← Quay lại trang sách

- 7 -

Mẹ của Clarissa Roberson, Maureen, là một người phụ nữ rất có tổ chức. Bà chào đời trong bệnh viện, và tất cả những đứa con của bà cũng thế (dĩ nhiên trong đó có cả Clarissa).

Nhưng David Roberson được sinh tại nhà, và anh muốn con của mình được sinh tại nhà. Thế là Clarissa bé nhỏ ở đó, toàn bộ cơ thể 62 kí lô của cô - 62 kí lô vào lúc chín tháng mười ngày! - chuyển dạ trên giường trong phòng ngủ, và mẹ cô ở đó bên cạnh David và tôi, giúp con gái mình vượt cạn.

Ðó là một cơn chuyển dạ dài, mà Maureen thì đã gần sáu mươi tuổi. Nhưng bà ấy thật tuyệt vời. Không hề mệt mỏi.

Mặc dù tôi đã thấy nhiều bà mẹ có mặt lúc con gái vượt cạn, quan sát khi những cô con gái bé bỏng của họ giúp họ lên chức bà, nhưng tôi chưa từng thấy ai muốn tham gia nhiệt tình như Maureen. Hoặc tham gia một cách đầy âu yếm, hiểu biết và ủng hộ như thế. Vài bà mẹ trở nên khó ở và hồi hộp khi con của họ lâm bồn, và tôi nghĩ điều đó là hoàn toàn có thể hiểu được. Những cơn dâng trào có thể quá hớp và rùng rợn, còn máu có thể rất đáng sợ. Tôi nghĩ đó là lý do vì sao nhiều bà mẹ giúp con gái sinh con chỉ giới hạn mình làm những việc như pha trà, hoặc cổ vũ con từ đầu giường.

Nhưng Maureen thì không. Bà ở ngay đó với tôi. Có lúc giữa những cơn dâng trào, tôi đặt chai Johnson’s xuống để hỏi David một câu gì đấy, và khi tôi quay lại, Maureen đã ở đó, xoa dầu trẻ em đến tận cùi chỏ và mát xa đáy chậu cho con gái.

Cảnh tượng ấy thật đẹp. Ðẹp một cách ngất ngây, ngất ngây.

trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

MẸ TÔI NÓI RẤT ÍT TRONG KHOẢNG THỜI GIAN từ lúc tôi đi học về đến lúc cảnh sát bang đến.

Bà mặc áo ngủ ngồi trên ghế sofa trong phòng khách, quấn một tấm chăn quanh vai. Căn phòng nhỏ tỏa hương quế từ tách trà thảo dược bà đang nhâm nhi. Mỗi khi điện thoại reo - nó hẳn đã reo ba, bốn lần trong buổi chiều hôm đó - bố tôi lại nhấc máy và tiếp chuyện người gọi.

Vào khoảng năm giờ ba mươi, mặt trời rực sáng lần cuối, không lâu trước khi biến mất vào màn đêm ở đường chân trời phía tây. Nhưng trong vòng vài phút, ánh mặt trời đã tỏa sáng khắp phòng, và ngọn lửa bố tôi nhóm lên trong lò sưởi trước đó dường như không còn cần thiết nữa.

Mẹ hỏi tôi hai lần về việc hôm ấy đi học thế nào, nhưng tôi biết không lần nào bà nghe câu trả lời của tôi.

Một lần bà hỏi xin bố thêm thuốc aspirin để giảm đau ở mắt cá chân, rồi khi ông đem những viên thuốc và một ly nước lạnh đến, ông phải nhắc bà nhớ rằng chính bà đã yêu cầu chúng.

“Ngày mai em đi chụp phim X-quang mắt cá chân nhé,” bố tôi đề nghị.

“Vâng. Hãy làm thế,” mẹ đáp. Bà hiếm khi nhìn bố hoặc tôi. Bà dán mắt vào ngọn lửa qua lớp cửa kính ở lò sưởi, bà dán mắt vào trà trong cốc của mình. Đôi khi bà đặt cốc trà xuống bàn cạnh ghế sofa và nhìn những vết cắt trên tay.

“Đó có phải là Anne không?” mẹ hỏi bố khi ông quay lại sau một lần trả lời điện thoại ở nhà bếp.

“Không. Là Sara. Chị ấy hi vọng em có thể nướng một ổ bánh cho buổi tiệc của sở cứu hỏa vào cuối tuần tới.”

“Là người gây quỹ à.”

“Chị ấy chưa nghe tin ư?”

“Chắc là chưa.”

Nhưng đa số thời gian, ba người chúng tôi ngồi trong im lặng. Vì lý do nào đó, tôi sợ phải rời khỏi nhà, và tôi sợ phải ở một mình trong phòng trên lầu. Vì thế tôi ngồi cùng bố mẹ trong phòng khách. Tôi tin tất cả chúng tôi đều hiểu ở chừng mực nào đó rằng chúng tôi đang đợi một điều gì đó xảy đến; tất cả chúng tôi đều có trực giác rằng một điều gì đó nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng tôi sắp xảy ra.

Bố và tôi nhìn thấy chiếc xe cảnh sát bang chậm rãi tiến đến đường lái xe vào nhà chúng tôi vào tối thứ sáu tầm hoàng hôn, và tôi tin rằng chúng tôi trông thấy nó cùng lúc. Bộ đèn trên nóc xe đã tắt, nhưng tôi nghĩ không ai nhìn thấy một chiếc xe cảnh sát màu xanh đỗ trước nhà mình mà không cảnh giác. Nhất là con gái của dân cựu hippie Rand và Sibyl Danforth.

Tôi đang phết thịt xay lên bánh hamburger, còn bố thì đứng cạnh tôi, với tay vào tủ bếp để lấy chiếc chảo rán. Mẹ vẫn ngồi trong phòng khách, bất động và im lặng, nhưng tỉnh táo.

“Để bố giải quyết,” bố nói khẽ với tôi, có lẽ ông hi vọng rằng có thể xua cảnh sát đi, như thể họ chỉ là những người bán máy hút bụi.

Tôi cho rằng mình phải ở lại bên quầy bếp cạnh bồn rửa chén, hi vọng nghe ngóng được ít nhất những chi tiết quan trọng, nhưng mẹ đã nghe thấy tiếng gõ cửa và trở nên cảnh giác hơn nữa: Bà đặt cốc trà xuống và ngồi thẳng dậy, rướn đầu về phía cửa. Khi bà nhận ra ai đã đến nhà chúng tôi, bà rời khỏi mớ đệm gối mà bà vừa chui vào trong, và bằng cách nào đó tìm thấy sức mạnh để thong thả bước vào lối đi trước. Thế là tôi cũng đánh liều đi ra đó.

“Tôi thực sự tin rằng việc này có thể đợi đến ngày mai,” bố đang nói.

“Tôi xin lỗi, không được,” một viên cảnh sát đáp, dù giọng nói cho thấy ông ta chắc chắn hiểu được mong muốn của bố tôi là cho mẹ tôi một đêm bình yên. “Nhưng tôi hứa,” ông nói tiếp, “việc này sẽ không kéo dài lâu.”

Hai người cảnh sát rất cao, cả hai đều ở tuổi trung niên. Một người có bộ ria mép màu trắng tỉa sát đến độ trông hơi có vẻ đáng sợ. Người kia có những nếp nhăn rõ, hằn sâu trên mặt khiến tôi luôn liên tưởng đến những bác nông dân - kiểu nếp nhăn hình thành do lái máy cày trong gió mùa thu ngày này qua ngày khác suốt một thời gian. Áo khoác của họ cài nút chỉn chu để chống lại cái lạnh tháng ba, cổ áo dựng lên quanh cổ. Khi người thực hiện phần lớn cuộc nói chuyện tối hôm đó - người có bộ ria mép - nhận thấy mẹ tôi và tôi đang tiến đến lối đi sau lưng bố tôi, ông ta bỏ chiếc mũ cảnh sát rộng vành ra, và viên cảnh sát kia lập tức làm giống như vậy. Họ gật đầu chào mẹ tôi như đã quen biết bà, và tôi có ấn tượng họ có lẽ đã gặp bà ở nhà Bedford sáng hôm đó.

Lúc đó mới hơn sáu giờ ba mươi, đèn hiên nhà chúng tôi đã bật sáng: Thỉnh thoảng nó làm cho phù hiệu trên áo khoác của họ lấp lánh.

“Trong trường hợp đó, các ông có cần vào nhà không?”

“Chúng tôi cần đấy. Nhưng chỉ vài phút thôi.”

Bố ra dấu cho họ vào nhà, và họ cẩn thận chùi đôi giày đen bóng lên tấm thảm gần bậc tam cấp. Tôi cố nhắc bản thân rằng hai người đàn ông uy nghiêm này không phải là người xấu, tập trung suy nghĩ vào cách nói chuyện tử tế của người có ria mép dành cho bố tôi. Họ đều đeo nhẫn cưới, có nghĩa là họ đã có vợ, và nếu họ có vợ, có lẽ họ đã có con. Và nếu họ có con, thì chính họ cũng là những ông bố. Cũng giống bố tôi. Cởi mũ và bao súng, bỏ súng và áo khoác màu xanh ra, họ cũng chỉ là những người đàn ông trung niên bình thường mà thôi. Chẳng có lý do gì tôi phải sợ họ.

Nhưng dĩ nhiên tôi sợ họ.

“Tôi là Trung úy Leland Rhodes,” người có ria mép bắt đầu, “còn đây là Hạ sĩ Richard Tilley.”

“Rand Danforth,” bố tôi nói, chìa tay ra với Rhodes trước rồi sau đó với Tilley. Khi bố quay lại, ông thấy mẹ và tôi đang đứng ở lối đi sau lưng ông.

“Connie, sao con không đi lên lầu. Việc này không kéo dài lâu đâu,” ông ôn tồn nói.

“Con có thể nấu xong bữa tối,” tôi đề nghị.

“Con có thể, nhưng con không cần nấu,” ông đáp, và tôi cảm thấy bàn tay mẹ đặt lên vai tôi, đẩy nhẹ tôi (nhưng không khó nhận ra) về hướng cầu thang.

Mẹ tôi pha cà phê cho họ. Đó là điều đầu tiên khiến tôi ngạc nhiên: tôi chưa lên đến bậc trên cùng của cầu thang, và tôi nghe bà hỏi hai người cảnh sát họ muốn uống cà phê hay trà thảo dược. Cả hai đều chọn cà phê, và trong lúc bố dẫn họ vào phòng khách, mẹ đi vào nhà bếp để pha một ấm cà phê.

Ngày hôm sau, tôi nhớ lại, Stephan Hastings đã nghĩ rằng đó là một trong những điều lạ lùng nhất mà ông từng nghe. “Cà phê,” bố nói ông luật sư đã lặp đi lặp lại. “Chị pha cà phê cho họ.”

Hai viên cảnh sát rất lịch sự, Trung úy Rhodes bắt đầu bằng cách giải thích rằng họ chỉ muốn thu thập thông tin về bi kịch mà mẹ tôi đã chứng kiến.

“Tôi chỉ muốn biết bà đã nhìn thấy gì,” Rhodes nói, như thể mẹ tôi chỉ là một người chứng kiến, một người tình cờ nhìn thấy hai chiếc xe đâm vào nhau tại một giao lộ. “Chúng tôi muốn bà kể cho chúng tôi điều gì đã xảy ra, khi trí nhớ vẫn còn tốt.”

“Tôi không nghĩ trí nhớ của mình về tối hôm qua sẽ biến mất,” mẹ tôi trả lời, và nhiều năm sau đó, bố đã nói với tôi rằng câu nói đó tạo ra một sự khác biệt lớn cho điều xảy ra tiếp theo. Rõ ràng mắt mẹ tôi bắt đầu ngấn lệ trong lúc bà nói, khiến bố sợ rằng bà sẽ cuối cùng - và đột ngột - suy sụp. Ông chăm chú nhìn bà, quá lo lắng về tình trạng cảm xúc của bà, đến nỗi không thể cắt ngắn cuộc thẩm vấn khi có dịp trong cuộc nói chuyện tiếp theo, hoặc thông báo với hai người cảnh sát và mẹ tôi rằng sẽ không có thêm cuộc nói chuyện nào cho đến khi luật sư có mặt. Ông nói với tôi ý nghĩ về việc chúng tôi sẽ cần một luật sư đã bắt đầu hình thành trong đầu ông, nhưng trong tâm trí ông đó chỉ là để bào chữa cho một vụ kiện dân sự, không phải một tội hình sự. Không phải trọng tội đến mức cảnh sát bang phải đến nhà chúng tôi vào tối thứ sáu.

“Điều đó có thể đúng, thưa bà Danforth, nhưng Bill Tanner và tôi đều đã nhận thấy qua nhiều năm rằng một vài chi tiết sẽ... sinh động hơn khi được kể lại ngay,” Rhodes nói.

“Bill Tanner?” mẹ tôi hỏi. “Tôi biết cái tên đó ở đâu nhỉ?”

“Ông ta là luật sư bang ở hạt Orleans. Bà đã gặp ông ta sáng nay,” viên trung úy trả lời.

Khi hai người cảnh sát đã đi, bố nói với mẹ ông không biết luật sư bang đã có mặt ở nhà Bedford sáng hôm đó. Hoặc mẹ tôi đã quên kể với ông chi tiết đó, hoặc bà không nhận ra William Tanner là ai - hay tại sao người này lại có mặt cùng chuyên gia pháp y tại nhà Bedford.

Và thế là khi Rand Danforth cắt ngang câu hỏi mà bất kì người chồng - người bảo vệ nào cũng có thể hỏi trong tình huống đó, ông đã nói một cách dè chừng, không chắc chắn: “Chúng tôi có nên mời luật sư đại diện không?” ông thắc mắc thành tiếng.

“Đương nhiên, nếu ông muốn. Nhưng những gì chúng tôi đang làm hiện giờ là lấp đầy khoảng trống trong câu chuyện,” Rhodes nói, giọng của ông ta bình thường và thản nhiên.

Liệu sự việc có kết thúc khác đi nếu mẹ tôi giữ im lặng vào lúc đó, hoặc nếu bố tôi bảo lưu quan điểm - có thể là khăng khăng quan điểm, rằng họ nên hoãn cuộc nói chuyện với cảnh sát bang cho đến khi họ có luật sư đại diện? Có thể lắm, nhưng không hẳn. Công bằng mà nói, ngay cả Stephen Hastings cũng khẳng định rằng biên bản lời khai lấy vào buổi tối đầu tiên đó rất ít có khả năng buộc tội. Cảnh sát không biết một ca đẻ tại nhà gồm những gì, vì thế họ không hỏi những kiểu câu hỏi có thể dẫn đến những câu trả lời dài, nhiều thông tin, và sơ hở chẳng hạn: Sau khi Mục sư Asa đem con dao đến, bà có kiểm tra Charlotte lần cuối để đảm bảo cô ấy đã chết không? Bà có kiểm tra nhịp tim thai nhi trước khi cắt không? Bà có xin phép Mục sư Asa để mổ vợ ông ấy không?

Hai viên cảnh sát chủ yếu chỉ để mẹ tôi kể câu chuyện về phía bà, trình bày những gì bà tin là đã xảy ra. Trước khi phiên tòa diễn ra, Stephen quả thực đã làm lớn chuyện mà ông gọi là “cuộc hỏi cung”, nhưng ông cũng nói với chúng tôi trước khi diễn ra phiên xử đơn thỉnh cầu loại bỏ bằng chứng thu thập bất hợp pháp rằng chính quyền bang có thể thắng thế - và ông đã đúng.

Vả lại, bố mẹ tôi thậm chí chẳng có một luật sư nào vào tối hôm đó. Họ chỉ mới dùng đến luật sư hai lần trước đó trong đời: một lần, gần một thập niên rưỡi trước, để lập di chúc cho họ vài ngày sau khi tôi chào đời, và lần thứ hai khi bố tôi mở công ty kiến trúc của riêng ông và muốn thành lập một doanh nghiệp hợp pháp. Họ đã dùng cùng một luật sư trong cả hai dịp đó, một người bạn lớn tuổi của bà ngoại tôi, sống ở St. Johnsbury và qua đời không lâu sau khi giúp bố tôi lập công ty.

Việc hai người cảnh sát không chủ động khuyến khích bố mẹ tôi có luật sư đại diện thực ra lại có lợi với Stephen ở một điểm nhỏ khi vụ án cuối cùng bị đưa ra xét xử: Ông dùng điều đó để củng cố mối liên hệ của mình rằng chính quyền bang có chủ trương tẩy chay sinh đẻ tại nhà, và quan tâm đến việc đẩy các bà mụ ra khỏi nghề hơn là bảo vệ quyền tự do công dân của mẹ tôi. Cảnh sát không cần phải đọc lời cảnh báo[10] vào lúc đó hoặc thông báo cho mẹ tôi những quyền lợi của bà, thẩm phán đã ra phán quyết như thế, vì cách lấy lời khai của họ không có gì là phạm luật cả; nhưng Stephen vẫn có thể chỉ ra rằng việc Rhodes thể hiện mình là “cảnh sát tốt” đêm hôm đó là nhập nhằng về mặt đạo đức.

Dù sao đi nữa, mẹ tôi đã nói với hai người cảnh sát lẫn bố tôi sau khi ông đề xuất ý tưởng luật sư, “Tôi không làm gì sai cả.” Giọng của bà đượm vẻ hoài nghi, không hề bào chữa, như thể bà không tin rằng cần phải có luật sư. “Tôi sẽ kể với các ông chính xác điều đã xảy ra. Các ông cần biết những gì?”

Sau khi mẹ tôi nói được một lúc, Hạ sĩ Richard Tilley bắt đầu ghi chép. Ông ta tốc ký để theo kịp mẹ tôi, và một số câu hỏi mà cộng sự của ông ta đưa ra thường bắt đầu bằng, “Bà có thể lặp lại không, thưa bà Danforth?”

Rốt cục Tilley đã ghi chép trên mười một tờ giấy kẻ hàng màu vàng, và câu chuyện của mẹ tôi kéo dài từ thời khắc đầu buổi chiều thứ năm khi Charlotte Bedford gọi điện cho bà báo tin cô ấy đang chuyển dạ đến khoảng thời gian sáng thứ sáu khi mẹ tôi kiệt sức dựa vào buồng điện thoại công cộng ở bệnh viện North Country để gọi điện cho bố tôi. Hai người cảnh sát ở lại trong phòng khách nhà chúng tôi hơn một giờ, gật gù, ghi chép và uống cà phê của bố mẹ tôi.

Sau bảy giờ ba mươi, Trung úy Rhodes nhìn lướt qua tập giấy của cộng sự. “Và sau đó bà về nhà?” ông hỏi mẹ tôi.

“Không, tôi quay lại nhà Bedford. Tôi phải lấy xe về.”

“Ồ, đúng rồi. Nó vẫn còn nằm trong vách tuyết.”

“Đại khái thế. Tảng tuyết đã bắt đầu tan rồi.”

“Ai chở bà đến đó?”

“Đến nhà Bedford ư? Tôi không nhớ tên anh ta. Anh ta làm việc cho đội cứu hộ.”

“Xe của bà không sao chứ?”

“Không sao. Phần khó nhất là lùi lại phía sau xe cảnh sát.”

“Lúc đó vẫn còn cảnh sát ở hiện trường à?”

“Tôi đoán thế. Một chiếc xe cảnh sát vẫn còn ở đó.”

“Bà có nói chuyện với một sĩ quan cảnh sát nào không?”

“Tôi chẳng gặp ai để nói cả.”

“Bà có bị cảnh báo không?”

“Bị cảnh báo? Tại sao tôi lại bị cảnh báo?”

Có vẻ Rhodes đã trả lời câu hỏi của mẹ tôi bằng một câu hỏi khác: “Vậy là bà không đi vào nhà?”

“Không.”

“Bà đi thẳng về nhà.”

“Đúng. Tôi đi thẳng về nhà. Rồi đi thẳng lên giường.”

Một sự im lặng kéo dài. Cuối cùng Rhodes cầm tập giấy của viên hạ sĩ lên rồi đưa nó ngang qua bàn cà phê cho mẹ tôi.

“Mời bà đọc lại cái này, thưa bà Danforth, và đảm bảo chúng tôi đã ghi chép đúng mọi việc,” ông nói, trong lúc Tilley đưa bút của ông ta cho mẹ tôi.

Mẹ tôi đọc qua các trang, nhưng sau đó bà nói rằng bà không đọc cẩn thận. Bà có thể giải mã được hầu hết chữ viết của Tilley, nhưng bà đã mệt lử, vì thế khi gặp phải một từ hay một câu khó hiểu, bà chỉ việc phớt lờ và lướt qua nó. Tilley tóm tắt được đại ý những gì bà nói, và với mẹ tôi có vẻ như đó là điều quan trọng nhất vào lúc đó.

“Câu chuyện chính xác chứ?” Rhodes hỏi khi bà đọc xong. “Anh Richard đây ghi chép gần đúng chứ hả?” ông ta nói tiếp và mỉm cười.

“Đó không ít thì nhiều chính là những gì đã xảy ra,” mẹ tôi nói.

“Tốt, tốt,” Rhodes lẩm bẩm. Sau đó ông ta đưa ra một yêu cầu đối với mẹ tôi khiến cho cả bố mẹ tôi đều nhận ra rằng họ cần một luật sư, cần ngay lập tức. Không cần biết lúc đó là bảy giờ rưỡi, tám giờ tối thứ sáu; không cần biết đó là khi cuối tuần mới bắt đầu. Họ cần một luật sư. Một luật sư hình sự. Và họ cần một luật sư ngay tức khắc.

Gật đầu như thể yêu cầu của ông ta rất nhỏ nhoi, một chút thủ tục thứ yếu và vụn vặt, Rhodes nhìn kệ sách phía trên vai mẹ tôi và hỏi, “Bà có thể thề rằng tất cả đều là sự thật không? Và sau đó kí tên vào?”