- 8 -
Hôm nay Charlotte dành nửa giờ để xem tất cả những tấm ảnh chụp em bé và mẹ chúng trên tường của tôi. Cô ấy đã thấy những tấm ảnh trong lần đầu đến khám, nhưng hôm nay là lần đầu tiên cô muốn xem hình.
“Nhìn này, Foogie,”cô nói với cậu con trai nhỏ, chỉ tay vào tấm ảnh đầu tiên trong đời của Louisa Walsh. “Có thể em gái của con sẽ giống cô bé này.”
“Hoặc có thể em trai con sẽ giống em bé kia,” Foogie nói, chỉ tay vào ảnh của một đứa bé khác mà nó nghĩ là một bé trai. Nhưng không phải. Thực ra nó đang xem ảnh của Betty Isham ba giờ sau khi chào đời, được bọc lại bằng tã màu xanh vì đó là những gì bố mẹ cô bé tình cờ có sẵn. Dĩ nhiên tôi không nói với Foogie điều đó.
Dù sao thì, Charlotte nói cô muốn sinh con gái, Foogie nói nó muốn có em trai, còn Asa thì chỉ muốn một đứa trẻ khỏe mạnh. Charlotte nói với tôi đó là tất cả những gì ông cầu nguyện cho ca đẻ này: một đứa trẻ khỏe mạnh nữa. Ông nói đó là điều quan trọng nhất. Một đứa trẻ khỏe mạnh.
Charlotte giữ sức khỏe rất tốt. Tôi tin chắc ông ta sẽ toại nguyện.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
MẸ TÔI ĐÃ KÍ TÊN VÀO BIÊN BẢN LỜI KHAI. Bố cố ngăn mẹ lại, nói với hai người cảnh sát, “Cô ấy sẽ sẵn sàng kí tên một khi luật sư của chúng tôi đã đọc lại nó,” nhưng mẹ tôi tin bà đã tuyệt đối không làm gì sai.
“Em sẽ kí,” bà nói với bố, rồi kí, viết tên mình bằng những chữ cái to và kiêu hãnh dọc phần dưới của trang thứ mười một.
Sáng thứ bảy, bố mẹ dậy sớm hơn tôi rất lâu. Tôi uể oải đi xuống cầu thang trong lúc vẫn mặc áo ngủ vào khoảng tám giờ, trong khi bố mẹ tôi đã ăn mặc chỉnh tề và kết thúc bữa ăn sáng. Không như hầu hết những thứ bảy khác, bố tôi mặc quần tây, thắt cà vạt, còn mẹ mặc váy và áo sơ mi kiểu. Bà đang ngồi duỗi thẳng chân phải, và ngay cả qua lớp quần bó bằng len dày, tôi vẫn thấy mắt cá chân bà sưng to thế nào.
“Con ngủ ngon không?” mẹ hỏi tôi, giọng bà cố làm ra vẻ vui vẻ.
“Cũng được ạ,” tôi lầm bầm, nhận thấy qua làn sương sớm của tôi rằng trông cả mẹ lẫn bố đều ngủ không đủ giấc. Tôi hình dung họ có chợp mắt, nhưng chỉ ngủ chập chờn.
“Hôm nay có định làm gì đặc biệt không?” bà hỏi tiếp.
Tôi lắc đầu, đột nhiên trở nên ngượng ngập khi đứng cạnh tủ lạnh trước mặt bố mẹ. Tôi vơ vội sữa và ngũ cốc rồi đến bàn ăn ngồi cùng họ.
Vào lúc đó tôi biết những điểm cơ bản trong kế hoạch của bố mẹ cho ngày hôm đó, nhưng không biết được chi tiết nào. Thêm chút nữa, tôi biết họ sẽ đi gặp luật sư. Khi họ nhâm nhi cà phê, tôi có thể thu thập phần còn lại.
Vào tối thứ sáu, bố tôi đã nói chuyện điện thoại với luật sư ở ba công ty, hai ở Montpelier và một ở Burlington. Hai luật sư ở Montpelier là bạn xã giao của gia đình chúng tôi, kiểu người mà bố mẹ tôi có thể gặp ở những buổi tiệc Giáng sinh lớn và những buổi dã ngoại mùa hè ở thị trấn, và bố mẹ tôi có thể thích sự có mặt của họ. Nhưng chúng tôi không đặc biệt thân với người nào cả, vì thế cuộc gọi của bố vào đêm hôm trước có thể khiến họ bất ngờ. Tuy nhiên, mỗi người đều rất sẵn lòng gặp bố mẹ tôi để cố gắng tìm hiểu xem họ có thể giúp được gì.
Luật sư thứ ba chính là Stephen Hastings, một người bạn của Warren Birch, một trong hai luật sư ở Montpelier mà bố mẹ tôi đến gặp sáng hôm đó. Hastings là một cộng sự trẻ trong một công ty ở Burlington, và Birch nghĩ ông ta là một luật sư hình sự xuất sắc - điều mà Birch thừa nhận là mình không bằng.
Vì thế kế hoạch của bố mẹ tôi là gặp hai luật sư ở Montpelier trước bữa trưa, sau đó gặp Hastings tại công ty của ông ta ở Burlington vào buổi chiều. Họ đi ngay sau khi tôi ăn xong bữa sáng, và suốt ngày hôm đó tôi như người trên cung trăng.
Tom Corts và tôi đã hẹn hò nhau được gần bốn tháng tính đến lúc đó, dù chúng tôi chưa chính thức hóa mối quan hệ bằng bất kì một vật biểu tượng nào như vòng tay khắc tên hoặc vòng đeo chân. Ở chỗ chúng tôi tại Vermont, vòng tay khắc tên đến năm 1981 đã quá lỗi thời, và những đứa con gái duy nhất đeo vòng kim loại quanh mắt cá chân là một nhóm ba đứa bạn thân do một đứa mới đến từ Kingdom ở Boston làm thủ lĩnh.
Tom và tôi dự định đi nhảy cùng nhau vào tối thứ sáu, một buổi liên hoan ở đồn Cựu chiến binh Mỹ tại Montpelier. Họ tổ chức các buổi khiêu vũ “không có cồn” vào tối thứ sáu cách tuần trong mùa đông năm đó cho lũ trẻ trung học, hi vọng giảm được số lượng những đứa choai choai uống say bí tỉ rồi lái xe tải nhỏ của bố xuống mương, hoặc đâm những chiếc Nova đã móp méo vào thân cây. Rõ ràng vào mùa xuân đó tôi còn nhiều năm nữa mới được lái xe, còn Tom thì còn năm tháng nữa mới được hưởng đặc quyền này. Và, đương nhiên, chúng tôi cũng chưa đủ tuổi để uống rượu ở Vermont.
Nhưng bạn bè của Tom ở lớp mười và mười một đã phát hiện ra rằng tuy các buổi khiêu vũ tại sàn nhảy Spartan bên trong đồn là không có cồn, vẫn luôn có ít nhất một công nhân mỏ đá thất nghiệp từ Barre hoặc thợ máy tiện bị sa thải từ công ty nội thất ở Morrisville lảng vảng gần cửa hàng tiện lợi, những người này sẵn sàng mua giúp lũ choai choai một lốc sáu chai bia nếu họ có thể giữ lại một hoặc hai chai cho mình. Vì thế chúng tôi thường đứng thành từng nhóm nhỏ trong bóng tối của Đồn Cựu chiến binh hoặc cửa hàng tiện lợi, giậm chân để giữ ấm và cầm những chai bia lạnh trong tiết trời đêm lạnh gấp bội.
Thông thường bố hoặc mẹ tôi hay là mẹ của Rollie sẽ chở chúng tôi đến những buổi khiêu vũ trong mùa đông đó, nhưng luôn có một người anh của Tom chở chúng tôi về. Chúng tôi sợ hơi thở hoặc lời nói lảm nhảm của mình sẽ tố cáo chuyện mình đã uống bia. Tôi uống rất kém, và ở lớp tám, chỉ cần một chai rưỡi là đủ để tôi cười hinh hích cả ngày.
Tuy nhiên, tôi đã không đi cùng Tom đến buổi khiêu vũ tối thứ sáu đó, vì khi còn ở trường tôi đã đoán rằng tốt nhất tôi nên ở nhà buổi tối. Đến lúc hầu hết chúng tôi bắt đầu leo lên xe đưa đón học sinh để về nhà lúc ba giờ, Tom đã nghe được tin một bà mẹ do Sibyl Danforth đỡ đẻ đã chết. Chúng tôi trao đổi nhanh về chuyện đó trước khi tiết học cuối cùng của mỗi đứa bắt đầu, và dự đoán của anh lập tức mang điềm xấu:
“Ông mục sư đó chắc là rất đau buồn, nhưng những tay bác sĩ mới là người sẽ gây khó dễ cho mẹ em. Bác sĩ nghĩ rằng họ biết mọi thứ.”
Sau khi im lặng một lúc lâu, anh nói tiếp, “Những tay bác sĩ này, bọn họ làm anh sợ. Bọn họ như một bầy thú. Bầy sói. Họ bao vây con mồi và nhằm thẳng vào cổ họng.”
Tối thứ sáu đó, Tom đã gọi điện cho tôi, lúc gần mười một giờ, từ điện thoại công cộng ở bãi đỗ xe của cửa hàng tiện lợi. Anh nói đường dây điện thoại nhà tôi đã bận gần như suốt đêm, và tôi giải thích với anh rằng bố tôi phải nói chuyện với luật sư. Tôi biết anh có uống bia, nhưng chưa say. Anh nói không thể đến nhà tôi vào sáng thứ bảy vì đã nhận lời giúp một người anh họ chuyển nhà đến căn hộ mới ở St. Johnsbury, nhưng anh bảo sẽ ghé qua vào buổi chiều. Tôi nói thế cũng được.
Khi lên đường đi Montpelier vào sáng thứ bảy, bố mẹ nói sẽ về nhà muộn, và bảo tôi nên kiểm tra điện thoại: Làm nghề bà mụ, mẹ tôi có lẽ là một trong những người đầu tiên ở hạt mua máy trả lời tự động, vì thế gia đình chúng tôi đã dùng nó trong nhiều năm rồi. Tôi rất thành thạo trong việc kiểm tra điện thoại.
Bố mẹ lo rằng phóng viên báo chí sẽ gọi điện cho chúng tôi, và nỗi sợ của họ là có căn cứ. Tự do báo chí Burlington, nhật báo lớn nhất bang, là tờ báo đầu tiên gọi đến, nhưng người phóng viên đó chỉ nhanh hơn vài phút so với các đồng nghiệp ở Người bảo vệ Montpelier và Ghi chép Ê cốt. Một người từ hãng tin AP ở Montpelier đã để lại ba tin nhắn, và tôi tin rằng ông ta chính là người đã gọi cách mười phút một lần cho đến giờ ăn trưa, gác máy mỗi khi tín hiệu ghi âm của máy trả lời tự động bật lên.
Tôi trải qua phần lớn ngày hôm đó trong tình trạng lơ mơ, lắng nghe những lời nhắn mà cánh phóng viên, bạn bè của gia đình và những bà mụ khác để lại trong máy trả lời tự động, và đợi Tom đến. Thông thường nếu tôi chờ Tom đến khi bố mẹ đi vắng, tôi sẽ mong mỏi giây phút chúng tôi nhanh chóng nằm trên ghế sofa ở phòng khách, âu yếm nhau cho đến khi Tom bắt đầu kéo áo len của tôi lên còn tôi thì phải làm cho việc đó chậm lại. Chúng tôi đều biết việc tôi cuối cùng sẽ cởi áo len và để anh vật lộn với áo ngực của tôi chỉ còn là vấn đề thời gian, nhưng thời điểm đó chưa đến.
Tuy nhiên, vào ngày thứ bảy khi bố mẹ tôi đi tìm luật sư, ý nghĩ Tom và tôi lao thẳng đến ghế sofa chưa bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Tôi biết mình rất vui khi Tom ghé qua, và tôi biết mình sợ - sợ như thể bố hoặc mẹ đang bị ốm thập tử nhất sinh. Nhưng tôi không biết hai cảm xúc đó sẽ chồng lấn nhau thế nào khi Tom cuối cùng cũng xuất hiện ở cửa nhà chúng tôi: Liệu anh nên ôm tôi hay đem cho tôi một chai bia? Liệu anh sẽ tra hỏi tôi đến từng chi tiết về những gì tôi biết hay sẽ cố tình nói về mọi thứ trừ chuyện đẻ tại nhà? Và nếu anh tình cờ ở nhà chúng tôi khi bố mẹ quay về, liệu một trong hai chúng tôi có nghĩ ra được ý gì để nói với họ - nhất là với mẹ tôi?
Ngay trước giờ ăn trưa, Rollie ghé qua, và trong khoảng một giờ, hai chúng tôi nghe những cuộc gọi đến trên máy trả lời tự động. Nếu bố mẹ hình dung ra cảnh hàng chục người sẽ dùng điện thoại để bố ráp tôi, họ hẳn sẽ đưa tôi đi cùng và cho tôi đi mua sắm ở Montpelier và Burlington trong lúc họ gặp luật sư. Nhưng không ai trong chúng tôi nghĩ đến sự tấn công dồn dập bắt đầu sau chín giờ sáng:
“Xin chào, tôi là Maggie Bressor, tôi là phóng viên của báo Tự do báo chí Burlington. Vui lòng cho tôi nói chuyện với bà Sibyl Danforth ngay sau khi bà ấy về nhà. Tôi xin lỗi đã làm phiền, nhưng tôi đang viết một bài về... ca đẻ ở Lawson, và tôi chỉ cần một ít thời gian của bà, thưa bà Danforth. Tôi sắp đến hạn nộp bài, vì vậy có thể tôi sẽ thử gọi bà lần nữa chiều nay. Số của tôi tại Burlington là 865-0940. Cảm ơn rất nhiều.”
“Chào Sibyl, chào Rand. Molly đây. Tớ đã nghe tin về, ừm, chuyện buồn đó, và tớ nghĩ đến các cậu. Cả tớ và Travis. Hãy gọi cho bọn tớ nếu muốn nhé. Và cho bọn tớ biết có giúp được gì không. Chào.”
“Xin chào, tôi muốn tìm Sibyl Danforth. Tôi là Joe Meehan ở Người bảo vệ. Chỉ muốn gặp bà nếu bà có ở nhà. Tôi sẽ gọi lại.”
Khi Rollie đến, tôi đã phải lắp cuộn băng cassette thứ hai để lưu tin nhắn. Và người ta vẫn tiếp tục gọi.
“Sibyl? Em có đấy không? Nếu em có ở đấy nhưng không nhấc máy, thì làm ơn nhấc lên đi! Là chị đây, Cheryl đây. Chị có cả một tập hồ sơ về pháp luật từ MANA mà chị muốn em xem. Khổng lồ luôn! Được rồi, em không có ở đấy, chị tin em. Nhưng gọi cho chị khi nào em về nhé. Hoặc có lẽ chị sẽ đem tập hồ sơ qua chỗ em. Trong đấy còn có cả tên của vài luật sư nữa - dĩ nhiên tất cả đều ở những nơi như Maryland và New Mexico - nhưng họ có thể giới thiệu tên một người ở Vermont. Một người giỏi. Nếu em cần. Nói với em sau nhé.”
Rollie nhấp một ngụm nước ngọt rồi hỏi tôi MANA là gì.
“Đó là một hội các bà mụ của mẹ tớ. Họ ở đâu đó tại vùng trung tây,” tôi đáp. Tôi đã biết từ sớm rằng đó là từ viết tắt của Liên minh Bà mụ Bắc Mỹ, tổ chức tương tự như Hiệp hội thương mại quốc gia của các bà mụ không chuyên thời đó.
“Chào các cậu, Christine đây. Gọi cho tớ nhé. Tớ lo cho các cậu lắm.”
“Sibyl, xin chào. Tôi là Donelle đây. Tôi biết có một bà mụ mà chị sẽ muốn nói chuyện. Bà ấy đã chứng kiến một sản phụ chết lúc sinh con tại nhà, vì vậy bà ấy hiểu nỗi đau mà chị có thể đang trải qua. Bà ấy ở Texas, và tôi biết bà ấy sẵn lòng nói và nghe tất cả những gì chị muốn. Chào nhé.”
“Timothy Slayton từ hãng tin AP. Tôi nghĩ tôi sẽ gọi lại sau.”
Thật tình là không dứt. Cuối cùng ngay cả Rollie cũng thấy mệt khi phải nghe những cuộc gọi, và về nhà lúc một giờ ba mươi. Mãi gần ba giờ Tom mới đến, và trong một giờ rưỡi ở giữa, tôi tiếp tục dán mắt vào máy trả lời tự động, nhìn bóng đèn đỏ của nó nhấp nháy khi các cuộn băng ghi âm tin nhắn đến và đi không chạy. Duy nhất một lần tôi nhấc điện thoại lên để nói chuyện, đó là khi tôi nghe giọng bố nói từ điện thoại ở văn phòng luật sư tại Burlington.
“Con sao rồi?” ông hỏi.
“Ồ, ổn ạ.”
“Con đang làm gì đấy?”
“Đọc sách ạ,” tôi nói dối. Tôi sợ bố mẹ sẽ lo lắng nếu họ biết sự thật và mường tượng cảnh tôi ngồi bó gối, bất động bên máy trả lời.
“Bài tập về nhà à?”
“Vâng. Bài tập về nhà.”
“Chà, hôm nay thứ bảy đấy, đừng học nhiều quá. Đời còn dài mà. Con có canh điện thoại không?”
“Một chút, con nghĩ thế.”
“Có ai gọi cho mẹ con không?”
“Vài người.”
“Bạn hay nhà báo?”
“Cả hai.”
“Được rồi. Khi làm việc xong với ông Hastings, bố mẹ còn ghé qua một nơi nữa. Vì dù sao bố mẹ cũng đang ở Burlington, nên bố mẹ sẽ đến bệnh viện để chụp X quang mắt cá chân mẹ con.” Ông đã cố gắng giảm nhẹ tầm quan trọng của chuyến đi bệnh viện, ngụ ý họ có thể cũng chẳng bận tâm chụp X quang nếu họ không ở Burlington, nhưng khó mà nói giảm nói tránh về một chuyến đi đến phòng cấp cứu.
“Chân mẹ vẫn đau lắm ạ?” tôi hỏi.
“Một chút,” ông nói.
Tôi nghĩ lần duy nhất tôi cử động giữa khoảng thời gian Rollie đi và Tom đến là khi tôi đứng dậy để xem những tiếng lục đục nhỏ phát ra từ nhà bếp là gì. Hóa ra đó là một vật báo hiệu độc đáo thường gặp của mùa xuân: Một chú chim cổ đỏ đã trở về nơi cho chim ăn bên ngoài cửa sổ nhà bếp sau một mùa đông trốn rét, và cu cậu đang chiến đấu với hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ. Tuy nhiên, chuyến về nhà của chú chim cổ đỏ ngày thứ bảy hôm ấy chỉ là một sự chọc tức, lại là một thí dụ sống động nữa trong đầu tôi về sự ngu ngốc của thế giới tự nhiên: Chim đập đầu vào kính, các bà mẹ chết lúc sinh con.
Trông tôi có lẽ giống như một địa ngục lớp tám đối với Tom khi mở cửa cho anh. Tôi cũng ăn diện như bất kì đứa con gái gần mười bốn tuổi nào khác, nhưng thứ bảy hôm ấy tôi chưa kịp chải tóc, và tôi không nhớ là mình đã chải răng. Tôi chỉ thay quần áo ngay trước khi Rollie đến, nhưng chắc chắn tôi đã không mặc đẹp để đón Tom Corts. Tôi mặc một chiếc quần jeans vừa rộng vừa lùng thùng, và một chiếc áo len hippie cũ của mẹ do bà tự đan. Bà có lẽ đã dùng đến mười một cuộn len, và dù hiệu ứng màu sắc có mục đích tạo ảo giác, ngay cả mẹ cũng từng nói rằng trông nó quá rối mắt, giống như do một đứa bé mẫu giáo chọn màu vậy.
Nhưng nếu Tom có phát khiếp vì những gì anh thấy khi tôi mở cửa, anh cũng kiềm nén sự thất vọng đó. Anh vòng tay qua eo tôi và kéo tôi lại gần, rồi hôn lên môi tôi vừa nhẹ nhàng vừa giản dị như nụ hôn đầu chúng tôi trao nhau một năm trước trên lớp bùn của trại ngựa nhỏ nhà McKenna.
Rồi sau đó anh đung đưa tôi một lúc lâu, một sự đung đưa kì cục nhưng khiến tôi cảm thấy thật hợp lí vào lúc đó. Tôi áp trán vào lớp áo sơ mi vải bông lộ ra từ áo khoác bông trùm mũ kéo khóa một nửa của anh, cảm thấy bình yên, nếu không muốn nói hoàn toàn yên tâm. Tôi không nhớ anh đã tách cơ thể chúng tôi ra và đưa hai người vào trong nhà như thế nào, nhưng anh đã làm thế mà không khiến tôi khó chịu.
Tôi nhanh chóng nhận ra Tom, cũng như tôi, không biết nên nói nhiều hay ít về cái chết của cô Bedford hoặc sự dính líu của mẹ tôi. Anh hiểu một cái ôm sẽ có ích, còn thái độ khi thể hiện thành lời thì anh phải tùy cơ ứng biến khi đã yên vị.
“Anh họ anh sống trong một cái hố xí,” là những lời đầu tiên anh nói với tôi sau khi chúng tôi đi vào nhà bếp. “Cha ấy cứng đầu lắm, vì vậy chẳng có cách nào làm ông ấy đổi ý được. Nhưng mà, trời ơi, ông ấy đã chuyển đến sống trong một đống rác.”
“Chỗ đó có gì mà tệ vậy?”
“Ngoài hai cửa sổ, mỗi cái to bằng một bìa đĩa nhạc, thì chẳng còn gì sất. Ngoại trừ chỉ có hai phòng và một phòng tắm, mà sàn nhà tắm thì sắp mục hết cả ra. Và anh chỉ tìm thấy một cửa hiệu nhỏ ở toàn bộ cái khu chết giẫm đó.”
Khi chúng tôi băng qua nhà bếp đi vào phòng khách, anh dừng lại trước tủ lạnh. “Anh lấy một chai nước ngọt được không?”
“Được chứ.”
“Anh thật chẳng hiểu ông ấy nghĩ gì,” anh nói tiếp trong lúc thò tay vào chiếc tủ lạnh hiệu Kelvinator màu trắng để lấy một chai Coca.
“Căn hộ ở trong hay ngoài thị trấn?”
“Nó nằm trong một ngôi nhà gần công ty nấu đường. Cái công ty đóng lon mọi thứ từ Quebec ấy.”
“Một căn nhà đẹp?”
“Ha! Đẹp như một tai nạn xe ô tô vậy. Nó vừa tối vừa cũ, và rất cần hoặc là một người thợ mộc giỏi hoặc là một cú sét đánh đúng chỗ.”
Anh ngồi xuống ở góc nhà cạnh máy nghe nhạc rồi bắt đầu đưa ngón tay cái lần theo chồng đĩa nhạc và băng cassette xếp thành hàng.
“Hôm nay mẹ em thế nào?” anh hỏi, cẩn thận nhìn chăm chú vào một bìa đĩa nhạc thay vì nhìn tôi.
“Em nghĩ mắt cá chân của mẹ đau hơn bà tự nhận.”
“Mắt cá chân?”
Tôi kể cho anh nghe ngoài việc phải chịu đựng tất cả những gì đã xảy ra ở nhà Bedford, mẹ còn bị thương ở mắt cá chân như thế nào.
“Bà đã chọn được luật sư chưa?”
“Em không biết.”
“Bố mẹ em đi gặp bao nhiêu người?”
“Ba.”
Anh gật đầu xác nhận. “Anh họ của anh đoán rằng bố mẹ em kiếm được quá nhiều tiền nên không cần luật sư biện hộ công. Nhưng anh ấy nói trước đây anh ấy có một luật sư công rất giỏi.”
Vào thời đó tín hiệu truyền hình có thể không tốt lắm ở chỗ chúng tôi tại Vermont, nhưng dù sao tôi vẫn xem đủ chương trình ti vi để biết luật sư biện hộ công là gì.
“Vậy à?”
“Ừ, ở St. Johnsbury. Anh ấy bảo luật sư đó rất cừ.”
“Người đó đã làm gì?”
“Anh họ anh hay luật sư?”
Tôi nhún vai. “Em nghĩ là cả hai.”
“Anh họ anh say rượu và ăn cắp một chiếc xe để đi dạo rồi đâm vào một cột điện thoại. Chiếc xe nát bét.”
“Xe của ai?”
“Của một người ở Boston. Một người tên là Saab. Vấn đề là, đó là lần thứ hai anh ấy ăn cắp và làm hỏng xe người ta. Vì vậy anh ấy bị giam ba mươi ngày ở Windsor. Nhưng anh ấy bảo lẽ ra còn tệ hơn ba mươi ngày nếu luật sư bào chữa của anh ấy không nhanh mồm nhanh miệng như thế.”
“Ăn cắp xe lúc say xỉn chỉ bị phạt tù ba mươi ngày thôi á?”
“Anh họ anh chỉ bị thế.”
Điện thoại trong nhà bếp reo vang, và khi tôi không nhúc nhích, Tom ngước lên nhìn tôi, nói rằng anh sẽ nghe.
“Cứ để máy tự động trả lời,” tôi nói với anh, rồi giải thích rằng đến khoảng một giờ trước, điện thoại còn reo không ngừng. Không ngạc nhiên khi đó là một phóng viên gọi điện lần nữa.
“Sẽ có nhiều thứ trên báo ngày mai lắm, phải không?” Tom nói.
“Em đoán thế.”
“Mẹ em nói chuyện với tờ báo nào chưa?”
“Em nghĩ là chưa.”
Anh thở dài, nhìn xuống gói thuốc lá trong túi áo trước ngực. Tôi biết anh muốn hút một điếu, nhưng anh không được phép hút thuốc trong nhà chúng tôi.
“Anh nghĩ mẹ em có nên làm thế không?” tôi hỏi.
“Anh không biết. Có thể. Để kể câu chuyện về phía bà.”
“Về phía bà? Anh nói về phía bà nghĩa là sao?”
Anh nhét một đĩa nhạc vào dãy đĩa nằm giữa bức tường và loa, rồi xoa tay sau cổ.
“Nghe này, Connie, anh không biết nhiều về những chuyện như thế này. Anh thậm chí không thể dựng chuyện khi đề cập đến luật sư và mấy người làm báo. Vì vậy anh có thể hoàn toàn sai về tất cả những chuyện này. Nhưng vấn đề là: Một người phụ nữ đã chết. Và cô ấy chết lúc sinh con. Cô ấy không chết vì bị sét đánh, hay vì đâm xe vào tảng đá, hay vì nhà cô ấy bị cháy giữa đêm. Cô ấy không chết vì quá béo nên mắc bệnh tim, hoặc vì cô ấy gãy cổ trên một chiếc xe trượt tuyết. Cô ấy chết vì điều gì đó đã xảy ra trong lúc cô ấy sinh con.”
“Thì sao?”
“Thì, họ sẽ phải đổ lỗi cho một ai đó. Hãy nhìn tất cả những phóng viên đã gọi điện mà xem.”
Tôi nghe tiếng chú chim cổ đỏ ngoài cửa sổ nhà bếp, trở lại để đánh nhau với ảnh phản chiếu của mình. Tôi cố gắng tập trung một lúc vào những gì Tom đang nói, nhưng tôi cứ nghĩ đến anh họ của anh và thời gian anh ta bị giam trong nhà tù bang ở Windsor. Câu nói cứ hiện ra trong đầu tôi như một đề bài trong tiết toán học:
Nếu một người đàn ông ăn cắp một chiếc xe và bị phạt tù ba mươi ngày, thì thời gian một bà mụ ở tù là bao lâu nếu một sản phụ của bà ấy chết trong lúc sinh con tại nhà?
“Ai là luật sư biện hộ công của anh họ anh?” tôi hỏi.
“Anh không nhớ tên ông ta.”
“Nhưng vụ việc xảy ra ở St. Johnsbury?”
“Ừ.”
Nếu một người ăn cắp một chiếc xe và bị phạt tù ba mươi ngày, thì thời gian một bà mụ ở tù là bao lâu nếu một sản phụ của bà ấy chết trong lúc sinh con tại nhà? Người đàn ông say xỉn, còn bà mụ thì tỉnh táo.
“Không phải Newport?”
“Không phải Newport.”
“Anh nghĩ Newport có luật sư biện hộ công không?”
“Đó là một hạt khác. Có thể.”
Nếu một người ăn cắp một chiếc xe và bị phạt tù ba mươi ngày, thì thời gian một bà mụ ở tù là bao lâu nếu một sản phụ của bà ấy chết trong lúc sinh con tại nhà? Người đàn ông say xỉn, còn bà mụ thì tỉnh táo. Khi làm phép tính, không được quên rằng bà mụ đã mổ sản phụ sau khi cô ta đã chết.
“Cô Bedford chết ở Lawson. Tất cả những người đến nhà họ vào sáng hôm qua đều đến từ Newport.”
“Nghe này, anh chắc chắn luật sư biện hộ công của Newport cũng giỏi.”
“Em hy vọng thế.”
“Vả lại, ngay cả nếu mẹ em cuối cùng phải cần đến một luật sư, thì bố mẹ em cũng biết chọn lọc mà. Họ có thể sẽ dùng một trong những người họ gặp hôm nay.”
“Và đấy là trường hợp nếu bà cần đến một luật sư,” tôi nói thêm đầy hi vọng, lặp lại những lời anh nói trước đó.
Anh gật đầu và lẩm bẩm, “Ừ, đúng thế: nếu. Nếu bà cần luật sư,” nhưng tôi biết sâu thẳm trong lòng anh tin rằng bà sẽ cần. Sau lưng chúng tôi điện thoại lại reo, và lần này Tom chẳng buồn ngước lên. Anh tiếp tục dán mắt vào đầu gối quần jeans xanh của mình, trong lúc lại một giọng nói xa lạ nữa yêu cầu mẹ tôi gọi lại cho ông ta sau khi bà về nhà.