụp xụp, không khí dày đặc muỗi và ruồi, còn cái nóng có thể khiến những khu vườn của Vermont tàn héo chỉ trong vài phút. Tôi hình dung ở Blood Brook không có trường học, và quả đúng là như thế. Tôi luôn hình dung ở đó có một nhà thờ để gây cảm hứng cho Mục sư Asa, và đúng là như thế thật. Lớp sơn trắng đã tróc ra khỏi ván như lớp da bị thối rữa, và cỏ nhọn mọc cao từ những khe hở trên lối đi trước nhà thờ: Với một ngày tận thế cận kề, chẳng có lý do gì để sơn phết hoặc nhổ cỏ. Tuy nền tảng địa lý đó đã được lưu ý, và tính mỉa mai của tôi đã bộc lộ, tôi vẫn muốn nói rằng mình đã rất thích gia đình Bedford khi gặp họ. Đa số mọi người đều đáng mến: Họ là những kẻ cuồng đạo, nhưng cô ấy rất dễ mến, còn Mục sư thì tử tế. Tôi biết họ có tín đồ và cho rằng họ cũng có bạn bè. Khi mới đến Vermont, nhà Bedford sống cách chúng tôi ba mươi phút về phía Bắc ở Lawson, còn xứ đạo nhỏ bé của Mục sư Bedford thì cách đấy thêm hai mươi hoặc ba mươi phút nữa về phía Bắc, ở Fallsburg. Nhà thờ của Mục sư - một nhà thờ đạo Quaker được tu sửa lại, cách Newport mười sáu cây số về phía Tây Bắc, trên một đường quốc lộ cao tốc hai làn chỉ có cây cối xung quanh- nằm cách biên giới Canada chỉ một cuốc đi bộ sớm. Vào lúc cao điểm, giáo đoàn của Bedford tập hợp khoảng sáu mươi giáo dân từ Vermont và Eastern Townships của Quebec, những người một lòng tin tưởng rằng sự tái lâm của Chúa sẽ diễn ra trong thời đại của họ. Khi gia đình Bedford đến Green Mountains, tin rằng vùng Vương quốc Đông Bắc[8] quê mùa của Vermont đã đủ chín muồi để tiến hành phục sinh. Họ đã có một đứa con, một cậu bé bảy tuổi tên là Jared, nhưng cô Bedford luôn gọi là Foogie - một cách gọi rút gọn của họ Fugett. Ngay cả nếu mẹ tôi không làm bà mụ, thì tôi vẫn sẽ gặp gia đình Bedford, dù tôi không tưởng tượng mình sẽ biết về họ rõ như tôi đã biết, hoặc rằng ngày hôm nay tên của hai gia đình sẽ được liên hệ trong đầu nhiều người đến thế. Và dù mối liên hệ đầu tiên của chúng tôi rất phức tạp, nhưng nó cũng tự nhiên, chắc chắn, và không thể tháo rời như một cái cuống rốn vậy. Foogie được bố mẹ dạy học ở nhà, có nghĩa là mẹ của Rollie bạn tôi phải đến thăm họ định kì với tư cách thanh tra giáo dục của bang. Bà McKenna có trách nhiệm đảm bảo rằng gia đình họ tôn trọng những điều cơ bản trong giáo trình cần học. Có thể vì nhà Bedford còn lạ nước lạ cái ở Vermont, có thể vì bà McKenna muốn đảm bảo rằng cậu bé Foogie được tiếp xúc với thế giới bên ngoài nhà thờ của cha cậu càng nhiều càng tốt, bà đã đề nghị con gái mình, Rollie, làm một cô trông trẻ tận tụy và có trách nhiệm với cậu bé. Vì thế, với tư cách là bạn của cô trông trẻ, tôi đã gặp gia đình Bedford lần đầu tiên khi bố chở tôi đến đấy vào cuối một chiều thứ bảy để chơi với Rollie khi nó trông Foogie tối hôm đó. Rollie đã có mặt từ bữa ăn sáng, trong lúc Mục sư và cô Bedford đến miền Nam New Hampshire để dự hội nghị Người rửa tội của hai bang. Dù họ không phải là người rửa tội, nhưng Mục sư Asa vẫn thường tìm được một hoặc hai gia đình tại những nơi ẩn dật cuối tuần kiểu này, những người sẽ chăm chú lắng nghe ông nói về đức tin của mình, và cân nhắc chuyện mời ông đến nhà thờ của họ. Ngôi nhà của họ giản dị và cũ kĩ, nằm ẩn sâu trong rừng ở cuối một con đường đất dài. Một thế kỉ trước, khu rừng này từng là đồng cỏ và đất trang trại, bố tôi nói lên quan sát của ông khi lần đầu tiên chở tôi đến đó, chỉ vào những bức tường đá rêu xanh thấp lè tè ngoài cửa xe Jeep mà chúng tôi băng qua khi chiếc xe lóc xóc chạy trên đường. Tôi không thể hình dung ra một điều như thế; tôi không thể tưởng tượng có ai đó có thể khai quang một khu rừng rậm thế này vào thời đại trước khi có sự ra đời của cưa máy và xe chở gỗ. Dù hầu hết những người nông dân canh tác trên đồi ở Vermont đều rất cẩn thận chọn xây nhà của họ trên đỉnh cơ ngơi của mình, nhưng cũng có vài người vì lý do này hay lý do khác chọn thung lũng - có lẽ vì một người dò mạch nước đã tìm thấy một cái giếng cạn ở đấy. Bất kể ai đã xây nơi ở của nhà Bedford hàng trăm năm trước đều nằm trong số ngoại lệ đó. Tôi có thể cảm thấy mình chúi về trước trong xe Jeep khi chúng tôi tiến xuống sâu hơn vào trong rừng, và sợi dây an toàn để thắt ngang đùi ấn vào eo tôi. Ấn tượng đầu tiên của tôi về nơi ở của nhà Bedford - một ấn tượng thu được lúc hai tháng trước sinh nhật thứ mười ba của tôi - là một người nào đó có ít tiền hoặc kĩ năng làm mộc đang cố hết sức để giữ nó ngăn nắp. Cỏ mọc cao trong bãi cỏ nhỏ bao bọc quanh ngôi nhà, trông như chưa được cắt vào mùa xuân năm đó (Ngày lễ Tưởng niệm[9] chỉ mới diễn ra cách đó một tuần), nhưng ai đó đã đặt những phiến đá xanh hình vuông trên lối đi từ con đường đất đến cửa trước chỉ mới đây thôi, đến nỗi tôi có thể thấy dấu bàn tay người ấn thẳng xuống đất tại mép các phiến đá. Hai cửa sổ ở tầng thứ nhất của ngôi nhà có những vết nứt dài được dán lại bằng bột matit trắng, nhưng sau khung cửa là những tấm rèm bằng ren trang nhã. Nhiều tấm ván đã mục, nhưng những cây đinh đóng xuyên qua chúng để giữ chúng dính vào các bức tường bên ngoài còn mới đến độ bốn mặt ngôi nhà lấp lánh những đốm bạc nhỏ. Đó là một ngôi nhà hình hộp hai tầng gọn ghẽ, góc mái nhà rộng và thanh nhã, tường sơn màu vàng hoa thủy tiên. Lớp sơn đã bắt đầu bong tróc, nhưng vẫn đủ sáng để khi Mục sư Bedford khởi động xe chở Rollie và tôi về nhà tối hôm ấy, ánh sáng từ đèn pha khiến ngôi nhà tỏa màu lưu huỳnh rực rỡ. Vào ngày thứ bảy, tôi gặp ba người nhà Bedford - Foogie vào cuối buổi chiều và vợ chồng Mục sư lúc gần mười giờ tối - chùm tế bào sẽ trở thành Veil (đọc là Vel với lý do mà tôi nghĩ chỉ có Mục sư Asa mới hiểu hết) còn chưa tồn tại, nhưng sẽ hình thành không lâu sau đó. Bất kể Mục sư Asa che giấu trong người nỗi sợ hay sự phấn khích gì, điều đó thường không biểu hiện trên nét mặt ông. Khuôn mặt ông tròn trĩnh giống như tròng mắt kính ông đeo, còn mái tóc thì đã lùi lại xa trên đầu; tuy thế, phần tóc còn lại rất dày và có màu nâu đỏ. Hầu như lần nào tôi cũng thấy ông mặc áo sơ mi trắng là thẳng thớm, cài nút chỉn chu. Giống như bố tôi, ông là mẫu người mà tôi hình dung rằng khá gầy khi còn trẻ, nhưng giờ đã phát tướng và nặng nề hơn ở tuổi trung niên. Trông ông giống kiểu doanh nhân nông thôn mà tôi thường thấy ở St. Johnsbury hoặc Montpelier: kém tinh tế, ít nhất là trong mắt tôi, so với những doanh nhân mà tôi đã thấy trên ti vi hoặc bố tôi, đương nhiên. Ông cũng là một trong số hiếm hoi những người lớn đặc biệt có khả năng giả vờ ngờ nghệch giống hệt một đứa trẻ. Và Foogie sùng bái ông vì điều đó. Tôi thấy Mục sư Asa giả vờ làm con lừa đi trên bãi cỏ bằng tay và đầu gối, khịt mũi, cất tiếng hí và chở đứa con trai khoái chí của mình trên lưng. Tôi chứng kiến vị mục sư đi lạch bạch như vịt để làm Foogie vui, và nghĩ ra các vần điệu để dạy thằng bé đọc một số âm: “Phóc! Bóc! Ô kìa con sóc!” “Em thổi kèn, anh rước đèn, các bạn khen!” “Con cá nằm trong cối đá, đem nấu với cà, đãi được cả nhà!” Khi ở cạnh Rollie và tôi, ông rất lịch thiệp và nghiêm trang; tôi hiểu ở một chừng mực nào đó rằng ông bị đa số người khác cho là hơi kì lạ, nhưng gia đình tôi và gia đình McKenna chắc chắn không phản đối việc chúng tôi chơi đùa cạnh ông hoặc với gia đình ông. Khu Vương quốc Đông Bắc luôn nổi tiếng về sự mộ đạo và các cộng đồng dân cư, còn nhà thờ nhỏ của Mục sư Asa thì chỉ đơn giản là một ví dụ nữa về sự vô hại. Mặt khác, dù tôi chưa bao giờ nghe ông truyền đạo, nhưng tôi tưởng tượng ông rất thích điều mà tôi gọi là trường phái thuyết giảng giăng bẫy. Đôi khi ông cho phép mình thốt ra lời bình phẩm trước mặt tôi và Rollie mà tôi dám chắc bố mẹ chúng tôi sẽ tá hỏa nếu chúng tôi kể lại với họ. Vào một đêm trời đặc biệt tối khi ông chuẩn bị đưa Rollie và tôi về nhà sau khi chúng tôi đã trông nom Foogie, ông đứng trên lối đi đá xanh nhìn lên bầu trời đen và lẩm bẩm, “Đêm tối sớm muộn sẽ không còn. Chúng ta sớm muộn sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay mặt trời nữa.” Lần khác, khi cô Bedford đang ở trên lầu dỗ Foogie đi ngủ và ông thấy những lá thư duy nhất ông nhận được ngày hôm đó là mớ hóa đơn từ công ty điện thoại và khí đốt, ông nói với những chiếc phong bì - không nhận ra Rollie và tôi đang ở trong tầm nghe thấy - “Ta thực tình rất vui lòng trả lại Caesar những gì thuộc về Caesar, nhất là khi ta biết tất cả các ngươi sẽ chết lần thứ hai trong hồ lửa.” Ông có giọng miền nam đặc sệt, khiến tôi luôn cảm thấy những câu nói của ông nghe như bài hát, dù một số bài hát ấy có thể đáng sợ không ngờ. Charlotte Bedford là một người phụ nữ nhỏ bé, trông có vẻ yếu đuối, chỉ to hơn Rollie và tôi khi cơ thể chúng tôi đến tuổi dậy thì. Cô không cao, người chỉ có da bọc xương. Da cô lúc nào trông cũng trắng bệch như ma, và tôi tin rằng Charlotte không cố tạo ra vẻ bề ngoài đó. (Vài năm sau, khi nhà Bedford đã đi qua cuộc đời gia đình tôi như một thiên tai, tôi vào học cao đẳng ở Massachussetts. Trong năm thứ hai ở trường, tôi kết bạn với một hoa khôi đến từ một thị trấn trên hồ Pontchartrain, Lousiana, và cô ấy thực sự cố gắng để trông trắng bệch như bột, vì thế tôi tin mình biết sự khác biệt.) Nhưng cô không xử sự như thể mình ốm yếu, và điều đó rõ ràng trở thành một vấn đề quan trọng tại phiên tòa. Mẹ tôi tin là có một sự khác biệt quan trọng giữa yếu đuối và ốm yếu. Bà đã khuyến nghị nhiều phụ nữ có tiền sử bệnh tật không nên đẻ con tại nhà, nhưng những người phụ nữ gây cho ta ấn tượng họ trông thật yếu đuối tại khu mua sắm hoặc nhà thuốc thực tế lại không có vấn đề gì về sức khỏe - những phụ nữ đó mẹ tôi rất sẵn lòng giúp đỡ khi họ có mang. Mẹ tôi tin rằng đẻ tại nhà là một trải nghiệm cực kì mạnh mẽ và tăng cường sức lực, nó cho những người phụ nữ yếu đuối nguồn năng lượng, sự tự tin, và sức mạnh: Họ biết cơ thể mình có thể làm được gì, và nó cho họ sự động viên. Và tôi biết mẹ tôi đã nhận ra khá nhanh rằng Charlotte chưa sẵn sàng cho những ngày ngắn ngủi, cái lạnh tê tái, và những trận tuyết rơi không dứt của mùa đông Vermont. Đặc biệt là mùa đông Vermont nằm cách không xa biên giới phía Bắc của bang. Ngay từ đầu tháng mười, khi Charlotte ở thai kì thứ hai và đến khám thai định kì ở phòng mạch của mẹ tại nhà chúng tôi ở Reddington, cô đã hốt hoảng và lo lắng khi nói về thời tiết. “Tôi thật không biết chúng tôi phải làm gì ở trên này, tôi thật không biết chúng tôi sẽ vượt qua thế nào đây,” tôi nghe cô nói với mẹ tôi. “Asa thậm chí còn không có thời gian để sắm một chiếc xẻng xúc tuyết, mà tôi thì chẳng biết tìm một đôi bốt thích hợp ở đâu nữa. Và chúng sao mà đắt quá, đắt kinh khủng.” Họ đã đến Vermont vào khoảng thời gian tốt nhất trong năm để rồi bị huyễn hoặc với niềm tin sai lầm rằng bang này có khí hậu thân thiện, chào đón, và ôn hòa. Tôi có thể hình dung suy nghĩ của cô khi họ đến vào giữa tháng tư, ngay sau mùa bùn kinh khủng của năm đó, khi những quả đồi lởm chởm đá của Vermont - những quả đồi dày đặc cây phong, cây thông và tro bụi - bùng nổ màu sắc sau một đêm, còn ngày đang trở nên dài và ấm hơn. Có lẽ cô đã tưởng tượng những mùa đông thần thoại thực ra chỉ là như thế: là thần thoại mà thôi. Đương nhiên trời có tuyết, nhưng chính quyền có máy cào tuyết. Có thể đôi khi mưa sẽ đóng băng, có thể đường chạy xe vào nhà sẽ lầy lội một chút vào tháng ba... nhưng không có gì mà một mục sư và gia đình ông lại không thể giải quyết. Nhưng cô đã được biết đến một mùa thu khó chịu ở Vermont còn mùa đông thì thậm chí khắc nghiệt hơn nữa. Có một đợt sương giá rét mướt vào cuối tháng tám năm đó, và cô đã mất sạch số hoa cô trồng ven lối đi lát đá xanh vào mùa xuân trước; có một đợt tuyết nhẹ trong tuần thứ hai của tháng chín, và tuyết đã đóng dày hơn hai mươi centimet vào ngày thứ sáu và thứ bảy của lễ Columbus. Charlotte có đôi mắt màu xám như đá mặt trăng, mái tóc mỏng màu rơm. Cô trông cũng xinh, nếu bạn không bận tâm đến cảm giác yểu mệnh phảng phất nhưng không thể nhầm lẫn dường như phát ra từ làn da tái nhợt đó. Rollie và tôi đón Lễ Quốc khánh ở nhà Bedford, trông nom Foogie. Buổi chiều chúng tôi mặc áo phông và quần sooc, nhìn Foogie mặc đồ tắm chạy tung tăng dưới bình phun nước, rồi sau đó dùng vòi xịt nước vào cậu bé. Nó rất thích. Nó có làn da trắng giống mẹ, gần như trong suốt, nhưng lại có mái tóc màu đỏ và cái đầu tròn của Mục sư Asa. Nó là một đứa bé đáng yêu, nhưng lại thừa hưởng những nét xấu xí của bố mẹ nó. Rollie lúc bấy giờ đã có kinh, còn tôi thì chưa. Nó đang gặp “đèn đỏ” lần thứ tư vào cuối tuần đó, một sự thật mà nó chẳng lấy gì làm tự hào khi chia sẻ với tôi: sự đau đớn của những cơn co thắt mà nó đang khổ sở chịu đựng, lượng máu chảy mà nó nói là quá mạnh đến nỗi nó phải bỏ tôi một mình với Foogie hầu như mỗi tiếng một lần để chạy vội vào trong thay băng vệ sinh mới. Một lần khi Foogie không nghe thấy, tôi trêu Rollie, bảo rằng nó đang bịa ra chuyện “đèn đỏ”. “Sao cậu có thể nói như thế?” nó hỏi. “Quần sooc màu trắng của cậu,” tôi trả lời. “Khi tớ có kinh, còn lâu tớ mới mặc quần trắng. Nhỡ băng bị tràn thì sao?” “Băng không bị tràn đâu,” nó nói chắc nịch, với giọng ngụ ý tôi chả biết tí ti gì về điều mình đang nói. “Vả lại, tại sao tớ phải nói dối là tớ đang có kinh cơ chứ? Đây đâu phải là một lớp tiếng Pháp mà tớ muốn trốn học.” Tôi nhún vai để nói rằng mình không biết, nhưng tôi biết. Hay ít ra tôi nghĩ rằng tôi biết. Rollie và tôi đều là những cô gái xinh xắn, nhưng tôi có thứ mà nó không có: bộ ngực. Không quá to đến mức lũ con trai sẽ trêu chọc tôi hoặc làm tôi cảm thấy xấu hổ, nhưng rõ ràng đủ để một người như Rollie phải chú ý. Có lẽ chính vì sự vô tư của mẹ tôi về cơ thể, về chuyện đẻ đái, về chuyện một đứa bé hình thành trong dạ con như thế nào, mà Rollie và tôi đã trở thành những đứa con gái biết tuốt. Chúng tôi nói chẳng bao giờ đủ về chuyện hôn hít, vuốt ve và ngừa thai - bao cao su, thuốc, màng chắn, và một thứ khiến cả hai đứa không khỏi kinh hoảng, gọi là vòng tránh thai. Nằm giữa những quyển tiểu thuyết trinh thám bìa mềm đã quăn góc mà bố mẹ Rollie đặt trên kệ sách trong phòng ngủ của họ là quyển sách đã được đọc nhiều lần mang tên Người đàn ông đầy khoái cảm và - phía sau dãy sách bìa mềm, tựa vào bức tường của kệ sách - là một quyển sách bìa cứng nhan đề Lạc thú tình dục. Rollie và tôi thường cùng nhau đọc quyển sách ấy tại nhà nó, và thu thập từ đó một sự hiểu biết trước tuổi đáng sợ về những chuyện như liếm mút cho nữ, liếm mút cho nam, và mọi cách kích thích trước khi giao hợp. Chúng tôi tưởng tượng người tình của mình sau này sẽ thực hiện những động tác được đề nghị trong sách: đút chiếc lưỡi cong của họ vào cốc uống rượu mạnh, chống đẩy hàng giờ liền. Khi ấy tôi vẫn chưa từng nhìn thấy một cái dương vật thật, và tôi có cảm giác sự cương dương thật có thể khiến tôi sợ đến chết nếu tôi bị như thế, nhưng giữa những chi tiết giải phẫu học về cơ chế hoạt động của bộ phận sinh dục nam và nữ mà tôi đã lượm lặt được từ mẹ qua thời gian, và cảm giác thỏa mãn có được từ những cơ quan này như đề cập trong sách của bà McKenna, tôi nghĩ mình ít bị lúng túng về chuyện tình dục hơn rất nhiều so với đa số những đứa con gái tuổi tôi vào mùa hè giữa lớp sáu và lớp bảy. Rollie cũng thế. Cả hai đều hi vọng rằng khi chúng tôi trở lại trường vào mùa thu, lũ con trai sẽ bắt đầu để ý chúng tôi. Chúng tôi không cao lắm, mà điều đấy rất quan trọng, và chúng tôi không có mụn. Chúng tôi thông minh, điều mà tôi biết sẽ làm vài cậu trai phát khiếp, nhưng không phải kiểu con trai mà chúng tôi thích: Có lẽ không có thứ gì làm một chàng trai như Tom Corts sợ hãi, chúng tôi nghĩ thế, và chắc chắn không phải là thứ vô hại như sở thích đọc sách. Và, may mắn thay, ngoại hình chúng tôi không giống nhau, chúng tôi cho đó là điều tốt: Nó sẽ giảm thiểu khả năng một cậu con trai có thể thích cùng lúc cả hai chúng tôi, hoặc chúng tôi cùng thích cậu ta. Chúng tôi hiểu từ những năm tháng cưỡi ngựa và chơi đùa cùng nhau rằng chúng tôi là một đôi cạnh tranh với nhau, và vì tôi có tóc vàng hoe trong khi Rollie tóc nâu, tôi có mắt xanh còn nó mắt nâu, điều đó sẽ giảm thiểu khả năng một đứa con trai can thiệp vào tình bạn của chúng tôi. Hoặc, như Rollie giải thích vào ngày Lễ Quốc khánh năm đó, “Con trai săm soi chúng ta như chúng ta săm soi lũ ngựa: màu lông, chiều cao, mắt, đuôi. Bọn họ không thể không có sự thiên vị.” Con ngựa của Rollie màu nâu hạt dẻ, và theo quan điểm vũ trụ học của Rollie McKenna về sự thiên vị, điều đó có nghĩa là Rollie có thể luôn luôn thích ngựa màu hạt dẻ đến hết đời. Bản chất con người mà. Chiều hôm đó Rollie giúp tôi lên phương án để duy trì liên lạc với Tom Corts cho đến khi trường học khai giảng lại vào tháng chín và chúng tôi sẽ ở bên nhau trong cùng khu mê cung bằng gạch giống như trò lắp ghép Lego mà một người nào đó nghĩ rằng là thiết kế thích hợp cho một ngôi trường. Tom có việc làm vào mùa hè năm ấy và tôi xem đó như là một trong những tín hiệu (chẳng hạn như, tủ quần áo dường như chỉ có toàn áo cổ lọ màu đen của anh) rằng anh muốn làm được nhiều việc hơn là sửa xe ô tô trong garage tồi tàn của gia đình, hoặc phóng bạt mạng trên xe máy cho đến khi đội cứu hộ đưa vội anh vào bệnh viện với một tay hay một chân treo lủng lẳng. Anh đang làm việc cho Powder Peak, khu nghỉ mát trượt tuyết gần đó, xén cỏ quanh khu nhà nghỉ tầng hầm, cũng là nơi đặt văn phòng làm việc của công ty, và làm trợ lý cho đội bảo trì khi họ cần điều chỉnh ghế ngồi trên cáp đưa người trượt tuyết lên núi và lau chùi máy móc. Anh sắp mười lăm tuổi (cũng như tôi sắp lên mười ba), và anh có thể tụ tập với anh em và bố của mình ở garage, anh có thể dành cả tháng bảy và tháng tám để hút thuốc vô tội vạ với bạn bè của anh em và bố, nhưng anh đã không làm thế: Anh đi nhờ xe lên núi vào mỗi buổi sáng và đi nhờ một thành viên của đội bảo trì về nhà mỗi buổi tối. Dù xén cỏ và tra dầu ghế cáp chẳng có gì là to tát, nhưng vì anh làm việc đó ở cách nhà vài cây số, nên tôi thấy anh rất có chí. Dĩ nhiên, công việc cũng khiến anh phần lớn thời gian không có mặt ở làng. Dù Tom và tôi chỉ mới hôn nhau một lần, và lần duy nhất đó đã là ba tháng rưỡi trước, nhưng tôi vẫn tin chắc rằng chúng tôi có thể có tương lai nếu một trong hai đứa tìm được cách đưa cơ thể mình vào trạng thái gần gũi hợp lý. Tôi tin rằng Tom đã không cố hôn tôi lần nữa vì hai lý do đơn giản, và theo thiển ý tôi, khiến tôi vững dạ. Thứ nhất, anh lớn hơn tôi hai tuổi, và do đó với sự ga lăng của một đấng nam nhi tử tế và hiểu biết, sợ rằng tôi còn quá bé để hôn thường xuyên. Ngoài ra, chuyện anh lớn hơn tôi hai tuổi còn có nghĩa đường đời chúng tôi đơn giản là không giao nhau với bất kì tần số nào - chắc chắn là không giao nhau từ tháng chín đến tháng sáu, khi cả hai cùng học trường trung học công đoàn nhưng lại có cả một khối nằm giữa hai chúng tôi như một vùng đệm, và giờ đây vào mùa hè cũng thế, vì anh có người lớn cho đi nhờ đến khu nghỉ mát trượt tuyết. Nếu Rollie không tin chắc như tôi rằng Tom Corts là định mệnh của tôi, thì nó ít nhất cũng đồng tình rằng anh là một chàng trai tốt để tôi hẹn hò. Anh thông minh, độc lập, và dễ thương. Và bởi sẽ chẳng còn khả năng nào để đường đời của Tom và tôi giao nhau vào mùa thu, khi anh học lớp mười còn tôi học lớp tám, Rollie tin rằng chúng tôi phải cố gắng thúc đẩy mối quan hệ vào mùa hè. Trong tâm trí của một cô bé mười ba tuổi như Rollie, điều này có nghĩa đơn giản là phải hiện diện trước mắt Tom để anh lại có thể nảy ra sáng kiến gì đó. “Quán kem tươi,” nó chu đáo đưa ra đề nghị với tôi vào chiều hôm đó. “Cậu phải lượn lờ ở quán kem tươi một khi đã xác định được khi nào anh ấy đến đó.” “Tớ sẽ không lượn lờ ở quán kem tươi đâu. Tớ sẽ béo lên cho mà xem.” “Cậu không cần phải ăn gì cả. Cậu chỉ cần đến đó.” “Không đời nào. Tớ nghĩ tớ sẽ bị ốm nếu hít quá nhiều dầu mỡ từ món khoai tây chiên.” “Cậu đâu có hít vào dầu mỡ.” “Và tớ sẽ bị nổi mụn.” “Cậu có thể sẽ nổi mụn khi cậu có kinh.” “Cậu đâu có!” “Tớ rửa mặt bảy tám lần mỗi ngày. Hai giờ một lần.” “Vậy thì tớ cũng sẽ làm thế. Cậu nghĩ tớ là gì chứ, con lười à?” “Tớ nghĩ cậu đang lý do lý trấu để khỏi chạm mặt Tom vì cậu mắc cỡ.” “Tớ chẳng thấy cậu có tình cảm đặc biệt với ai.” “Hiện giờ chẳng có đứa con trai nào khiến tớ quan tâm cả.” Tôi lắc đầu, trong lúc Foogie chĩa vòi nước vào một tổ ong bầu gần mái hiên của ngôi nhà. “Tớ sẽ không lượn lờ ở quán kem tươi, đơn giản thế thôi.” “Cậu có ý gì hay hơn không?” “Có thể là cửa hàng bách hóa. Anh ấy phải mua thuốc lá trước khi lên núi.” “Hoặc khi anh ấy về nhà.” “Ừ.” “Cậu không thể lảng vảng ở cửa hàng bách hóa, cậu biết mà.” “Nhưng tớ có thể đến đấy khi anh ấy ở đó.” Và câu chuyện tiếp diễn đến gần hết ngày. Chúng tôi vẫn ở bên ngoài, ngồi trên bậc tam cấp trước nhà đợi vợ chồng Bedford về, khi chiều chầm chậm chuyển sang tối. Qua cửa sổ phòng khách, chúng tôi nghe thấy Foogie đang xem phim truyền hình nhiều tập cũ phát lại trên ti vi, trong lúc đâm một chiếc đĩa bay bằng nhựa vào chiếc gối phồng trên ghế sofa hết lần này đến lần khác. Những câu chuyện mà các luật sư và nhà báo sẽ chọn để kể - dù trong tâm trí tôi, chúng chắc chắn không phải là câu chuyện của mẹ tôi - bắt đầu từ buổi chiều hôm ấy. Vợ chồng Bedford về nhà lúc sáu giờ, sau khi hầu hết các cuộc liên hoan ngoài trời ở Vermont đã bắt đầu bốc khói, nhưng còn cách vài giờ trước khi màn trời đêm được thắp sáng với những chùm pháo hoa gầy gò, rực rỡ. Khi Mục sư Bedford đang trả tiền cho Rollie (một khoản phí mà nó sẽ chia với tôi ngày hôm đó, dù nó mới là người trông trẻ chính thức của Foogie), cô Bedford kéo tôi vào nhà bếp. Bằng một giọng thì thào mềm mỏng, bằng một ngữ điệu cho thấy cô đang trao đổi về một đề tài bị cấm đoán một cách mơ hồ, cô hỏi, “Connie à, mẹ của cháu, bà ấy có đúng là bà mụ không?”

Chú thích:

[8] Vương quốc Đông Bắc (Northeast Kingdom): chỉ góc Đông Bắc của bang Vermont, thường được người dân Vermont gọi là “Vương quốc”. [9] Ngày lễ Tưởng niệm, còn gọi là Ngày lễ vinh danh chiến sĩ trận vong, diễn ra vào ngày thứ Hai cuối cùng của tháng Năm hằng năm tại Mỹ, để vinh danh những binh lính Mỹ tử trận lúc làm nhiệm vụ.