← Quay lại trang sách

- 5 -

Tôi đã đỡ đẻ cho hai thợ làm bánh, nhưng chưa đỡ đẻ cho nhân viên nhà băng nào.

Các bà mẹ của tôi là họa sĩ, nghệ sĩ điêu khắc, nhiếp ảnh gia, và tất thảy những người được trời phú cho tài năng thực sự tuyệt vời. Có ba bà mẹ của tôi là những nghệ sĩ đan sợi cực kì tài giỏi, và hai người trong số đó đã đan nên những tấm thảm kì diệu nhất mà tôi từng thấy trong đời. Khi có những cha mẹ là nghệ sĩ nhưng nghèo túng, tôi đã được trả công bằng những chiếc chăn thủ công do chính họ làm ra, những bức tranh, tác phẩm chạm trổ và tranh thủy tinh màu. Ngôi nhà chúng tôi đẹp đẽ là nhờ sự trao đổi hàng hóa.

Và cũng có nhiều nhạc sĩ trong số các ông bố bà mẹ của tôi, trong đó có cả Banjo Stan. Và Sunny Starker. Và nhóm Tullys.

Có những thanh niên làm trang trại, thợ mộc - có lẽ số lượng đủ để xây thành Rome trong một ngày - vợ của những người điều hành báo in, những chị em làm trang sức, gốm, làm nến từ sáp ong. Nếu tôi xem lại sổ sách của mình, tôi có thể tìm thấy một vài giáo viên, một biên tập viên báo chí, những người thợ điện làm công nhật, một chị chuyên làm đẹp cho chó, một anh thợ cắt tóc, vợ của những thợ cơ khí ô tô, chồng của những cô bồi bàn đang chuyển dạ, một đôi vợ chồng hướng dẫn trượt tuyết, người quét dọn ống khói, thợ lợp mái nhà, mục sư, thợ đốn gỗ, thợ hàn, thợ đào đất, một cô nhân viên mát xa, thợ máy, người điều khiển cần cẩu, một nữ giáo sư, và đại biểu nữ đầu tiên của bang chuyên trách giao thông và du lịch.

Nhưng không có nhân viên nhà băng. Không luật sư. Và không bác sĩ.

Không có người làm quảng cáo để kiếm tiền, hoặc trám răng, hoặc tính thuế của người khác.

Không có người, như Rand, thiết kế nhà hoặc cao ốc hoặc trung tâm khoa học của trường cao đẳng.

Những kiểu người đó thường thích chọn bệnh viện hơn sinh tại nhà, và chọn bác sĩ sản phụ khoa hơn... hơn những người như tôi. Thế cũng hay. Họ nghĩ như vậy an toàn hơn, và dù thống kê cho thấy trong hầu hết các trường hợp, sinh tại nhà cũng không rủi ro hơn sinh tại bệnh viện là bao, nhưng họ cần làm những gì đúng đắn đối với họ. Tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn bình thường.

Ðôi khi tôi chợt nghĩ thật buồn cười khi tôi chưa bao giờ đỡ đẻ cho một nhân viên nhà băng.

trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

KHI MỘT CHIẾC MÁY BAY BỊ RƠI, thường là có hơn một thứ gặp trục trặc. Hệ thống an toàn trên những chuyến bay chở khách chồng chéo lên nhau, và trong đa số trường hợp cần một chuỗi những sai sót và xui xẻo để một chiếc máy bay cày xuống một khu rừng ở ngoại ô Pittsburgh, hoặc trượt khỏi một đường băng ở La Guardia vào Vịnh Flushing. Một chiếc máy bay Fokker F-28 do hai phi công kì cựu điều khiển một ngày nào đó có thể chúi mũi xuống hồ Champlain vài giây trước khi hạ cánh xuống sân bay Burlington cạnh bên theo kế hoạch, làm thiệt mạng ít nhất năm mươi sáu hành khách và bốn người trong phi hành đoàn, nhưng một vụ rơi máy bay như thế dù gì thì gì cũng cần phải có một chuỗi những lỗi do con người và sai sót cơ khí. Một cơn gió nghịch chiều đương nhiên có thể hạ chiếc Fokker F-28 đó, gí nó xuống đất đột ngột từ độ cao tám, chín trăm mét, và một ngày nào đó điều đó sẽ xảy ra, nhưng có lẽ chỉ gió thôi là chưa đủ.

Cần phải có thêm, ví dụ như, cơ trưởng bị ốm khi ông lẽ ra phải có mặt tại buổi huấn luyện định kì của hãng hàng không về gió nghịch chiều - khi nào thì nó xảy ra, làm sao để đưa một chiếc máy bay băng qua nó.

Hoặc có thể đó đã là một chuyến bay êm ái từ Chicago đến Burlington, và dù cho lúc này mây xám đang cuồn cuộn còn sấm dội rền vang ở Tây Bắc Vermont, nhưng chuyến bay nhẹ nhàng tiến về hướng đông đã ru ngủ các phi công một chút, và họ đang phớt lờ quy định buồng lái nghiêm ngặt của Cục Hàng không liên bang Mỹ về việc cấm các cuộc nói chuyện ngoài lề dưới độ cao ba nghìn mét. Có thể viên phi công đang bình phẩm về việc các con của ông rất thích đi bộ đường dài vào rừng sâu ở Đông Bắc Burlington đúng vào lúc cơn gió nghịch chiều đập mạnh lên nóc máy bay, lời bình của ông về rừng rậm làm trì hoãn một giây quan trọng việc đưa ra quyết định tăng tốc máy bay lao về trước và bỏ lệnh hạ cánh.

Hoặc có thể đúng vào giây phút còi báo động gió nghịch chiều trong buồng lái gào lên âm thanh cảnh báo nhức óc và viên phi công theo bản năng lái máy bay sang bên phải để tránh hạ cánh, nhân viên không lưu ở tháp điều khiển Burlington đang thông báo với ông về cơn gió và yêu cầu tăng độ cao lên về phía bên trái; trong mớ hỗn loạn cảnh báo - một máy, một người - chỉ cần nửa giây chần chừ cần thiết để cơn gió đẩy chiếc máy bay lắp ráp từ những năm 1970 xuống hồ nước chứa hàng trăm chiếc phà, xuồng, và những khẩu đại bác bằng sắt từ thế kỉ mười tám và mười chín.

Tôi đang kể với bạn những điều này vì đó là những gì luật sư của mẹ tôi nói đến rất nhiều khi ông ấy mới nhận lời bào chữa cho bà. Ông có thể nói thao thao bất tuyệt, luôn luôn dẫn đến một quan điểm giống nhau. Đại khái là, phân phải thực sự đập vào cánh quạt thì máy bay mới rơi chúi mũi được.

Luật sư của mẹ tôi từng là thợ cơ khí mặt đất trong không lực hồi chiến tranh Việt Nam, nhưng vô cùng khát khao được trở thành phi công: Tuy nhiên, do vừa mù màu vừa cận thị, nên thị lực của ông không cho phép ông làm điều đó. Như tôi nhớ, cách nói ví von của ông vào năm 1981 chủ yếu xoay quanh cánh máy bay đóng băng thay vì gió nghịch chiều, hoặc - một cách nói rất ưa thích của ông ấy - chuỗi những sự kiện bất ngờ thường phải xảy ra để khiến một chiếc máy bay phản lực bị rơi vì nó hết nhiên liệu. Nhưng ông rất thích kiểu nói ví von của mình.

Lúc ông ngồi ở bàn ăn trong nhà chúng tôi giữa những chồng giấy ghi chú màu vàng, hoặc lúc ông đi đi lại lại trong nhà bếp, thỉnh thoảng dừng lại trước khung cửa sổ nhìn ra con đường trượt tuyết trên núi Chittenden, quan điểm của ông trong suốt những ngày và đêm đó là bất biến khi ông bắt đầu chuyển dịch tất cả những biến số trong đầu: Cần phải có cùng một chuỗi những bất hạnh và sai lầm để một bệnh nhân của mẹ tôi chết trong lúc sinh con, cũng như để một chiếc máy bay rơi xuống.

Và sự việc có vẻ là như thế, ít nhất là lúc đầu, trong cái chết của Charlotte Fugett Bedford. Cô ấy chết vào giữa tháng ba, sau một cơn đau đẻ dài như ác mộng. Lớp băng đá rơi mãi không ngừng đêm hôm đó đã làm mẹ tôi và người học việc của bà kẹt lại với Mục sư Asa và Charlotte. Ngay cả xe tải chở cát và xe xúc tuyết còn bị trượt ra khỏi mặt đường như những chiếc xe trượt tuyết bằng nhựa. Điện thoại không bị mất tín hiệu quá lâu vào ngày 14 tháng ba, nhưng chúng đã mất tín hiệu đúng vào khoảng bốn giờ sinh tử từ mười hai giờ hai mươi lăm đến bốn giờ mười lăm sáng hôm đó.

Và có một lúc Charlotte thực ra đã có biểu hiện khiến mẹ tôi lo sợ hiện tượng nhau bong non: Nhau bong ra khỏi thành dạ con, khiến người mẹ có thể chảy máu đến chết. Có lúc Charlotte chảy máu xối xả từ âm đạo, và cơn đau trong người cô dường như nghiêm trọng hơn kiểu đau đẻ tự nhiên. Nhưng máu đã chảy chậm lại thành nhỏ giọt, rồi dừng hẳn, và nếu nhau có bong non, thì rõ ràng nó đã vón lại và bắt đầu tự lành.

Lại có lúc huyết áp của Charlotte hạ xuống mức bảy mươi lăm trên năm mươi trong thời gian ngắn, còn nhịp tim của thai nhi chậm lại trong khoảng sáu mươi đến bảy mươi nhịp một phút. Mẹ tôi và trợ lý của bà chỉ mới làm việc cùng nhau được ba tháng tính đến tháng ba năm đó, và Anne Austin vẫn còn phải học hỏi nhiều: khi cô ấy - một cô gái trẻ chỉ mới hai mươi hai tuổi - đặt ống nghe lên bụng Charlotte và nghe thấy tim đứa bé đập chậm lại, cô đã bật khóc để mẹ tôi nghe thấy, điều đó dĩ nhiên khiến Charlotte sợ hãi khóc thành tiếng.

Rõ ràng đã có náo loạn trong căn phòng đó ngay cả trước khi điều tồi tệ nhất xảy ra.

Do đó, khi Stephen Hastings - từ cựu binh Việt Nam chuyển sang làm luật sư Vermont - mới nhận lời đại diện cho mẹ tôi, ông đã kết luận rằng hẳn phải có một sự kết hợp giữa thời tiết khắc nghiệt, đường dây điện thoại bị đứt, và vận xui để Charlotte Bedford tử vong. Trong suy nghĩ của ông, nếu không có băng đá trên đường, mẹ tôi hẳn đã lái xe chở bệnh nhân của bà đến bệnh viện ở Newport. Nếu điện thoại hoạt động được, bà hẳn đã gọi cho đội cứu hộ, và họ hẳn đã tức tốc đưa Charlotte đến đó. Và, đương nhiên, mẹ tôi sẽ làm mọi điều có thể nếu Charlotte bị sốc vì nhau bong non. Mẹ tôi đã chuẩn bị cung cấp khí oxy. Bà đã chỉ đạo Anne lôi từ trong chiếc túi đồ nghề bằng vải in hoa ra nào ống nhựa, nào kim và túi chất dịch trong suốt mà bà sẽ truyền cho Charlotte để giữ cho cô không bị mất nước... nhưng Charlotte đột nhiên ổn định.

Không, nguyên nhân tử vong không phải là nhau bong non, như khám nghiệm pháp y sau này khẳng định. Và mẹ tôi hiểu điều này rất rõ trước khi cơn khủng hoảng thật bắt đầu: một thứ giống như chứng phình động mạch não ở đâu đó sâu bên trong não của Charlotte.

Đôi khi tôi nghe mẹ cố gắng giải thích với Stephen rằng dù đã có những khoảnh khắc hỗn loạn và lúng túng vào đêm đó, nhưng chuỗi những sự kiện tước đi mạng sống của Charlotte Fugett Bedford lại không hề phức tạp như kiểu chuỗi sự kiện lôi máy bay từ trên trời và con người vào chỗ chết. Bà cố gắng nói với ông rằng nó vô cùng bình thường, và ông luôn từ tốn nhắc bà rằng nó không phải thế.

Hoặc ít nhất là, ông ấy thường nói, nó không bình thường trong mắt bồi thẩm đoàn. Và rồi họ lại thảo luận một lần nữa điều không thể chối cãi đã xảy ra trong căn phòng ấy.

Charlotte Fugett Bedford chuyển dạ đứa con thứ hai của cô vào ngày thứ năm, 13 tháng ba, năm 1981. Các cơn co thắt của cô bắt đầu xuất hiện vào cuối buổi sáng, và Charlotte kết luận rằng cơn đau lưng của cô chẳng liên quan gì đến cách cô nhấc chiếc máy hút bụi lên khi lau xong phòng khách. Vào lúc một giờ ba mươi lăm, cô gọi điện cho chồng mình ở văn phòng của ông tại nhà thờ và nói chuyện với ông trong ba phút. Vào lúc một giờ bốn mươi, cô gọi cho mẹ tôi, gặp bà lúc bà đang chuẩn bị ra khỏi nhà để thay dầu chiếc xe nhà ga. Charlotte và mẹ tôi nói chuyện trong sáu phút.

Mẹ tôi biết Charlotte đã chuyển dạ rất dễ dàng khi sinh Foogie, dù giai đoạn đầu - khoảng thời gian khi cổ tử cung mở đến mười centimet, và các cơn co thắt trở nên dài hơn, thường xuyên hơn, và ồn ào hơn - đã diễn ra trong một ngày rưỡi dưới cái nóng của Alabama. Tuy nhiên, giai đoạn thứ hai lại rất ngắn: Khi Charlotte đã sẵn sàng rặn, cô đẩy Foogie qua khe sinh sau hai mươi phút.

Dù không có bản ghi chép nào về cuộc nói chuyện của mẹ tôi và Charlotte trên điện thoại, nhưng bên công tố chưa bao giờ nghi ngờ lời khai của bà. Bà kể Charlotte nói với bà những cơn co thắt của cô vào đầu buổi chiều thứ năm hôm đó vẫn còn cách nhau hai mươi phút và kéo dài khoảng ba mươi hoặc ba mươi lăm giây. Vì thế mẹ tôi quyết định vẫn đi thay dầu xe như đã dự định và sau đó tiến về phía bắc đến nhà Bedford. Bà tính toán mình sẽ đến đó lúc ba giờ hoặc ba giờ ba mươi, và bà đã đúng.

Tuy nhiên, bà đã gọi điện cho người học việc mới và yêu cầu Anne đến nhà Bedford ngay lập tức. Bà không biết khi nào Mục sư Asa mới về, và bà muốn đảm bảo Charlotte có người bên cạnh.

Tôi nhớ mình đã bước xuống xe buýt đưa đón học sinh ở Reddington buổi chiều hôm đó đúng vào lúc bầu trời bắt đầu phụt xuống một cơn mưa tháng ba lạnh buốt. Trên núi vẫn còn một tấm chăn tuyết dày, được làm mới có lẽ hai ngày một lần, nhưng trận tuyết duy nhất ở Reddington ngày hôm đó là dòng chảy chậm dọc những mặt tối của các tòa nhà. Nhiệt độ vẫn lơ lửng giữa khoảng âm sáu đến âm một độ trong phần lớn các buổi chiều, nhưng chúng tôi biết mùa đông đang lui dần và mùa bùn sẽ sớm đến.

Tôi không ngạc nhiên rằng mẹ đã đi vắng khi tôi bước vào nhà. Tôi không cần đọc lời nhắn bà viết bằng cây bút nỉ mực xanh mà bà yêu thích, để biết bà đang đến nhà Bedford. Tôi đã trông đợi lời nhắn ấy nhiều ngày rồi.

Vào khoảng cùng lúc tôi đi học về, một trong các giáo dân của Mục sư Asa ghé qua nhà Bedford để đón Foogie. Nhà của gia đình Bedford rất nhỏ, và bố mẹ của Foogie đã đồng ý rằng tốt nhất là để cậu con trai ở một nơi nào khác khi em nó chào đời.

Giai đoạn chuyển dạ đầu khi sinh đứa con thứ hai của Charlotte lâu hơn rất nhiều so với dự đoán của hầu hết các bà mụ và bác sĩ. Mẹ tôi đến nhà Bedford vào tầm giữa buổi chiều, và khai trước tòa rằng bà dự tính Charlotte sẽ sinh con không lâu sau bữa tối. Bà nói bà chưa bao giờ đi đến một ca đẻ mang theo bất kì hi vọng nào, hoặc mục tiêu tính theo giờ nào trong đầu: chẳng hạn như một giai đoạn đầu thì phải kéo dài mười giờ, sau đó là chín mươi phút rặn. Bà nói không một bà mụ hay bác sĩ nào làm thế. Nhưng khi bị luật sư của bang chất vấn, bà nói nếu bà có bất kì hi vọng nào, thì đó hẳn là bà nghĩ cổ tử cung của Charlotte sẽ mở hoàn toàn vào khoảng sáu hoặc bảy giờ tối, và đứa bé sẽ chui ra vào khoảng chín hoặc mười giờ tối hôm đó - muộn nhất là thế.

Lúc không giờ kém mười lăm phút, khi Charlotte đã mở được tám centimet và đầu đứa bé đã xuống dưới xương sống đốt háng đến vị trí thuận lợi đầu tiên - đó là khi, theo suy nghĩ của mẹ tôi, cuống rốn không còn khả năng trượt qua cổ tử cung đi qua đầu đứa bé, gây nguy hiểm cho thai nhi - mẹ tôi thận trọng cắt lớp màng đang chặn nước ối của Charlotte.

“Tôi không hiểu tại sao chị lại làm thế,” Anne thì thầm với mẹ tôi, lo rằng sự can thiệp này là không cần thiết.

“Đã đến lúc,” mẹ tôi nhún vai đáp.

Vào giữa đêm trời bắt đầu mưa, và những giọt nước mưa biến thành băng đá khi chạm xuống mặt đất giá lạnh. Lúc đó là âm một độ C tại trung tâm thời tiết của Trường cao đẳng bang Lyndon. Vào lúc không giờ hai mươi lăm, điện thoại giữa Newport và Richford, giữa Reddington và Derby Line bị cắt đứt, do sức nặng của băng đá đóng trên đường dây điện thoại, và vài cơn gió không đúng lúc. Mẹ tôi và người học việc của bà không hề biết điện thoại đã hỏng lúc đó, nhưng họ sẽ sớm biết điều này.

Cổ tử cung của Charlotte đã mở hoàn toàn lúc một giờ sáng. Giai đoạn đầu tiên của cô kéo dài mười ba giờ đồng hồ. Sự chuyển biến của Charlotte, giai đoạn kinh hoàng đối với nhiều bà mẹ ấy, chỉ ngay trước khi họ phải bắt đầu dùng hết sức bình sinh để rặn, những khoảnh khắc mà nhiều bà mẹ lo lắng với nỗi sợ bản năng rằng họ sẽ không sống nổi qua thử thách này, đầy biến động. Cả mẹ tôi lẫn Asa Bedford đều khai trước tòa rằng Charlotte bắt đầu khóc trong cơn đau, nói đi nói lại rằng đứa bé trong người đang sắp xé toạc cô ra. Cô van nài họ giúp cô, nói với họ rằng cô cảm thấy khác so với lần sinh Foogie, đây là kiểu đau chết người, đây là sự tra tấn mà cô không còn chịu đựng nổi nữa và cô sẽ không sống nổi.

“Tôi không làm được, tôi không làm được! Chúa ơi, tôi không làm được!” cô kêu gào.

Và, trong ít nhất một phương diện, Charlotte đã đúng khi cô ấy nói rằng cô cảm thấy khác so với lần sinh con đầu lòng. Không như lần sinh con thứ nhất, ngày và đêm đó ở Vermont, cô đang chịu đựng cơn cực hình chuyển dạ với một đứa bé nằm ở vị trí chẩm sau bên phải: Đầu đứa bé đang đè lên xương cùng, đốt xương ở phía sau khung chậu của Charlotte. Thay vì úp mặt xuống khi nhú ra, rất có khả năng đứa bé sẽ ngửa mặt chào đời.

Nhưng điều này không khiến mẹ tôi hoảng hốt. Thông thường đứa bé sẽ xoay lại vào cuối giai đoạn chuyển dạ đầu tiên hoặc vào đầu giai đoạn thứ hai. Và để tăng khả năng đứa bé xoay lại - cũng như để giảm đau lưng cho Charlotte - mẹ tôi bảo Charlotte đứng lên và đi lại giữa những cơn co thắt, bà để cô chuyển dạ trong lúc bò trên hai tay và đầu gối. Đôi khi mẹ bảo Anne đắp miếng gạc hoặc khăn nóng lên lưng Charlotte; thỉnh thoảng bà bảo Charlotte ngồi xổm.

Giữa một giờ và một giờ ba mươi phút sáng, khi Charlotte ở trong tình cảnh khốn khổ nhất và tiếng la khóc của cô rất lớn, kéo dài đầy tuyệt vọng, Mục sư Asa đã cầu nguyện. Mẹ tôi đã khai sau khi tuyên thệ rằng bà vẫn xem ca đẻ là bình thường, và những gì đã xảy ra đều không hề có tính cảnh báo với bất kì bác sĩ sản phụ khoa hoặc bà mụ nào ở bất kì nơi đâu trên thế giới. Cơn đau đẻ của Charlotte đến thời điểm ấy là rất vất vả, nhưng nó không đe dọa tính mạng hoặc nguy hiểm cho đứa bé bên trong cô.

Thoạt đầu Mục sư Asa còn cầu nguyện nhẹ nhàng, giọng của ông đều đều và bình tĩnh, nhưng khi tiếng rên rỉ của Charlotte mỗi lúc một ai oán và dễ sợ, tiếng cầu nguyện của ông trở nên gấp gáp và căng thẳng hơn.

Cả mẹ tôi và Anne đều khai rằng ông đã cầu xin Đức giáo hoàng giúp đứa con của Ngài là Charlotte vượt qua thử thách này, cho cô sức mạnh và lòng can đảm để chịu đựng nó, và bảo vệ cô suốt chặng đường. Ông cầu nguyện trôi chảy nhất khi Charlotte im lặng nhất: Khi Charlotte mở to miệng để la hét, ông thường giảm lời cầu nguyện xuống còn bài kinh cầu Chúa hết lần này đến lần khác.

Đôi khi Charlotte cố gắng đọc kinh cầu Chúa với ông, nhưng cô không bao giờ đọc hết trước khi phải dừng lại để thở trong đau đớn.

Còn mẹ tôi vẫn không ngừng trấn an cả hai người - và, khi đêm ngày càng dài hơn, điều này còn trấn an cả cô trợ lý của bà nữa - rằng cơn đau đẻ ở lưng rất vất vả và đau đớn, nhưng không gây chết người.

Ngay sau một giờ ba mươi phút, không lâu sau khi mẹ tôi đề nghị Mục sư Asa trèo lên giường và ngồi sau lưng vợ khi cô rặn, mẹ tôi để ý thấy vết máu. Bà tự nhủ đấy chỉ là máu báo chuyển dạ, nhưng thời điểm chảy máu và lượng máu khiến nhịp tim bà đập theo kiểu làm bà hồi hộp. Bà và Anne chỉ vừa mới đặt tấm trải sạch, được tiệt trùng trong lò nướng lên giường để đón đứa bé, và vết máu loang ra trên tấm vải trắng như một ly rượu vang đỏ bị đổ trên khăn trải bàn mới.

Charlotte khiến mẹ tôi ngạc nhiên khi nâng cơ thể mình lên với một sức lực khiến cô suýt lăn ra khỏi giường. Đến khi mẹ tôi níu được cô và bảo rằng cô vẫn ổn, thì máu đã vấy lên đùi và mông cô, cũng như lòng bàn tay mà cô dùng để đập vào giường trong lúc đau.

Sự chịu đựng của Charlotte có vẻ đã quá sức, và khi mẹ đo huyết áp cho cô, bà thấy nó đã giảm trong một giờ đó: huyết áp tâm thu đã giảm xuống còn tám mươi, và tâm trương xuống sáu mươi. Mạch của Charlotte đã tăng lên một - hai mươi, rồi một - ba mươi, nhưng nhịp tim của thai nhi vẫn không lên nổi chín mươi nhịp một phút.

Mẹ tôi quyết định sẽ không bảo Charlotte rặn thêm trong vài phút nữa, trong lúc bà theo dõi cô. Nếu huyết áp Charlotte tiếp tục giảm, nếu bà nghĩ cô ấy đang rơi vào trạng thái sốc hoặc nếu thấy thêm bất kì dấu hiệu nào của hiện tượng thai suy, bà dự định sẽ gọi đội cứu hộ của thị trấn để đưa cô đến bệnh viện. Nếu vì lý do nào đó họ không có sẵn người, bà sẽ đích thân chở cô đến đấy.

Ba phút sau, huyết áp của Charlotte giảm xuống bảy mươi lăm trên năm mươi, còn nhịp tim thai nhi đã giảm xuống sáu mươi hoặc bảy mươi nhịp một phút. Máu âm đạo đã trở thành dòng chảy nhỏ giọt rất nhỏ, hầu như không nhìn thấy, và rồi dừng hẳn... nhưng tấm trải giường ướt sũng nhắc lại quy mô của đợt sóng trước đó. Và thế là mẹ tôi nói với hai người làm cha mẹ trong phòng đó rằng vì lợi ích của Charlotte cũng như của thai nhi, đứa bé nên được sinh trong bệnh viện. Bà nói - và rõ ràng lời nói của bà lập tức trở nên hụt hơi và lo lắng - có khả năng nhau đã bong ra khỏi thành dạ con. Bà giải thích điều này có nghĩa là đứa con của họ sẽ không có đủ dưỡng chất cần thiết, và Charlotte có thể đang chảy máu trong.

Mẹ tôi không bao giờ đưa ra quyết định một cách chóng vánh hoặc hời hợt rằng bệnh nhân của bà cần đến bệnh viện, nhưng bà cũng không bao giờ chần chừ đưa một thai phụ đang gặp nhiều biến chứng nguy hiểm đến sinh con với tấm lưới an toàn của y học hiện đại trải ra bên dưới cô ấy. Trước ngày 14 tháng ba năm 1981, tỉ lệ thai phụ được Sibyl Danforth đưa đến bệnh viện vì nhiều lý do là một phần hai mươi lăm.

Cả bà và Mục sư Asa sau này đều khai rằng nếu điện thoại hoạt động vào đêm hôm đó, thì mọi việc có thể đã kết thúc khác đi. Không như một vài bậc cha mẹ van nài mẹ tôi để họ tiếp tục cố gắng, những người hoặc quá yêu thích sinh con tại nhà hoặc ghét bệnh viện với lòng căm ghét tột độ đến mức họ sẵn sàng đau đẻ hàng giờ liền bất chấp nguy hiểm, gia đình Bedford sẵn sàng chấp thuận rằng họ sẽ mạo hiểm đến những chiếc giường đẻ được cơ khí hóa với đường ray kim loại và những căn phòng phẫu thuật vô trùng của Bệnh viện North Country ở Newport.

Mẹ tôi nhấc điện thoại trong phòng ngủ lên để gọi cho đội cứu hộ (thời đó hầu hết điện thoại ở Vương quốc Đông Bắc thực ra đều yêu cầu họ phải quay số gọi về nghĩa đen) và phát hiện không có tín hiệu. Theo phản xạ, bà ấn vào hai nút trên giá để ống nghe và kiểm tra kết nối: kết nối của dây vào điện thoại và vào lỗ cắm gần chân tường. Khi thấy cả hai đều được gắn vào, bà đề nghị Anne kiểm tra điện thoại ở nhà bếp dưới lầu. Một lúc sau Anne gọi với lên lầu để thông báo với mẹ tôi rằng điện thoại ở tầng trệt không hoạt động.

“Nó cũng hỏng rồi!” cô ấy nói to với họ, và cả mẹ tôi lẫn Mục sư Asa đều nhận ra sự hoảng loạn trong giọng nói của cô gái trẻ, sự hoảng loạn mà họ hi vọng Charlotte không nghe thấy. Tuy nhiên, rõ ràng cô đã nghe.

Lúc ấy mưa và đá thủy tinh cứng đã đập vào cửa sổ phòng ngủ trong hơn một giờ, dù mẹ tôi nói bà chỉ nhận ra âm thanh ấy ngay sau khi Anne hét lên tin dữ từ lối đi nhỏ ở chân cầu thang. Sau khi người học việc phát hiện chắc chắn rằng điện thoại đã hỏng, Charlotte trở nên im lặng trong sợ hãi, còn cơn mưa và băng đá vẫn đập lên cửa kính không dứt nghe như, theo lời khai của mẹ tôi ở bục nhân chứng, “như ai đó đang dùng hết sức bình sinh ném hàng nắm sỏi, như thể họ đang cố làm vỡ kính.”

Mẹ tôi gọi Anne trở lại phòng ngủ để ở bên cạnh Charlotte và Mục sư Asa trong khi bà đi ra ngoài để khởi động xe: Chiếc xe nhà ga của bà to hơn chiếc Sunbird bé nhỏ của gia đình Bedford hoặc chiếc Maverick tí hon của Anne, và Charlotte sẽ cảm thấy thoải mái nhất khi ngồi trong đó.

Mặt đất đã trở nên trơn trượt thế nào? Chuyến vật lộn của mẹ tôi băng qua lối đi được Mục sư Asa lát đá xanh và qua mười ba mét đường lái xe vào nhà đến điểm đỗ xe của bà sẽ không đến nỗi buồn cười nếu nó không đau khổ đến vậy. Ba ngày sau, vào ngày thứ hai, luật sư của mẹ đã chụp hình những vết bầm - vẫn còn xanh tím và xấu xí - dọc hai chân bà. Họ cũng chụp hình những vết cắt dài dọc phía trong bàn tay bà, cũng như mắt cá chân bị bong gân sưng phồng mà bà phải dán miếng băng Ace suốt mấy tuần liền sau đó.

Mẹ nói bà đã ngã bốn lần trước khi bò bằng tay và đầu gối đến xe của mình, sau đó đứng lên bằng cách vịn vào tay cầm kim loại của cửa trước chiếc xe. Tuy vậy bà vẫn dự định sẽ chở Charlotte đến bệnh viện, và bắt đầu bằng cách cố đưa chiếc xe đến ngay bậc thềm trước nhà - mặc kệ cái sân và đá xanh - để Charlotte không phải đi bộ trên sân trượt băng đã bao phủ khu đất nhà Bedford. Khi bà từ từ đạp chân xuống ga, các lốp xe xoay tít như những bánh xe lễ hội không di chuyển được, trước khi đột ngột đẩy chiếc xe về trước và rồi quay nó gần như ba trăm sáu mươi độ. Chiếc xe trượt xuống phần sót lại của một bức vách tuyết phủ băng mà một giáo dân của Mục sư Asa đã đắp lên trong lúc xúc tuyết đường lái xe vào nhà suốt mùa đông năm ấy. Và dù chiếc xe của mẹ tôi không hề hấn gì, bà biết chuyện lái xe đến bệnh viện là bất khả thi.

Nếu mẹ tôi có khóc - và tôi nghĩ bà có toàn quyền làm điều đó khi đẩy cửa xe ra và lăn xuống đất trước khi quay trở về nhà của Bedford - thì bà cũng đã nín khi có mặt trở lại cạnh Charlotte, Mục sư Asa và Anne. Nhưng sau này bà nói bà đã khóc. Bà từng đỡ ra thai nhi đã chết, những đứa bé đẻ non có linh hồn mà bà nói rằng đã lên thiên đường trước khi da thịt kịp biết đến một thế giới rộng lớn hơn tử cung, nhưng kinh nghiệm không làm cho thử thách lần này bớt buồn hơn. Bà nói bà luôn khóc cho những đứa bé ấy và cho cha mẹ chúng, và bà lo sợ lúc này rằng đứa bé bên trong Charlotte sẽ chết, và gia đình Bedford sẽ mất đứa con thứ hai của họ. (Sau đó, điều tra của bang cho thấy trước ngày 14 tháng ba năm 1981, có ba ca thai nhi tử vong trong lúc được mẹ tôi đỡ đẻ, hay gần bằng chính xác tỉ lệ thường xảy ra đối với những thai phụ được bác sĩ sản phụ khoa đỡ đẻ.)

Mẹ tôi khai rằng dù mặt đất trơn trượt vì băng đá, nhưng vẫn có một ít bụi tuyết bám vào cỏ, và khi bà trông thấy nó, bà đã tưởng tượng cảnh lớp bã nhờn thai nhi bao bọc cơ thể của đứa bé vô hồn, không còn thở của nhà Bedford. Bà tưởng tượng đứa bé là một bé trai.

Nhưng dù mẹ tôi lo lắng họ sẽ mất đứa bé, bà bảo chưa bao giờ nghĩ đến cảnh Charlotte Fugett Bedford sẽ chết. Bà biết mình có thể cầm máu ngay sau khi đã đỡ đứa bé ra (dù sống hay chết), và chắc chắn đường dây điện thoại sẽ nhanh chóng được sửa. Bà nhắc mình rằng Charlotte phải mất ba lít, ba lít rưỡi hoặc bốn lít máu trước khi xảy ra tình trạng tim ngừng đập, và đó, theo quan điểm của mẹ tôi, là rất nhiều máu.

Bà biết trong túi đồ nghề của mình có ống tiêm, lọ thủy tinh đựng thuốc Pitocin và Ergotrate - những loại thuốc khiến tử cung co thắt mạnh, và đôi khi có thể kiểm soát tình trạng chảy máu trong. Dĩ nhiên, bà bị cấm sở hữu những vật chất được pháp luật kiểm soát này, nhưng mọi bà mụ đều đem chúng theo. Mẹ tôi cũng không cá biệt.

Tuy nhiên, hình ảnh Sibyl Danforth đi khắp nơi ở Bắc Vermont đem theo một chiếc túi to chứa đầy những loại thuốc cấm và ống tiêm không phải là một hình ảnh có lợi tại tòa án.

Trớ trêu thay, khi mẹ tôi quay trở lại phòng ngủ của nhà Bedford, Charlotte lại có vẻ khá hơn. Huyết áp của cô đã trở về bình thường, nhịp tim thai nhi cũng thế: một trăm, một - mười, rồi sau đó là con số trấn an: một trăm và hai mươi nhịp đập nhỏ bé một phút. Charlotte đã ngưng chảy máu, và cô chắc chắn không hề có triệu chứng gì của một cơn choáng. Da cô không lạnh, sắc diện trông rất ổn, thái độ rất tốt. Cuối cùng thì chẳng cần đến khí oxy hoặc truyền dịch. Không cần đến Pitocin.

“Tôi tin rằng bây giờ mình đã khỏe rồi, chị Sibyl ạ,” cô ấy nói, giọng nói mệt mỏi nhuốm hi vọng.

Với tuyên bố này, Charlotte có thể chẳng muốn nói gì hơn ngoài ý cơn đau của cô, vào lúc đó, đã trở nên chịu đựng được. Vượt qua được. Chống chọi được. Nhưng trong giọng nói của Charlotte mẹ tôi còn nghe được nhiều hơn. Trong giọng nói của Charlotte mẹ tôi đã nghe thấy một sự chứng nhận âu yếm trước sức mạnh của lời nguyện cầu: Trong lúc mẹ tôi trượt ngã thê thảm bên ngoài dưới trời mưa và băng đá lạnh mà mỗi bước sau đó đều gây cho bà một cơn đau hồn xiêu phách lạc, thì Mục sư Asa, Charlotte và cả Anne đã cầu nguyện. Mục sư Asa đã quỳ gối bên giường vợ, ôm lấy đôi tay thuôn dài, xanh xao của cô, và cùng nhau họ đã cầu nguyện để máu ngừng chảy và cơn đau giảm nhẹ; họ đã cầu nguyện cho đứa bé trong người cô được sống, và cho cuộc đời họ được ban phước với sự hiện diện của nó.

Anne nói trước tòa rằng cô chưa bao giờ nghe thấy nhiều tình yêu thương đến thế trong lời nói của một người đàn ông như cô đã nghe trong lời nói của Asa Bedford vào sáng sớm hôm đó.

Mẹ tôi lập tức cảm thấy được an ủi và xúc động. Bà không còn lo sợ nhau bong non nữa. “Xem nào,” bà nói đơn giản, “hãy đưa đứa bé ra khỏi người cô nào.” Khi đó, theo ghi chú mà bà viết vội, là hai giờ ba phút sáng.

Mẹ tôi dựng Charlotte ngồi dậy trên giường giữa hai chân Mục sư Asa và để cô dựa người vào ông một lần nữa: Lưng cô tựa vào ngực ông, còn lưng ông thì tựa vào tấm ván đầu giường. Đôi tay của Mục sư Asa có thể chạm đến đùi trong của vợ và giữ chân cô dạng ra trong lúc cô rặn, để đứa bé có chỗ chui ra. Đầu, cổ và xương sống của Charlotte nằm trên một đường thẳng, cô ngồi trên một chiếc gối cứng mà mẹ tôi mới mua tại một cửa hàng giảm giá và đã giặt sạch, để mông cô cách nệm vài centimet.

Mẹ tôi không tin rằng thai nhi đã xoay tròn trong lúc chui ra. Vì thế, bà chờ đợi nó sẽ chào đời ngửa mặt nhìn trần nhà, thay vì nhìn xuống đất, và phía sau đầu nó sẽ tiếp tục gây đau đớn cho Charlotte khi nó thực hiện chuyến đi cuối cùng qua xương chậu của cô.

Charlotte từng chuyển dạ một lần trước đây và cô đã tham gia vài khóa học sinh sản của mẹ tôi, vì thế cô biết nên thở và rặn thế nào. Cô biết làm sao để vượt qua cơn co thắt giai đoạn hai, và tận dụng tối đa từng lần một. Cô biết khi nào nên giữ khí lại trong người và rặn, khi nào nên thả lỏng và hít thở vừa phải, nhẹ nhàng.

Trong một giờ Charlotte đã rặn qua từng lần co thắt, mỗi lần như thế, mẹ tôi, Mục sư Asa và Anne lại cổ vũ cô rặn thêm một, hai giây nữa:

“Cô làm được mà, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa!”

“Em làm tốt lắm, tốt lắm! Hoàn hảo!”

“Một giây nữa, một giây nữa, một giây nữa!”

“Ôi trời ơi, chị giỏi lắm, Charlotte ạ, giỏi lắm, giỏi lắm!”

“Em làm được mà, em đang làm rất tốt, rất tốt, rất tốt. Làm tốt lắm!”

“Cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên!”

Tôi đã nhìn thấy mẹ tôi đỡ đẻ đủ nhiều để biết bà là một người hướng dẫn giỏi truyền cảm hứng và là một hoạt náo viên năng nổ nhiệt tình. Tôi cũng đã thấy cách mà hầu hết các ông bố để cho mẹ tôi dùng lời nói đem lại phần lớn sự tự tin. Mẹ tôi thật giỏi làm chuyện này.

Nhưng ai nói gì trong khoảng từ hai giờ đến sáu giờ sáng là điều rất quan trọng đối với chính quyền bang, và họ nhấn mạnh - còn mẹ tôi và luật sư của bà không bao giờ bác bỏ - rằng Mục sư Asa và Anne đã nói hầu hết các câu “Làm tốt lắm,” trong khi mẹ tôi nói hầu hết là “Một chút nữa” và “Một giây nữa.”

Charlotte nhắm mắt và nghiến răng khi cô rặn, những nếp nhăn kéo dài đến tận thái dương trên mặt cô trở nên hằn sâu hơn. Như tất cả các bà mẹ chuẩn bị sinh con, Charlotte đã căng người, đã cố gắng và chắc chắn đã nỗ lực hết sức. Đôi khi khuôn mặt cô chuyển sang màu xanh khi mẹ tôi thúc cô ép xuống mạnh hơn nữa.

“Một giây nữa, một giây nữa, một giây nữa!”

“Ôi trời ơi, cô làm tốt lắm, Charlotte, tốt lắm, tốt lắm!”

Sau khi Charlotte đã rặn suốt một giờ liền, mẹ tôi để cô nghỉ hai mươi phút. Charlotte một lần nữa lại trải qua nỗi sợ rằng cô sẽ không thể rặn đứa bé ra, và cô rất hoảng hốt. Mẹ tôi trấn an cô rằng đứa bé sẽ ổn, và cô cũng thế.

Đầu đứa bé, như mẹ tôi khai trước tòa, đã có tiến triển trong suốt một giờ đó, dù kết quả khám nghiệm pháp y không xác định được. Chuyên gia pháp y không thể biết chắc đứa bé đã đi xa cỡ nào, và ông ấy chắc chắn không thể tự tin nói nó đã đi đến đâu vào lúc ba giờ, bốn giờ, hoặc năm giờ sáng hôm đó.

Lúc ba giờ mười lăm, Charlotte tiếp tục rặn. Quai hàm nghiến chặt nhưng hai môi banh ra, cô tiếp tục cố gắng rặn đứa con ra đời. Đôi khi đầu cô dựa vào vai Mục sư Asa, đôi khi cô tựa cằm vào ngực mình.

“Cô có thể làm được, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa, một chút nữa!”

“Cô làm tốt lắm, tốt lắm! Tuyệt vời!”

Cô ấy đã cố gắng, như mẹ tôi nói, hết sức có thể như bất kì thai phụ nào mà bà từng thấy. Cơn dâng trào quét qua cơ thể Charlotte rất dài, và mẹ tôi thuyết phục cô tận dụng tối đa mỗi lần cao điểm.

Và giữa những cơn dâng trào, Charlotte lại lấy hơi, và lại cố gắng lần nữa.

“Cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên, cố lên!”

Vài phút sau bốn giờ sáng, mẹ tôi để Charlotte nghỉ lần thứ hai. Bà thấy Charlotte đã kiệt sức, và bà cũng thấy được rằng sự tự tin của cô đang vơi dần.

Có hai định nghĩa y khoa phổ biến để chỉ về giai đoạn chuyển dạ thứ hai kéo dài: một giai đoạn hai kéo dài hai giờ rưỡi, và một giai đoạn hai đã diễn ra một giờ mà đầu đứa bé vẫn không dịch chuyển thêm.

Mẹ tôi nhấn mạnh rằng đầu đứa bé thật ra đã dịch chuyển xuống trong lần nỗ lực thứ hai của Charlotte. Bà nói về sau rằng đến bốn giờ sáng, đứa bé đã thương lượng với đốt sống háng và phần lớn xương chậu: Nó chỉ cần định vị được xương mu và sau đó sẽ nhú ra.

Gần bốn giờ ba mươi cảm giác mót rặn quá dữ dội, Charlotte bảo mẹ tôi và chồng của cô rằng cô muốn cố lần nữa. Và cô đã rặn. Cô rặn mạnh hết cỡ, cô dùng hết sức bình sinh để rặn, cô rặn mạnh đến nỗi khi cuối cùng cô thở ra, cô gầm lên như một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp vào thời điểm đập mạnh vợt vào quả bóng trong cú ve ở đường biên.

Trong vài giây ngắn ngủi vào cao trào rặn của Charlotte, mẹ tôi có thể thấy chỏm tóc đen của đứa bé, nhưng đứa bé dường như luôn tụt lại vào trong.

Liệu mẹ tôi có nghĩ đến chuyện bỏ cuộc, và cố gắng làm điều mà bà biết là khó khả thi - xác định phương hướng lái xe trên con đường băng tuyết đang ngăn cách họ với bệnh viện? Mẹ tôi nói rằng bà đã nghĩ đến, dù bà không hề nói điều đó với Anne. Nhưng ngay cả Mục sư Asa cũng khai rằng từ năm đến sáu giờ sáng, mẹ tôi đã đi đến cửa sổ phòng ngủ và kéo tấm rèm mỏng để nhìn ra ngoài.

“Có phải tôi nghe thấy tiếng xe tải chở cát không nhỉ?” bà đã một lần hỏi như thế trong khoảng thời gian đó, một câu nói mà luật sư của bà tranh luận rằng là bằng chứng cho thấy bà đã thiết tha hi vọng đến một ca đẻ mổ do một bác sĩ thực hiện ở Newport.

Nhưng từ cửa sổ phòng ngủ của nhà Bedford, đường lái xe vào nhà vẫn lấp lánh như thủy tinh, còn mưa và băng đá vẫn tiếp tục rơi. Xe của mẹ tôi vẫn nằm bên vách tuyết, một sự nhắc nhở nghiệt ngã về tình trạng đường sá lúc ấy, và bà chỉ cần nhìn xuống những vết cắt trên tay mình để nhớ lại đi trên mặt đất như thế thì nguy hiểm nhường nào.

Và, Stephen Hastings chỉ ra, mẹ tôi đã không thực sự nghe thấy tiếng xe tải chở cát: Không có chiếc xe tải nào lăn bánh trên đường ở trong hoặc quanh khu Lawson từ hai giờ mười lăm đến sáu giờ ba mươi sáng hôm đó. Và ngay cả vào lúc sáu giờ ba mươi, như lời chứng nhận của thành viên đội công trình giao thông Graham Tuttle, đường sá vẫn còn “rất xấu. Tôi chạy xe ngay phía trên vạch sơn vàng, lấp cát và cào tuyết chỉ một bên làn đường. Tôi không dám chạy trên phần đường của mình, nếu không sẽ bị lao xuống mương.”

Rõ ràng Charlotte không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cố gắng rặn đứa bé ra trong phòng ngủ của cô, và vì thế dù mẹ tôi có thể đã hết lòng mong muốn rằng họ đến được bệnh viện, nhưng bà không bao giờ đề nghị ý tưởng đó với Mục sư Asa. Bà đã không bao giờ đề cập đến ý tưởng về một ca đẻ mổ tại bệnh viện North Country, vì bà biết họ không có hi vọng thật sự để đến đó.

Vả lại, mẹ tôi thực lòng tin rằng Charlotte đang có tiến bộ. Đứa bé sắp ra đời, bà nghĩ thế. Có thể chỉ cần một lần co thắt và một cú rặn thật quyết liệt nữa thôi.

Và thế là Charlotte lại cố. Cô không rặn lâu, cô không cố qua những đợt co thắt nối tiếp nhau. Nhưng khi mặt trời mọc ở đâu đó trên những dải mây đã đem băng đá và mưa đến góc này của Vermont, mọc đâu đó quá xa phía sau tấm màn đen và xám đến nỗi bầu trời không sáng nổi mãi cho đến lúc gần bảy giờ ngày hôm đó, Charlotte đã dùng toàn bộ sức lực mà cô có thể để cố gắng rặn đứa bé ra khỏi xương mu.

Đôi khi mẹ tôi thay đổi tư thế của Charlotte. Đôi khi Charlotte chuyển dạ trong lúc ngồi xổm. Đôi khi cô chuyển dạ với tấm lưng dựng thẳng, nhưng nằm hơi nghiêng qua một bên.

“Cô có thể làm được, cô có thể làm được, làm được, làm được, làm được, rặn đi, rặn đi, rặn đi, rặn đi!”

Lúc sáu giờ mười phút, khi mới bắt đầu đợt rặn thứ tư, Charlotte Fugett Bedford bị một chứng mà mẹ tôi tin là vỡ động mạch phình ở não - hoặc theo cách gọi của bà là đột quị. Bà hình dung rằng áp suất trong sọ từ nỗ lực của Charlotte đã khiến một mạch máu nhỏ trong não người phụ nữ bất hạnh này vỡ ra.

Mục sư Asa và mẹ tôi, cho đến phút đó, vẫn bảo Charlotte rằng cô có thể làm được, cô có thể đẩy đứa bé ra khỏi mình vào phòng ngủ với họ:

“Ôi trời ơi, em giỏi lắm, Charlotte, giỏi lắm, giỏi lắm!”

“Một giây nữa, một giây nữa, một giây nữa!”

Mục sư Asa đã chuyển đến đứng giữa hai chân vợ để đón đứa bé, trong khi Anne và mẹ tôi đứng hai bên, đỡ lấy cô. Đột nhiên, trong lúc gắng sức giữa cơn co thắt, cằm Charlotte bật lên từ ngực cô khi cô rặn với bất kể sức lực nào còn lại, cô mở mắt ra, và rồi thở ra với một tiếng ré nhỏ. Chồng cô trông thấy mắt cô trợn tròn, rồi nhắm lại. Mẹ tôi và Anne cảm thấy cơ thể Charlotte thõng ra trong tay họ khi cô lịm đi.

Cô có vẻ suy kiệt rất nhanh. Suy hô hấp bắt đầu gần như lập tức. Mẹ tôi được đào tạo bài bản chẳng kém những tình nguyện viên trong đội cứu hộ thị trấn, và bà đã cố gắng làm Charlotte tỉnh lại. Bà quỳ gối bên cạnh cô và thổi một hơi sâu qua miệng vào phổi cô, nỗ lực làm cô thở lại; bà dùng tay ấn mạnh xuống ngực Charlotte,hét lên,”Một và hai và ba và bốn và năm và sáu và bảy và tám và chín và mười và mười một và mười hai và mười ba và mười bốn và mười lăm!”

Mười lăm lần ấn và hai lần thổi. Mười lăm lần ấn sau đó là hai lần thổi.

Dường như không có mạch, và mẹ tôi van nài Charlotte trong lúc bà cấp cứu. Bà vừa khóc vừa đếm to, bà van nài người phụ nữ này hãy chiến đấu vì sự sống của mình.

“Cô làm được mà, mẹ kiếp, tôi biết cô có thể, có thể, có thể, có thể! Làm ơn đi mà!” Anne nói mẹ tôi đã đòi hỏi ở một người phụ nữ rõ ràng đã chết.

Liệu mẹ tôi đã thực hiện ít nhất tám hoặc chín lần hô hấp nhân tạo như bà nói, hay bốn hoặc năm lần như Mục sư Asa nhớ lại? Đó là kiểu chi tiết thường gây tranh cãi. Nhưng vào lúc nào đó trong vòng vài phút của điều mẹ tôi tin là một cơn đột quị, sau khi bà kết luận rằng nỗ lực làm tỉnh lại của bà đã không thể tạo lại mạch hoặc hơi thở, bà gào lên gọi Mục sư Asa và Anne tìm con dao bén nhất trong nhà.

Mục sư Asa nói trước tòa rằng ông đã làm theo lời bà mà không nghĩ ngợi gì, ông nói rằng không biết mẹ tôi định làm gì với con dao. Ông nói ông tin rằng lúc đó mẹ tôi sẽ dùng con dao và tìm cách cứu mạng vợ ông. Mẹ tôi là bà mụ còn ông thì không phải, mẹ tôi biết hô hấp nhân tạo còn ông thì không biết. Mẹ tôi chịu trách nhiệm chính. Còn ông thì không.

Có thể ông nghĩ mẹ tôi sẽ tiến hành phẫu thuật mở khí quản. Có thể không. Có thể trong thực tế ông đã biết. Có thể không.

Anne đòi đi cùng Mục sư Asa vì những lý do khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Một lần vì cô không chịu nổi phải ở chung phòng với người chết. Một lần vì cô sợ phải ở chung phòng với mẹ tôi: Cô thấy mẹ tôi đột nhiên trở nên điên loạn.

Vì lý do nào đi nữa, Mục sư Asa và Anne cũng đã cùng nhau chạy xuống lầu đến nhà bếp, và Mục sư Asa lôi ra từ hộp cắm dao bằng gỗ đen trên quầy bếp mà Foogie không với tới được một con dao dài hai mươi lăm centimet, trong đó phần lưỡi dao bằng thép dài mười lăm centimet, cạnh dao để cắt bo tròn như một mũi tên. Cán dao bằng gỗ, dính màu xanh đậm của quả bí đấu, tiệp màu với hộp cắm dao.

Khi họ quay lại, mẹ tôi nói qua làn nước mắt, “Tôi không tìm ra mạch, Asa. Tôi không thể cứu cô ấy.”

“Chị hô hấp nhân tạo thêm được không?” Mục sư Asa hỏi, thả con dao xuống chân giường.

“Ôi trời ơi, Asa, tôi có thể làm hô hấp cả ngày, nhưng cô ấy vẫn ra đi. Cô ấy sẽ không quay lại.” Mẹ tôi đang ngồi cạnh Charlotte, lúc ấy vẫn nằm ngửa trên giường.

Như đã làm vào đầu buổi tối hôm đó - thật ra là đêm hôm trước rồi - Mục sư Asa quỳ xuống bên thành giường. Ông ngả đầu lên ngực vợ, và nhìn trân trối lên mặt cô, ông vén tóc mai của cô, vẫn còn ướt đẫm mồ hôi do cơn chuyển dạ khó nhọc. Ông lẩm bẩm gọi tên cô, và mẹ tôi đã siết vai ông một lần.

Rồi mẹ tôi di chuyển với một sự đột ngột khiến cả Mục sư Asa và Anne hoảng sợ.

“Đi nào,” bà nói, vẫn còn sụt sịt, “chúng ta không còn thời gian.” Với đôi tay mới siết vai ông chỉ vài giây trước, bà nhặt con dao lên khỏi tấm trải giường.

Điều bà đã không làm - và khi luật sư của bang nhắc lại điều này trong phòng xử án với Anne, lời khai của cô khiến ngay cả tôi cũng thoáng nghi ngờ mẹ mình - là hỏi Mục sư Asa xem ông muốn làm gì. Bà đã không hỏi người bố xem ông có muốn cố gắng cứu đứa bé hay không. Nếu ông ấy nói không, thì hẳn bà sẽ vẫn làm, nếu đó là điều bà muốn; nhưng nếu ông ấy nói có, thì bà ít nhất cũng tìm được sự đồng tình.

Và bà đã không đặt ống nghe trở lại lên bụng Charlotte để xem tim thai còn hay không. Đương nhiên, đứa trẻ sẽ chứng tỏ nó còn sống, nhưng không kiểm tra một lần cuối trước khi làm việc bà đã làm - điều đó gây ngạc nhiên và bất ngờ cho ngay cả những bà mụ lành nghề nhất.

Từ giây phút Mục sư Asa và Anne trở lại phòng cho đến khoảnh khắc mẹ tôi bắt đầu cắt, bà không bao giờ kiểm tra một lần cuối để xem Charlotte còn mạch hoặc nhịp tim hay không. Có thể bà đã làm - như bà tuyên thệ - kiểm tra ngay trước khi họ đem dao đến. Nhưng cả người bố lẫn người học việc đều không nhìn thấy mẹ tôi đảm bảo Charlotte đã chết trước khi bà ấn con dao vào người cô.

“Ý chị là sao?” Mục sư Asa hỏi mẹ tôi, sau khi bà bảo với ông rằng họ không còn thời gian. Ông thấy bà lau nước mắt, và sau đó ông nói rằng có cái gì đó trong hành động này khiến ông nghĩ rằng mẹ tôi đã bị suy sụp tinh thần. Đó là một cử chỉ hoảng loạn, như thể bà nghĩ rằng mình có thể xé toạc căn phòng.

“Đứa bé chỉ còn vài phút, và chúng ta đã dành phần lớn thời gian đó cho Charlotte!”

“Chị định làm gì?”

“Cứu đứa con!” Giọng nói của mẹ tôi nghe rất chói tai, cả Mục sư Asa và Anne đều nghĩ thế, và Mục sư Asa nói trước tòa ông tự hỏi liệu mẹ tôi có phát cuồng không. Mẹ tôi nhấn mạnh rằng nếu giọng bà nghe chói tai, thì đó không phải là vì bà đã phát cuồng: Đó là vì bà muốn làm Mục sư Asa chú ý.

“Cứu đứa con?”

“Cứu đứa con của ông!”

Mẹ tôi đã kéo chiếc áo ngủ cũ mà Charlotte mặc lúc chuyển dạ lên gần cổ của cô khi bà nỗ lực làm tim cô đập lại, vì thế không còn áo quần gì để cởi ra trước khi tiến hành ca mổ lấy thai. Mục sư Asa đứng dậy và đi về phía sau mẹ tôi khi bà mở chiếc đèn bàn để bên giường lần đầu tiên trong đêm đó.

“Cô ấy chết chưa?”

“Chúa ơi, Asa, đúng thế! Dĩ nhiên rồi!”

Thật không? Chúng tôi không bao giờ biết được. Chuyên gia pháp y là một trong nhiều nhân chứng của bang nói rằng về mặt y học, rất có thể tim của Charlotte Fugett Bedford đã ngừng đập một lúc, nhưng nỗ lực hô hấp nhân tạo của mẹ tôi đã làm nó đập lại - và, trong một khoảng thời gian, đã làm cô ấy sống lại. Nhưng Mục sư Asa và Anne không nghi ngờ việc mẹ tôi tin Charlotte đã chết.

Khi mẹ tôi nói với Mục sư Asa rằng - đúng thế, dĩ nhiên rồi! - vợ ông ấy đã chết, ông gật đầu, và mẹ tôi xem cử chỉ đó như một sự đồng ý. Dĩ nhiên Mục sư Asa không làm gì để ngăn cản bà. Ông lê bước chậm rãi về phía cửa sổ không nói một lời và nhìn lên trời, bầu trời dường như đã mặc định sẽ tối mãi mãi.

Mẹ tôi sau này nói rằng trong những giờ phút sáng sớm ngày 14 tháng ba, bà đã tiến hành mổ cấp cứu vì bà không thể chịu nổi nhìn hai con người qua đời. Bà không chịu nổi điều đó. Và Charlotte chắc chắn là đã chết.

Liệu mẹ tôi có sai không? Anne nghĩ như thế, cũng như chuyên gia pháp y chắc chắn tin rằng có chỗ để nghi ngờ. Mục sư Asa đang đứng bên cửa sổ khi mẹ tôi thực hiện nhát cắt đầu tiên, nhưng sau đó ông nói rằng - như Anne - ông nhìn thấy máu bắn ra.

Máu được điều khiển, như luật sư của bang nhấn mạnh, bởi một con tim đang bơm.

Nhưng Anne khi ấy không nói gì, quá trẻ để biết chắc về điều cô đã nhìn thấy. Lúc đó là còn nhiều giờ trước khi cô nhấc điện thoại lên, bối rối, không thể ngủ được, và gọi bác sĩ dự bị của mẹ tôi. Sau này cô nói rằng cô không thể tin được máu lại có thể phọt ra như thế từ một người đã chết, nhưng luật sư của mẹ tôi nói rằng có thể còn lý do khác để cô gọi bác sĩ Hewitt: Stephen Hastings luôn xem Anne như một con chuột sợ sệt nhảy khỏi tàu Titanic.

Cô thực hiện cuộc gọi quan trọng đó vào cuối buổi sáng, trong lúc cách đấy hàng dặm, ở Burlington, chuyên gia pháp y đang thực hiện ca khám nghiệm tử thi, cố gắng - và thất bại - không tìm thấy dấu hiệu của chứng phình động mạch não.

...

Mẹ tôi dùng móng tay vạch một đường tưởng tượng từ rốn Charlotte đến xương mu. Đôi tay bà run run.

Bà nhớ đã đọc ở đâu đó rằng một bác sĩ giải phẫu có thể lôi đứa bé ra khỏi người mẹ đang ở tình trạng nguy cấp trong vòng hai mươi hoặc ba mươi giây, nhưng điều đó dường như là chuyện không thể đối với bà. Bao nhiêu là lớp như thế. Cắt vào trong một con người. Không muốn cắt phải bào thai. Có vẻ như không thể thực hiện được.

Dù mẹ tôi tin rằng bà sẽ không gây hại gì cho Charlotte, bà vẫn di chuyển chậm rãi, như thể bà sợ cắt phải một cơ quan nội tạng. Bà giả vờ như đường mà bà vạch ra dưới rốn của Charlotte là có thật và rồi ấn mũi dao mạnh xuống da người phụ nữ đã chết.

Máu phọt ra từng đợt từ người Charlotte vào thời khắc mẹ tôi thực hiện vết rạch. Anne nói đây không phải là sự phun trào mà ta biết từ một trái tim đang đập khỏe mạnh, mà là sự phun trào nhỏ nhoi từ một trái tim yếu ớt. Tuy nhiên, Anne cảm thấy dòng máu đó đã di chuyển qua người Charlotte, và bơm ra từ nơi mẹ tôi đã rạch một nhát trên người cô.

Khi nhìn thấy máu bắn từng đợt vào không trung - vấy lên các ngón tay mẹ tôi - ý tưởng đầu tiên hình thành trong đầu Anne Austin là mẹ tôi đang thực hiện mổ lấy thai trên một người sống.

Nhưng Anne không thấy cơ thể Charlotte nhúc nhích, cô không thấy sự co giật nào cả. Và nhịp phun của máu nhanh chóng dừng lại, máu chỉ thuần túy chảy ra. Một dòng mảnh xuất hiện, rồi rộng ra. Mẹ tôi ấn lưỡi dao sâu hơn vào người cô, xuyên qua da đến mỡ đến cân, rồi ấn qua lớp cơ là phần duy nhất trong cơ thể Charlotte phản kháng lại sự thọc vào của lưỡi dao thép. Sau đó bà kéo con dao xuống âm đạo Charlotte.

Máu chảy dọc xuống bụng cô, thấm lên hai bên hông và cặp đùi xanh xao của cô, rồi nhỏ xuống tấm trải giường, tạo thành những vết loang mới. Mẹ tôi đè một chiếc gối lên vết thương một lúc để thấm máu, để bà có thể nhìn vào bên trong vết rạch. Sau này bà nói rằng, khi giữ chiếc gối ở đó, bà đã xác định rằng thực ra bà không phải thực hiện một vết rạch của bác sĩ giải phẫu, mà chỉ là tạo ra một cái lỗ toang hoác, không thể khép lại trên bụng của Charlotte Bedford. Nó đột nhiên trở nên khổng lồ đối với bà, to vật vã, và bà nghe tiếng hàm răng mình bắt đầu đánh lập cập trong đầu trước khi thực sự cảm thấy và hiểu tiếng động đó là gì. Không hiểu sao bà đổ mồ hôi.

Khi bà kéo chiếc gối ra, bà nhìn thấy hình bán cầu của một quả bóng màu hồng da cam, một nửa lớp vỏ mịn màng, bóng loáng của tử cung. Hình cầu. Sạch sẽ. Giống như chín mọng. Nó nằm đó, bốc hơi giữa lớp mỡ tỏa sáng trong bóng tối, và những dải cơ ẩm giống như thịt. Mẹ tôi không phải hạng người yếu bóng vía, nhưng bà nói hình ảnh đó khiến bà choáng váng - không hẳn vì nó lại ấm và trơn như thế, mà vì đây chính là sự sống ở cấp độ cơ bản nhất. Nguyên thủy nhất. Đây chính là sự sống trong dạ con.

Bà lần ngón tay trên đáy dạ con cho đến khi biết được đứa bé nằm ở đâu, rồi sau đó vơ lấy con dao trên nệm. Dùng mũi dao như một cái đinh ghim, bà chích vào tử cung như một quả bóng tại một điểm cách xa bào thai. Vẫn còn một ít chất dịch màng ối. Và nỗi lo sợ của bà rằng nó sẽ xịt ra không khí và phủ đầy cánh tay, mặt mũi và bàn tay của bà là vô căn cứ. Bà đã rạch lớp màng trước đó rồi, bà nhớ lại; sẽ không còn gì để văng tung tóe nữa.

Sau đó bà đặt một ngón tay vào trong dạ con và nhẹ nhàng xé nó ra bằng cả hai tay, sợ không dám cắt nó bằng dao: Đứa bé ở quá gần.

Bà kể lại trong phòng xử án rằng xé cái dạ con cũng dễ như xé bột nhồi ẩm để làm bánh, nhưng dù vậy, bà vẫn cảm thấy khó thở khi làm điều đó.

Khi vết mở đã đủ rộng để thò tay vào, bà đưa tay vào sâu bên trong và cảm thấy khuôn mặt đứa bé. Bàn tay bà lướt trên cái mũi nó, và bà đưa tay sờ lên đầu, cổ, cột sống đứa bé, cho đến khi bà phát hiện ra một cái đùi mũm mĩm ngắn tũn của nó. Bà trườn tay lên hai cẳng chân cho đến khi chạm được một bàn chân, và sau đó chạm bàn chân kia bằng tay còn lại.

Sau đó bà nhấc đứa bé ra khỏi mẹ nó, và trong không khí của căn phòng, thai nhi lập tức biến thành một đứa trẻ sơ sinh trong mắt mẹ tôi. Một đứa con trai. Khi bà hút nước nhầy trong cổ họng đứa bé bằng ống bơm tai và nó từ từ sống lại - ngáp, rồi thở, và cuối cùng khóc rống lên - nó trở thành một lời nhắc nhở sống với bố nó về cuộc sống, cái chết và nỗi thống khổ khôn nguôi của Charlotte Fugett Bedford.