← Quay lại trang sách

Phần hai - 6 -

Eleanor Snow chào đời sáng nay, và đó là đứa trẻ bé bỏng đáng yêu tuyệt vời nhất. Nặng ba kí bảy, dài năm mươi mốt centimet. Chiếc mũi giống như cú nhảy trượt tuyết bé nhỏ êm ái. Những cuộn mỡ tí hon trên hai cánh tay tạo thành những chiếc vòng tay nhỏ ở cổ tay. Và mái tóc cô bé, ít nhất là hồi sáng nay, có màu vàng nghệ.

Hôm nay mắt cô bé màu xám, nhưng tôi nghĩ mai này chúng sẽ thành màu xanh.

Cơn chuyển dạ của Dottie Snow rất nhanh: Anne và tôi đến đó lúc sáu giờ mười lăm phút sáng, Dottie đã mở mười centimet và sẵn sàng khai hoa nở nhụy. Tôi nghĩ cô ấy chỉ rặn không đến nửa giờ, và niềm hân hoan trong phòng khi cô ấy vượt cạn thật là không thể tin nổi. Không thể tin nổi! Cô ấy có mẹ, hai chị gái, và đương nhiên cả Chuck ở bên cạnh. Chuck cũng đã có mặt trong những lần sinh hai đứa con trước, và anh ấy quả thật là một người hướng dẫn dịu dàng. Anh và Dottie hôn nhau và ôm nhau giữa mỗi cơn dâng trào, anh liên tục xoa ngực và vai cho cô. Tôi thực sự xúc động trước kiểu tình yêu như thế.

Nhưng điều khiến tinh hoa trong căn phòng mạnh mẽ đến thế chính là sự kết hợp giữa tình yêu vợ chồng, tình chị em, và tình mẹ con. Các chị em gái của Dottie ôm ấp cô, họ ôm nhau, và họ ôm Chuck. Thật là tuyệt diệu. Tôi ước gì mình có thể đóng chai những rung cảm trong căn phòng đó và để dành một ít cho những ca đẻ cô đơn hơn.

Những ca đẻ cô đơn là điều đáng buồn nhất trên thế gian này.

Chúng có thể khiến tôi ủ rũ trong nhiều ngày liền.

Ca đẻ của Charlotte Bedford có thể là một ca đẻ cô đơn. Ít nhất thì cũng có tiềm năng như thế. Charlotte không có gia đình ở gần đây, trừ Asa. Và Asa là một người đàn ông ngọt ngào, nhưng ông ấy quá bận bịu với giáo đoàn của mình đến nỗi dường như chẳng còn sức lực nào dành cho Charlotte.

Và tôi nghĩ mình chưa từng gặp một cô bạn nào của cô ấy. Nữ cũng như nam! Cô ấy đã gặp gỡ vài người bên ngoài giáo đoàn của chồng, cô kể lúc chúng tôi nói chuyện, và họ giữ một khoảng cách tôn trọng nhất định vì cô là vợ của nhà truyền đạo mới. Tôi có thể là bạn thân nhất của cô ở đây, vì thế những ca khám thai của cô thường kéo dài bất tận.

Không nghi ngờ gì nữa, ca đẻ của cô là một ca đẻ cô đơn. Và một kì hậu sản cô đơn. Tôi hi vọng giáo xứ của Asa sẽ giúp đỡ họ. Tôi phải tin họ sẽ làm thế, họ là người tốt mà. Nhưng giá tôi biết nhiều người hơn nữa ở mạn trên Lawson hoặc Fallsburg.

Có lẽ tôi sẽ gặp thêm vài người trước khi đứa bé chào đời. Có lẽ tôi sẽ thử cố gắng.

trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

ĐẾN BỮA SÁNG MẸ TÔI VẪN CHƯA VỀ từ ca đẻ của Bedforth, và trong lúc ăn bánh quế nướng, bố con tôi đã thảo luận xem Charlotte tội nghiệp trông như thế nào vào giữa ca đẻ kéo dài từ mười tám đến hai mươi tư giờ như thế.

Ngày hôm đó trường học không đóng cửa, nhưng những tiết học đầu tiên được dời lại hai giờ để đội công trình giao thông có thời gian biến những sân băng ngoằn ngoèo trên khắp Đông Bắc Vermont thành đường đi trở lại. Và vì thế bố đi làm trước khi tôi đi học.

Charlotte Fugett Bedford và con trai Veil ra đi mỗi người một ngả ngay sau khi Veil chào đời. Thi thể của Charlotte được chuyển trong xe của giám đốc công ty mai táng đến Burlington sau khi luật sư bang và chuyên gia pháp y đã khám nghiệm căn phòng, và cảnh sát bang đã chụp những bức ảnh hậu sản không được bình thường đó. Chuyên gia pháp y nói với mẹ tôi rằng ông ta sẽ tiến hành mổ khám nghiệm tử thi khi ông ta và thi thể Charlotte về đến Burlington, nhưng ông nói đó chỉ là một thủ tục bình thường và không có gì khiến bà phải lo lắng.

Mẹ tôi, Mục sư Asa và Anne thực sự đã rời khỏi nhà Bedford trước cả những người mặc y phục và đồng phục. Họ vẫn đang lượn lờ quanh tấm nệm đầy máu và cho các vật dụng - găng cao su ướt, vụn trà thảo dược khô, một ống tiêm sạch, một chiếc khăn dính máu - vào những chiếc túi nhựa trong khi Veil được đưa đến bệnh viện North Country ở Newport, nơi bác sĩ nhi khoa có thể khám cho nó thật cẩn thận. Mẹ tôi đã gọi điện đến văn phòng bố từ bệnh viện để kể với ông chuyện gì xảy ra. Bà định sẽ đích thân kể với tôi khi tôi đi học về.

Như tất cả những điều đã xảy ra quanh sự chào đời của Veil Bedford, sự việc không diễn ra như mẹ tôi tưởng. Tin tức về cái chết bất ngờ, nhất là khi nó rùng rợn, truyền đi rất nhanh ở góc này của Vermont. Những vụ va chạm liên quan đến xe tải nhỏ và xe ô tô dẫn đến tử vong, tai nạn cưa gỗ với cưa máy hoặc xe chở gỗ, chết đuối ở vùng nước sâu của hẻm núi gần đó, đều là đề tài bàn tán. Khi có người chết, người ta tán chuyện - đặc biệt là những đứa trẻ mới lớn.

Do đó, tôi biết tin về cái chết của Charlotte Bedford trong tiết học thể dục, ngay trước giờ ăn trưa. Sáng hôm đó chúng tôi chơi bóng chuyền.

Khi tôi mới nghe tin này, câu chuyện chưa dính đến mẹ tôi. Có lẽ nếu cắt đứt được những kiểu kết nối tin đồn với hiện thực và tách bạch những phần riêng rẽ với nhau, thì lời kể của họ sẽ cho thấy tôi chính là người đầu tiên gắn Sibyl Danforth vào câu chuyện - ít nhất là ở trường, ít nhất là giữa những đứa trẻ mới lớn ở hạt của chúng tôi.

Tôi đang thay quần sooc thể dục thành quần jeans xanh thì Sadie Demerest nói với tôi, “Vị mục sư kì lạ ở Lawson vừa mới mất vợ - người đến từ miền Nam ấy.” Giọng của nó rất vô tư và thản nhiên, như thể nó đang kể với tôi về một sai lầm thời trang của một học sinh nào đó - một đứa con gái mặc chiếc áo khoác hơi bị trịnh trọng đến trường, hay một lọn tóc màu đen bất thường của nó trông hơi bị phá cách.

“Cô ấy chết rồi à?” tôi hỏi.

“Ừ. Trong lúc đẻ con.”

Và tôi lẩm bẩm thành tiếng một suy nghĩ mà tôi không tin rằng đã kịp lướt qua đầu Sadie, mặc dù chắc chắn nó sẽ sớm đến. “Chẳng biết mẹ tớ có ở đấy không,” tôi nói.

Sadie khựng lại trên băng ghế trước tủ cá nhân của nó, chiếc quần jeans vẫn còn nằm trên đùi.

“Mẹ cậu đỡ đẻ cho cô ấy à?” nó hỏi sau một lúc lâu, và tôi gật đầu. Tiếng động trong phòng thay quần áo - tiếng nước chảy từ vòi hoa sen cách đấy vài mét, tiếng cười khúc khích và ha hả từ những đứa con gái khác, tiếng bật nhỏ của những ổ khóa kim loại khi được mở ra và đóng lại - dường như biến mất trong lúc Sadie nhìn tôi trân trối. Vào lúc đó tôi không hiểu hết mức độ thay đổi sẽ xảy đến cho cuộc đời tôi, nhưng những ý niệm tăm tối mơ hồ đầu tiên đã bắt đầu định hình.

Tôi có thể thấy thông tin về việc mẹ tôi có thể ở đó khiến Sadie hoảng sợ và làm thay đổi thái độ của nó đối với câu chuyện một cách khủng khiếp. Đột nhiên, đây không còn là một bi kịch với những diễn viên giấu mặt, một câu chuyện kinh dị đủ xa lạ để cho phép sự mường tượng thông thường về tính chất man rợ cốt lõi của nó. Cơn ác mộng nhỏ nhoi này có liên quan đến mẹ của Connie Danforth. Mẹ của Connie Danforth đã có mặt với người chết, bà ta đã giúp cô ấy đẻ con.

Mà người ta lẽ ra không chết trong lúc đẻ con, ngay cả ở cái góc Vương quốc quê mùa này của chúng tôi. Và thế là Sadie hỏi tôi câu hỏi mà mọi người trong hạt sẽ hỏi nhau trong nhiều tháng sau đó, câu hỏi mà không ai có thể trả lời đầy đủ tại tòa và không ai có thể trả lời một cách chắc chắn từ hôm đó trở đi. Trong trường hợp của Sadie, đó là một câu hỏi tu từ, một thắc mắc nó phải biết rằng tôi không thể trả lời. Nhưng đó là một câu hỏi mà nó - như mọi người khác - không thể không hỏi.

Xoắn hai ống quần jeans trong tay, làn da trở nên tái nhợt trước mắt tôi, Sadie hỏi, “Connie, chuyện gì đã xảy ra?”

Khi tôi đi học về, bố đang ở trong nhà bếp. Mẹ đang ngủ.

“Đi học thế nào?” bố hỏi. Ông đang mặc quần tây, áo sơ mi mà ông đã mặc đi làm, nhưng cà vạt đã tháo ra - có lẽ đã tháo ra từ lâu trước ba giờ rưỡi chiều. Tôi tưởng tượng ông đã về nhà nhiều giờ rồi.

“Tốt ạ.”

“Được, được,” ông nói, giọng đều đều xa cách và trầm lặng. Tôi nhìn thấy ai đó đã pha một ấm cà phê đặt trên quầy bếp sau khi tôi đi học, nhưng có vẻ như không ai chạm đến nó.

“Con cần phải dịu dàng với mẹ một chút,” ông nói thêm.

“Vì những gì đã xảy ra ạ?”

Ông ngồi xuống chiếc ghế nhà bếp bằng gỗ và khoanh tay trước ngực. “Con đã nghe được những gì?”

“Con nghe nói cô Bedford đã chết.”

Ông lắc đầu buồn bã. “Sao con không để cặp sách xuống và nói cho bố nghe con biết được gì. Rồi bố sẽ nói bố biết gì.”

“Những chi tiết ạ?”

“Nếu con chưa biết chúng.”

Suốt buổi chiều, có hai ý nghĩ khiến tôi không nghe được một từ nào mà giáo viên Anh văn hoặc lịch sử đã nói. Ý nghĩ thứ nhất là Foogie giờ đây đã mồ côi mẹ, và tôi không thể tưởng tượng nổi thằng bé sẽ chịu đựng thế nào. Vào thời điểm đó trong đời, tôi chưa từng gặp một đứa bé mồ côi mẹ. Ý nghĩ thứ hai là nỗi sợ rằng gia đình tôi sẽ đột nhiên trở nên nghèo túng.

Ở tuổi mười ba, tôi không hiểu cặn kẽ về bảo hiểm sai sót trong nghề y, nhưng tôi biết rằng các bà mụ ở Vermont không mua loại bảo hiểm này. Chẳng có công ty nào trong bang bán bảo hiểm này cho họ. Và tôi biết đây thỉnh thoảng là vấn đề giữa bố mẹ tôi, thường là sau khi mẹ về nhà từ một ca đẻ mà bà mô tả là phức tạp.

Tôi nghĩ vào buổi chiều sau khi Charlotte Bedford qua đời, điều này cũng là mối bận tâm lớn của bố: một vụ kiện dân sự. Tôi không tin ý nghĩ cảnh sát bang đến nhà chúng tôi trong vài giờ nữa từng lướt qua đầu ông.

“Vậy con đã nghe những gì?” ông hỏi lại khi tôi ngồi lên chiếc ghế cạnh ông. “Người ta đang nói gì?”

“Chẳng có ai biết nhiều đâu. Chủ yếu chỉ là vợ của vị mục sư đến từ miền Nam đã qua đời.”

“Trong lúc sinh con? Họ có biết cô ấy chết lúc sinh con không?”

“Có ạ.”

“Họ có biết mẹ con có mặt không?”

“Vâng, họ biết.” Tôi không nhắc đến việc mình phải chịu trách nhiệm vì đã tiết lộ thêm chi tiết đó vào trong câu chuyện khi nó lan truyền trong trường.

“Còn gì nữa?”

“Không ai biết liệu đứa trẻ có chết hay không. Nó có chết không ạ?”

“Không, đứa bé còn sống và khỏe mạnh. Họ đã có một bé trai.”

“Thế cũng tốt, ít ra là vậy.”

“Ừ, đúng thế.”

“Họ đặt tên nó là gì ạ?”

“Mục sư Bedford đặt tên cậu bé là Veil,” bố tôi nói, nhấn mạnh đại từ nhân xưng để đối tượng mà tôi gọi là “nó” có một giới tính trong tâm trí tôi. “Người ta còn nói gì nữa?”

“Như con nói, không ai thực sự biết nhiều. Tất cả những gì con nghe thấy là cô Bedford chết lúc sinh con, và đó là một cái chết đầy máu me. Nhưng con biết sinh đẻ thì lúc nào mà chẳng máu me, và hình như không ai có thể cho con biết tại sao.”

“Tại sao...”

“Tại sao nó lại quá máu me.”

Ông vân vê một bên tóc mai rồi đặt các ngón tay lên ngực trở lại. Tôi nhận ra tôi đang ngồi lên tay mình. “Ai nói với con?” ông hỏi.

“Sadie.”

“Có nhiều bạn nói về chuyện đó không?”

“Vâng. Đến hết ngày thì là thế đấy ạ.”

“Trên xe buýt đưa đón học sinh?”

“Con đoán thế.”

“Các bạn có hỏi con nhiều không?”

“Không ạ, chỉ một câu thôi. Chúng cứ hỏi con rằng mẹ có ở đấy không.”

“Và con trả lời chúng là có?”

Tôi gật đầu. “Như thế có được không ạ?”

“Chúa ơi, Connie, dĩ nhiên rồi. Dĩ nhiên là được. Mẹ con tuyệt đối không làm gì sai cả. Không hề. Đôi khi phụ nữ chết trong lúc sinh con, cũng như đôi khi người ta ốm và qua đời. Nó không xảy ra thường xuyên, nhưng nó có xảy ra. Cô Bedford chỉ tình cờ là một trong số ít người qua đời ấy. Đây là chuyện buồn - rất buồn - nhưng những chuyện như thế này vẫn xảy ra.”

“Thật không may.”

“Ừ. Thật không may.”

Ông nhìn ấm cà phê và lần đầu tiên nhận ra nó còn đầy. Tôi chờ ông đứng dậy, rót một tách, nhưng ông không rời khỏi ghế.

“Nó có máu me không ạ?” cuối cùng tôi hỏi.

Tựa cùi chỏ lên bàn và chống tay dưới cằm, ông gật đầu. “Có, nó rất máu me.”

Lúc đó ông có thể đã kể cho tôi nghe rằng mẹ đã thực hiện một ca mổ lấy thai, nhưng chúng tôi nghe tiếng bước chân ở lối đi trên lầu. Chúng tôi đều nhận ra mẹ đã thức, và bà đang trên đường đi xuống cầu thang. Bố muốn để mẹ kể cho tôi nghe một số chi tiết đại khái về chuyện đã xảy ra trong phòng ngủ của nhà Bedford vào sáng sớm hôm đó.

Khi mẹ bước vào nhà bếp, tóc bà vẫn còn bù xù, đôi mắt thì đỏ hoe, trông đầy đau đớn. Bà đang mặc áo ngủ, điều bà hiếm khi làm vào ban ngày ngay cả khi bà ngủ trưa sau một ca đẻ ban đêm kéo dài, và bà đi chân trần. Trông mẹ có vẻ già, và đó không chỉ đơn giản vì bà đi cà nhắc hoặc vì dưới mắt bà có quầng thâm. Không chỉ đơn giản vì trông bà mệt mỏi.

Tinh hoa, như cách nói mà mẹ yêu thích, của lòng nhiệt tình không giới hạn dường như luôn bao bọc lấy bà, đã tiêu tan. Nguồn năng lượng - một phần lạc quan, một phần kiên nhẫn, một phần hân hoan - đôi khi bao phủ căn phòng khi bà bước vào, đã biến mất.

Rõ ràng mẹ cũng không ngủ được bao lâu, và dù có chợp mắt được chút nào, đó cũng không phải là giấc ngủ sâu. Những đêm mà giấc ngủ đến dễ dàng, những buổi chiều khi giấc ngủ trưa đến nhanh, những giờ phút khi giấc mơ của bà êm đềm và yên tĩnh, đã ra đi mãi mãi.