- 9 -
Mười lăm năm trước, tôi luôn chờ đến một ngày mình sẽ bị bắt. Tôi đã biểu tình chống chiến tranh, tôi đã gọi cảnh sát là “lũ lợn”, tôi hút cần sa quá liều.
Nhưng tôi đoán mình chưa bao giờ đủ giận dữ hoặc rồ dại hoặc phê thuốc đến mức làm chuyện điên rồ. Có thể tôi sẽ như thế nếu tôi không được trời ban cho Connie. Tôi biết nhiều cô gái thời đó một tay chĩa ngón tay thối về phía cảnh sát còn tay kia thì bế con, nhưng đó không phải là tôi. Ðứa bé quý giá với tôi đến nỗi tôi không thể phí hoài cuộc sống như thế.
Tôi nhớ Rand từng bị tóm một lần và lùa lên một chiếc xe thồ. Anh là một trong hàng chục người bị bắt trong một cuộc biểu tình ở Washington D.C., và tôi có lẽ đã bị bắt cùng anh nếu không phải vì lúc đó đang có bầu năm tháng. Nhưng tôi đang mang thai Connie, và điều cuối cùng tôi muốn làm là mất cả ngày trời trong chiếc xe nhét kín người từ Vermont đến Washington, và rồi thêm một ngày nữa đứng dưới cái nóng của thủ đô, gào thét thủng cả phổi với hàng nghìn con người đang tức giận sục sôi.
Tôi nghĩ Rand chỉ bị giam một ngày, và anh không hề bị cáo buộc tội danh gì.
Và không như tôi, anh không bao giờ phải đeo còng tay.
Chiều hôm nay khi Stephen đảm bảo với tôi rằng tôi sẽ không vào tù, thẩm phán và luật sư bang - Tanner - lại khiến tôi có cảm giác như mình đã bắn vào ai đó trong lúc cướp một ngôi nhà. Stephen nói đó chỉ là thủ tục hình thức, nhưng tôi không nghĩ có ai bị cảnh sát đến nhà và bắt giam lại gọi một chiếc “còng tay” là thủ tục hình thức cả. Và dù tôi đã trông chờ cảnh sát đến, tôi chắc chắn đã không trông chờ chiếc còng.
“Thế này, tôi nghĩ việc này là không cần thiết, phải không nào?”
“Chúng tôi không có lựa chọn khác, Stephen ạ, anh biết mà,” người cảnh sát có ria mép nói, người mà tôi nghĩ tên là Leland.
Và thế là ở ngay hiên nhà tôi, họ đã buộc tôi đưa hai cánh tay ra để “còng tôi”.
Tôi không biết tội phạm nghĩ gì về chiếc còng tay. Nó không đến nỗi chặt lắm, nhưng tôi nghĩ đó là vì tôi không có nhiều thịt hoặc mỡ quanh cổ tay. Mỗi lần tôi ngọ nguậy ngón cái, xương cổ tay tôi lại cứa vào thép. Nếu tôi chà đủ lâu, tôi nghĩ nó sẽ làm bong da.
Ðiều kì lạ nhất về chiếc còng tay chính là miếng bọc cao su mà ai đó đã quấn quanh sợi xích nằm giữa hai cái còng. Nó giống như một ống nước làm vườn trong suốt, dài khoảng mười hai đến mười lăm centimet. Họ thiết kế ra hai cái khóa kim loại đáng sợ, xấu xí, và đau đớn để còng cổ tay người ta, rồi lại bọc một ống cao su quanh sợi xích.
Tôi cảm thấy đó là chi tiết kì lạ nhất trong toàn bộ trải nghiệm kì lạ này. Tôi đấy, ngồi ở băng sau trong xe cảnh sát, mặc bộ váy mùa xuân in hình hoa diên vĩ xanh, hai tay kín đáo khép lại giữa đùi vì tôi đang đeo một chiếc còng tay bọc bằng ống nước làm vườn.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
STEPHEN HASTINGS không có nhiều bị cáo ở cái góc lạnh lẽo, heo hút này của bang chúng tôi. Ông ta thường làm việc ở Burlington, nơi những loại tội ác có thể dẫn đến kết cục cần một luật sư năng động - theo tiêu chuẩn Vermont - thường xảy ra. Stephen từng bào chữa cho một ông giám đốc công ty điện lực, bị cáo buộc dìm chết vợ ở hồ Champlain, và một thầy giáo Anh văn ở trường trung học, bị khởi tố vì quan hệ tình dục với hai nữ sinh mười lăm tuổi học trong lớp của ông ta. Với sự giúp đỡ của Stephen, họ đều được tuyên vô tội.
Và dù số vụ nắm chắc phần thua của Stephen cũng tương đương số vụ thắng, nhưng chỉ riêng việc ông từng cãi thắng cũng đủ giúp ông trở thành một luật sư ít nhiều có giá. Dù sao thì, không ai nghĩ ông có cơ hội thắng trong vụ người quản trị bệnh viện chặt đầu nhân viên kế toán sau khi có vẻ như bị người này phát hiện ông ta đã biển thủ hàng trăm nghìn đô la. (“Cách thực hiện và sự man rợ của cái chết cho thấy hành động có mưu tính từ trước,” Stephen kể cho chúng tôi nghe thẩm phán đã nói với ông như thế vào buổi tối khi phiên tòa đó kết thúc.) Mọi người trong bang đều biết một ông chủ nhà nghỉ ở Shelburne sẽ bị buộc tội buôn lậu ma túy, còn người đàn bà để hai đứa con sinh đôi sơ sinh của mình đóng băng trên đỉnh Camel’s Hump[11] sẽ bị tuyên phạm tội giết người cấp độ một.
Dù các vụ xử án giết người, cưỡng hiếp và buôn ma túy của Stephen làm hao tốn nhiều bút mực của báo chí nhất, nhưng ông ta cũng từng bào chữa cho một ông chủ tịch ngân hàng sửa báo cáo tài sản và các khoản nợ của ngân hàng, một nữ doanh nhân trộm tiền từ nhà đầu tư, và hai quan chức Vermont nhận tiền hối lộ của một công ty xây dựng trong vụ đấu thầu một khu phức hợp văn phòng của bang. Vermont hiếm khi xảy ra nhiều hơn mười vụ giết người mỗi năm, và đa số các vụ đó thuộc dạng giết người liên quan đến ma túy hoặc những cơn ác mộng gia đình kết cục với một luật sư biện hộ công. Vì thế, việc một công ty như công ty của Stephen - và bản thân Stephen - cũng nhận xử lý các kiểu phạm tội cổ trắng khó nhận biết hơn (và ít rùng rợn hơn) là chuyện hoàn toàn tự nhiên.
Dù Stephen có thể hiếm khi xuất hiện ở Tòa án Hạt Orleans tại Newport, nhưng ông ta vẫn biết khá rõ luật sư bang của hạt. Vermont là một bang nhỏ, và Stephen thường chạm mặt Bill Tanner tại những buổi họp trang trọng của hiệp hội luật sư ở Montpelier, hay những buổi chiêu đãi thân mật tại trường luật ở Royalton. Họ có bạn bè chung ở Burlington và Bennington, và từng dành một ngày thứ bảy trượt tuyết cùng nhau ở Stowe, khi tình cờ gặp nhau lúc xếp hàng chờ cáp treo sáng hôm đó.
Vì vậy, lẽ ra tôi không nên ngạc nhiên khi tình cờ chứng kiến cảnh tượng diễn ra vào một buổi sáng trong thời gian xét xử. Nhưng tôi vẫn ngạc nhiên. Tôi xem Bill Tanner như một người xấu có đầu óc hơi bị tâm thần, một lão già thích thú trước tình cảnh suy sụp của bố mẹ tôi vì những lý do mà tôi không thể hiểu nổi. Trong tâm trí tôi, lão đặc biệt đáng sợ vì lúc nào cũng vô cùng kiểu cách.
Nói tóm lại, vào một buổi sáng trước khi phiên tòa ngày hôm ấy diễn ra, tôi đang đứng bên ngoài hai cánh cửa gỗ bóng loáng dẫn từ tiền sảnh tòa án vào phòng xử án. Lúc đó hẵng còn rất sớm, nhưng qua cửa sổ kính hình tròn, tôi có thể thấy Stephen, Tanner và thẩm phán Dorset đã ở bên trong. Dorset chưa mặc áo choàng, cà vạt vắt hờ quanh cổ như một chiếc khăn choàng: Ông ta thậm chí còn chưa bắt đầu thắt cà vạt.
Tanner đang ăn chuối còn Stephen đang nhai ngũ cốc khô, cả bàn tay và một phần cánh tay ông ta biến mất định kì vào trong chiếc hộp giấy bồi lớn. Ba người đàn ông đang đứng quanh bàn bào chữa, riêng Tanner thực tình đang ngồi trên chiếc ghế thường thuộc về mẹ tôi. Bồi thẩm đoàn chưa được đưa vào, chấp hành viên tòa án và báo cáo viên tòa án cũng chưa đến. Các phóng viên báo chí chưa chen nhau vào, cũng như hầu hết những người đến xem thường lấp đầy phòng xử án suốt thời gian xét xử: bạn bè và người ủng hộ của mẹ tôi, những thành viên hiếu kì của Ủy ban nghề y, và gia đình Charlotte Bedford - một nhóm nhỏ những người vừa đau buồn khôn nguôi vừa giận dữ khôn xiết. Hai người duy nhất mà tôi thấy trong phòng lúc bấy giờ là hai thanh niên mà - dựa trên những quyển sách dày cộp về luật pháp bang họ đang đọc, và những nhãn dán màu vàng họ dùng để đánh dấu các đoạn trong mớ sổ ghi chép luật chi chít của họ - tôi đoán là sinh viên luật.
Mẹ tôi đang ở trong phòng vệ sinh nữ ở một tầng khác của tòa nhà vào lúc đó, còn bố tôi thì ở đấy cùng bà - có lẽ đang đi đi lại lại trên hành lang ngoài nhà vệ sinh.
Nhìn thấy hai luật sư và thẩm phán ngồi cùng nhau gây ra một cảm giác gì đấy khiến tôi không xông vào phòng xử án như dự định. Độ vang trong phòng rất lớn, và qua khe hở mỏng giữa hai cánh cửa, tôi có thể nghe được cuộc trò chuyện của họ.
“Trời ạ, tôi suýt phì cười khi đọc báo sáng nay,” Tanner đang nói, cười khúc khích rất khẽ.
“Meehan có dự cùng một phiên tòa như chúng ta không nhỉ?” Stephen nói, và mất một lúc tôi mới nhớ ra tại sao tôi biết cái tên Meehan. Và rồi nó lóe lên: Đó chính là người phóng viên tóc vàng gầy nhẵng viết về vụ xử này cho tờ Người bảo vệ Montpelier, người lúc nào trông cũng rất mệt mỏi.
“Tôi không ngờ nó lại diễn ra tốt như vậy, Stephen ạ,” Tanner nói tiếp, nhét vỏ chuối màu vàng và đen vào một cốc cà phê bằng xốp rỗng.
“Meehan là một anh ngốc,” Dorset nói. “Hai anh đều biết thế mà.”
“Có thể. Nhưng nếu bồi thẩm đoàn đến giờ này cũng nhìn sự việc theo cách nhìn của anh ta thì tôi thật tình là toi đời ở đây rồi,” Stephen nói.
“Không ai nhìn sự việc giống cách của Meehan cả,” Dorset đáp.
“Hi vọng là thế. Nếu không, vài ngày sắp tới sẽ là những ngày rất dài đối với cô bạn Sibyl của tôi,” Stephen nói, lắc đầu vẻ đau khổ.
“Nhưng là một buổi nghị án rất ngắn,” Tanner nhanh chóng tiếp lời, rồi đấm nhẹ lên tay Stephen.
Tôi nghĩ điều khiến tôi bực dọc nhất vào lúc đó không phải là ý nghĩ rằng Stephen sợ phiên tòa sẽ diễn biến xấu đi, dù tôi biết chắc điều đó góp phần làm cho tôi cảm thấy khó chịu trong phần lớn buổi sáng hôm đó. Nó có lẽ cũng không phải là cách mà người luật sư lẽ ra phải biện hộ cho mẹ tôi và bảo vệ gia đình tôi kết thân với kẻ thù mà tôi không ưa tẹo nào.
Không, nghĩ lại, tôi tin điều khiến tôi bực dọc nhất cả ngày hôm đó chính là cách đùa cợt tầm thường, hời hợt của ba người đàn ông đó. Phiên tòa này đã trở thành tất cả đối với gia đình tôi, nó là cuộc sống của chúng tôi; nó nằm trong tâm trí chúng tôi mỗi giây phút chúng tôi thức giấc, và tôi không thể tưởng tượng mẹ tôi có thể thoát khỏi nó trong những giấc mơ của bà. Tôi biết tôi đã không thoát được. Hình phạt cho tội bất cẩn gây chết người là từ một đến mười lăm năm tù, và sự tấn công không ngừng của Tanner vào mẹ tôi đã khiến tất cả chúng tôi nhận ra rằng nếu bà bị tuyên có tội, chính quyền bang sẽ gây áp lực để áp dụng mức phạt tối đa. (Tôi đã làm phép tính ngay vào buổi sáng người ta đưa ra các cáo buộc chống lại mẹ: Nếu bà bị tuyên có tội và bị phạt tù mười lăm năm, thì đến lúc bà mãn hạn tù, tôi đã hai mươi chín tuổi còn mẹ đã gần năm mươi.)
Tuy nhiên, với Stephen Hastings và Bill Tanner, với thẩm phán Howard Dorset, vụ xét xử này chỉ thuần túy là công việc của họ. Nó thực ra chỉ là một trong nhiều công việc mà họ làm trong đời. Thêm một ngôi nhà cho thợ xây. Thêm một chuyến bay cho phi công. Thêm một đứa trẻ cho bác sĩ sản phụ khoa hoặc bà mụ. Vụ việc có thể quan trọng với gia đình tôi, nhưng với những người đang bàn bạc về tính cách và năng lực của mẹ tôi, nó chỉ là một buổi sáng nữa ngoài phòng làm việc, một buổi chiều nữa ở tòa mà thôi.
Tôi không phải lòng Stephen Hastings, nhưng nếu có thì cũng dễ hiểu. Tôi hình dung rất nhiều cô gái trong hoàn cảnh của tôi sẽ si mê ông ta, vì ông thân thiết với gia đình chúng tôi đến nỗi giống như một thám tử điều tra hoặc một kị binh cảnh sát bước vào cuộc đời chúng tôi và giải cứu chúng tôi. Và, đương nhiên, hormone của tôi là một mớ hóa chất hỗn loạn hệt như bất kì ai ở tuổi mười ba, mười bốn, một hỗn hợp chất nổ bao gồm những nguyên tố có nguy cơ bốc cháy - ít nhất là tại đây ở Vermont - ở những nơi ẩm thấp. Một chiếc xe tải chở một đống quần áo, hoặc những chiếc chăn cũ ném tùy tiện lên giường. Những kẽ hở phủ đầy rêu khuất lấp rải rác trên những con sông uốn lượn qua cánh rừng. Những khu nghĩa trang.
Có lẽ vì quá nhiều đá granite được khai thác từ các mỏ đá ở Barre và Proctor mà rất nhiều chàng trai ở Vermont quả quyết (dù hết sức sai lầm) rằng các nghĩa trang và bia mộ tác động lên những cô gái vị thành niên như những loại thuốc kích dục.
Rollie thường trêu tôi rằng tôi có cảm tình với Stephen, nhưng tôi nghĩ đó là vì bản thân nó cũng bị người đàn ông này hấp dẫn. Điều đó không làm tôi ngạc nhiên lúc đó; điều đó cũng không khiến tôi ngạc nhiên lúc này.
Stephen bằng tuổi bố tôi vào mùa hè và mùa thu ông ta bào chữa cho mẹ, và lớn hơn mẹ tôi hai tuổi. Những người đàn ông ở quanh tôi năm đó ba mươi sáu tuổi, còn người phụ nữ là cả cuộc đời tôi thì ba mươi tư.
Tôi không đọc báo nhiều trước khi tên của mẹ xuất hiện trên đó thường xuyên, vì vậy tôi chưa bao giờ nghe nói đến Stephen trước khi ông ta bước vào cuộc đời chúng tôi, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra hầu hết những người lớn quanh tôi đều đã nghe nói đến Stephen. Nếu họ không biết tên ông, thì họ thường nhận ra khuôn mặt ông ngay khi gặp. Ông thường được chụp ảnh. Thời đó người ta không được phép đem máy ảnh vào phòng xử án khi phiên tòa đang diễn ra, vì thế những tấm ảnh điển hình của Stephen là những gì mà ông từng nhắc đến khi ở cạnh tôi là “ôm và cười” với một bị đơn trên bậc tam cấp tòa án sau khi cãi thắng, hoặc “những cái nhíu mày đơn độc của sự phẫn nộ chính đáng” khi tuyên bố việc kháng án không thể tránh khỏi sau một ca cãi thua.
Tóc ông chỉ mới bắt đầu bạc dọc thái dương và trên cặp boomerang duyên dáng có chức năng làm chân mày. Màu tóc đen nhiều hơn nâu, và ông chải chuốt, tỉa tót mái tóc của mình với một kỉ luật chỉ có ở một cựu binh không lực. Những nếp nhăn nhỏ đã bắt đầu cong cong ở hai bên khóe miệng, nhưng ngoài đặc điểm đó ra, khuôn mặt ông khá gầy và sắc sảo. Vì phần lớn thời gian tôi gặp ông là vào buổi chiều hoặc tối, nên ông luôn mang nét mặt lởm chởm râu, một kiểu trang điểm sậm màu tự nhiên để lại trong kí ức tôi ấn tượng về một người cực kì cần mẫn và thông thái.
Ông cao tương đương bố tôi, khoảng một mét tám, và nặng hơn bố một tẹo - không phải béo, thậm chí cũng không phải nhiều thịt hơn, nhưng ông chưa bao giờ mất những cơ bắp hình thành trong quá trình huấn luyện cho cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông vừa li dị vợ khi gặp bố mẹ tôi, nhưng cuộc hôn nhân đó diễn ra không lâu lắm và không đem lại cho họ đứa con nào. Mẹ nói khi Stephen đặc biệt chú tâm chuyện gì, ông ta thường xoay ngón cái và ngón trỏ của bàn tay phải quanh ngón tay mà trước đây ông từng đeo nhẫn cưới, nhưng tôi chưa từng nhìn thấy ông làm thế bao giờ.
Có lẽ vì tôi là một cô gái mới lớn có mối quan tâm thường thấy về quần áo, nên tôi nhận ra rằng Stephen dường như luôn mặc đẹp hơn một chút so với những người đàn ông xung quanh ông ta: Nếu xung quanh là những luật sư mặc áo khoác giả vest và quần tây ở một buổi lấy lời khai sáng thứ ba, thì Stephen sẽ mặc complet; nếu những người xung quanh mặc quần kaki ở buổi tiệc rượu tối thứ bảy, thì ông ta sẽ mặc quần tây màu xám; thậm chí vào một ngày Chủ nhật nọ, tại một buổi dã ngoại vào mùa hè năm đó, trước khi những người lớn đồng loạt quyết định tất cả sẽ mặc quần jeans xanh, thì chỉ mình ông chọn quần vải chino - dệt chéo, đúng, nhưng thẳng thớm, bảnh bao, và màu be.
“Nhỉnh hơn một bậc,” ông giải thích với bố và tôi ngày hôm đó, đảo tròng mắt và tự giễu mình, sau khi bố bình luận gì đấy về thói quen luôn ăn mặc đẹp hơn một chút so với những người xung quanh. “Để chiến thắng ở công việc mà tôi làm - và cũng phải thừa nhận là, để tính mức thù lao mà tôi đặt ra - yêu cầu phải ăn mặc chính xác nhỉnh hơn một bậc so với những người khác. Không phải hai bậc, vì nếu thế thì tôi trông như một thằng ngốc. Chỉ một. Một bậc giúp tôi trông đắt giá. Và, tôi hi vọng, đáng đồng tiền bát gạo.”
“Tôi cũng hi vọng thế,” bố tôi đồng tình, giọng nói che giấu sự căng thẳng không thể hiện thành lời.
Stephen chưa bao giờ đối xử với tôi như một đứa trẻ con, một việc có nhiều ý nghĩa với tôi vào độ tuổi ấy. Ông ta đã hai lần đem đĩa nhạc punk đến cho tôi từ một cửa hiệu bán đĩa ở Burlington mà thông thường phải mất nhiều tháng sau mới đến được Vương quốc Đông Bắc. Một lần sau khi nghe Tom Corts nói quan tâm đến miền Tây nước Mỹ, ông đã đem cho anh một quyển sách bìa mềm tuyển tập các bức ảnh của Ansel Adams[12]. Ông luôn tỏ vẻ cực kì quan tâm đến công việc của bố tôi, và tôi nghĩ đến khi phiên tòa bắt đầu, ông đã biết tường tận về chuyện đẻ tại nhà đến mức có thể ra tay đỡ đẻ ngay tại một phòng ngủ nào đấy.
Tôi biết đôi khi bố cảm thấy Stephen đã trở thành một phần quá thân thiết trong cuộc sống gia đình chúng tôi, nhưng với tôi đó dường như là một cái giá hợp lý để đảm bảo mẹ tôi được tuyên trắng án. Ngẫm lại, tôi nghĩ Stephen chỉ đơn giản là đã kết luận rằng - hoặc trong thực tế những việc này thường có khuynh hướng thành hiện thực - phát hiện ra rằng ông ta quan tâm đến mẹ tôi, và muốn ở gần chúng tôi càng nhiều càng tốt. Cái tài của ông ta, trong tâm trí tôi, chính là luôn chân thật, những cái ôm của ông luôn chân thành và thân ái như người một nhà.
Khoảng bốn mươi tám giờ đã trôi qua từ ngày thứ bảy khi bố mẹ tôi gặp Stephen Hastings ở Burlington đến buổi tối thứ hai khi ông xuất hiện tại nhà chúng tôi ở Reddington với một thợ chụp ảnh, và tôi được giới thiệu với ông. Rõ ràng bố mẹ đã lập tức có thiện cảm với Stephen vào ngày họ gặp nhau, và ông ta đã lập tức đồng ý đại diện cho mẹ tôi nếu - như ông nói với họ - việc đó là cần thiết. Và khi chính quyền bang tiến hành điều tra trong suốt tháng ba, dù tất cả chúng tôi đều hi vọng rằng Bill Tanner sẽ quyết định không khởi tố, Stephen vẫn kiên quyết bảo bố mẹ tôi nên chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất: một cáo buộc tội bất cẩn gây chết người xuất phát từ sự khinh suất hoặc cực kì bất cẩn của mẹ tôi.
“Bill thậm chí có thể làm ầm ĩ rằng việc đó là cố ý,” Stephen cảnh báo vào buổi chiều thứ bảy đó.
“Thế có nghĩa là gì?” bố tôi hỏi.
“Trong thực tế nó sẽ chẳng có nghĩa gì cả. Nhưng vì là công tố viên cao nhất của chính quyền ở Orleans, Bill cần hành động như thể ông ta là một chàng cao bồi dữ dằn,” Stephen bắt đầu, trước khi xoay ghế lại để nói chuyện trực diện với mẹ tôi. “Nếu ông ta đề xuất chị hành động cố ý, thì có nghĩa ông ta tin rằng có thể thắng với một cáo buộc tội ngộ sát, chứ không chỉ đơn thuần là bất cẩn gây chết người. Thậm chí có thể là giết người cấp độ hai.”
Mẹ tôi chỉ im lặng gật đầu, bố tôi kể với tôi điều này một thời gian lâu sau đó, còn ông không thể nghĩ ra được gì để nói. Vì thế ông chỉ đưa tay ra ôm lấy bàn tay mẹ.
May là Stephen đã nhanh chóng nói tiếp, “Đương nhiên, sẽ không có chuyện đó xảy ra. Tôi không nghĩ Bill có thể tìm được một tiền lệ nào cho cáo buộc kiểu này. Tôi chỉ cảnh báo anh chị rằng ông ta có thể làm ầm ĩ đến mức đó ngay từ đầu.”
Stephen muốn bắt tay vào việc ngay để chuẩn bị bào chữa - chỉ để phòng hờ - và bố mẹ tôi đồng ý. Ông ta muốn những bức ảnh chụp các vết xây xát và bầm tím trên người mẹ tôi do băng đá vào sáng thứ sáu ở Lawson, và mắt cá chân bị bong gân khiến bà phải đi tập tễnh. Ông muốn kiểm tra hồ sơ khám thai của Charlotte Bedford với một bác sĩ, và ông nói có thể đưa một nhà điều tra đến ngay. Ông cho mẹ tôi một vài lời khuyên: “Đừng nói với bất kì ai về chuyện này, không một ai. Đừng nói với bất kì người nào về bất kì chuyện gì - và đừng nói gì với tôi cả. Tôi sẽ hỏi chị những gì tôi cần biết khi chúng ta bắt tay vào việc. Và cố gắng đừng lo lắng gì cả. Tôi biết chị sẽ lo, nhưng chị không cần lo. Theo ý tôi, chính quyền phải tặng thưởng huy chương cho chị vì đã cứu mạng đứa bé mới đúng, chứ không phải hăm dọa chị như một băng đảng du côn hợp pháp.”
Đương nhiên, ngay lúc đó đã có những tín hiệu cho bố mẹ tôi thấy rõ ràng và chính xác rằng bất kì hi vọng nào về việc chính quyền bang sẽ không khởi tố là vô căn cứ, bất kì sự lạc quan nào cũng đều không được đảm bảo. Trải qua ngày thứ sáu, thứ bảy và Chủ nhật sau cái chết của Charlotte, mẹ tôi cứ ngóng chờ Anne Austin gọi điện thoại. Mẹ tôi thực lòng lo rằng cô học việc trẻ của bà quá ám ảnh với những gì đã nhìn thấy đến nỗi có thể sẽ từ bỏ ý định trở thành bà mụ trong tương lai. Vì thế, bà đã gọi điện cho cô ta vào sáng thứ bảy trước khi cùng bố đi tìm luật sư, và lần nữa sau khi họ về nhà vào cuối ngày hôm đó. Bà gọi vào sáng Chủ nhật, và lần nữa vào tối Chủ nhật.
Như chúng tôi, Anne cũng có máy trả lời tự động, và mẹ tôi lần nào cũng để lại lời nhắn. Khi Anne vẫn không gọi lại lúc chúng tôi ăn tối vào ngày Chủ nhật, mẹ tôi tự nhủ thành tiếng không biết có phải Anne đã đi Massachusetts để thăm bố mẹ cô hay không, để tạo ra một khoảng cách về nghĩa đen giữa cô với ngôi nhà nơi Charlotte Bedford đã qua đời.
“Và biết đâu cô ấy đã cố gắng liên lạc với em hơn hai mươi lần mà chỉ gặp toàn máy bận,” bố tôi nói thêm.
Các tờ báo ngày Chủ nhật cũng là một dấu hiệu khá rõ cho thấy chính quyền bang sẽ khởi tố. Vào sáng thứ bảy, chỉ có vài bản tin dài tám hoặc mười centimet trên Tự do báo chí Burlingtonvà Ghi chép Ê cốt nói rằng một phụ nữ tên là Charlotte Fugett Bedford đã tử vong trong một ca đẻ tại nhà, nhưng không hề đề cập đến tên Sibyl Danforth. Bất kì ai tình cờ đọc hai bản tin này đều sẽ suy đoán từ nội dung câu chuyện rằng dù thi thể người phụ nữ đã được đưa đi khám nghiệm pháp y, nhưng đó chỉ là một thủ tục và chẳng có lý do gì để nghi ngờ ngoài chuyện chết vì nguyên nhân tự nhiên.
Tuy nhiên, các bài báo ngày Chủ nhật lại khác hẳn. Chúng dài hơn, chi tiết hơn, và rùng rợn hơn. Chúng cũng thiếu phần ý kiến của mẹ tôi về cái đêm dài ấy trong phòng ngủ của nhà Bedford, vì bà đã chọn cách không gọi lại bất kì cuộc điện thoại nào từ phóng viên trong ngày thứ bảy. Và dù Stephen giải thích với bố mẹ tôi rằng họ nên chuyển các yêu cầu của báo chí đến ông ta, nhưng họ không biết điều đó khi mới đến văn phòng của ông, và vì thế trong các bài báo ngày Chủ nhật cũng không có lời bình luận nào từ Stephen Hastings.
Thế cho nên, những bài báo đăng ngày Chủ nhật không chỉ đẫm máu mà còn một chiều và sai bét. Chúng có đầy những trích dẫn từ các bác sĩ và bà mụ không có mặt trong phòng cùng mẹ tôi, những người sẵn sàng phỏng đoán về điều “hẳn đã xảy ra” hoặc điều “có thể đã xảy ra”. Ông bác sĩ sản phụ khoa từ Bệnh viện North Country, người đã chào đón Veil ngay sau khi nó ra đời, rất sẵn lòng nói về những việc ông ta biết (đứa bé vẫn ổn) lẫn những việc ông ta không biết (tại sao người mẹ thì không ổn).
“Chúng ta đã bị ru ngủ khi tin rằng việc sinh đẻ cũng an toàn như trám răng hoặc băng bó một cánh tay gãy,” Bác sĩ Andre Dumond nói với các phóng viên. “Rõ ràng, như sự cố này đã chứng minh, nó không an toàn. Danh sách những điều có thể diễn biến xấu trong sinh đẻ tại nhà là rất đáng sợ và bất tận. Đó là lý do tại sao bác sĩ thích lựa chọn sự hỗ trợ về mặt kĩ thuật và chuyên môn của bệnh viện hơn.”
Ngay cả khi chỉ mới mười ba tuổi, tôi có thể nhớ mình đã suy nghĩ trong lúc đọc lời nhận xét này rằng bản thân tôi sẽ không trám răng tại nhà hoặc băng bó cánh tay bị gãy trong phòng ngủ của mình, nhưng tôi vẫn hiểu ý ông ta. Và tôi biết những người khác cũng sẽ hiểu.
Dumond cũng được phóng viên của hãng AP hỏi rằng liệu Charlotte Bedford có chết không nếu sinh con trong bệnh viện, và câu trả lời của ông ta cho câu hỏi đó nên được các giám đốc quan hệ công chúng và sinh viên luật, những người hiểu vai trò của truyền thông trong một vụ xét xử, nghiên cứu:
“Lúc này tôi không biết liệu người phụ nữ tội nghiệp ấy có sẽ chết trong bệnh viện hay không. Tôi chưa biết tường tận về chuyện đã xảy ra. Liệu bụng cô ấy sẽ bị banh ra bằng một con dao làm bếp không? Dĩ nhiên là không. Liệu cô ấy có sẽ phải chịu đựng ca mổ đẻ mà không được gây mê không? Dĩ nhiên là không.”
Trong số năm, sáu bác sĩ có thể gặp mẹ tôi và Veil khi họ đến Bệnh viện North Country, Dumond là sự lựa chọn tồi tệ nhất theo quan điểm của gia đình tôi. Mẹ tôi và Dumond quen biết nhau, và họ không ưa nhau. Tôi không nghi ngờ gì việc Dumond là một bác sĩ sản phụ khoa giỏi, nhưng lúc đó ông ta đã hơn năm mươi tuổi, và ông ta là kiểu bác sĩ mà các bà mụ thường ví von là “nhà can thiệp”. Ông ta tin rằng sinh đẻ là một công việc nguy hiểm, cần phải có sự giám sát liên tục và rất nhiều thuốc men. Mẹ tôi và các bà mụ khác đôi khi gọi ông là “Bác sĩ kẹp Fooc-xép” và “Người đàn ông Electrolux” - liên tưởng đến chiếc máy hút hình chỏm sọ mà những bác sĩ như Dumond sẽ áp lên đầu thai nhi để kéo đứa bé ra khỏi âm đạo - vì ông ta rất nhanh nhẹn trong việc biến những cái đầu em bé thành những thứ trông như củ cải với các đồ chơi trong phòng đỡ đẻ của ông ta.
Mẹ tôi nghĩ thật là lố bịch (nhưng hoàn toàn nằm trong dự đoán) khi Dumond thuyết phục một bác sĩ nhi khoa giữ Veil ở lại bệnh viện vào cuối tuần để theo dõi. Hai người bác sĩ còn quá đáng đến mức đưa đứa trẻ khỏe mạnh, khóc oe oe, nặng ba kí tám ấy vào căn phòng chẳng khác gì mấy so với phòng săn sóc đặc biệt trẻ sơ sinh: một căn phòng đặc biệt, đóng kín, được họ dựng lên cạnh phòng trẻ sơ sinh, có sẵn khí oxy, máy theo dõi, một chiếc lồng nuôi trẻ đẻ non, và đèn chiếu trị vàng da. Hôm Chủ nhật, đứa bé thậm chí còn ngủ trên một tấm nệm gắn máy báo động, có thể báo động nếu đứa bé ngừng thở.
Trong vài bài báo, một quan chức giấu tên ở văn phòng luật sư bang, chắc chắn là Bill Tanner, giải thích rằng Vermont đang điều tra cái chết. “Chúng tôi chưa biết liệu có cơ sở cho các cáo buộc hình sự hay không, hay đó chỉ là một vụ việc dân sự,” nguồn tin nói, cho thấy ngay cả khi chính quyền bang không tiến hành khởi tố thì mẹ tôi cũng nên chuẩn bị tinh thần bị kiện sạch túi.
Chỉ có phóng viên của tờ Biên niên kí Newport truy ra Mục sư Asa Bedford để lấy một phát biểu ngắn. Ông không hẳn là lẩn tránh, nhưng ông đã đưa Foogie đi vào đêm thứ sáu và trải qua vài ngày sau đó tại nhà một giáo dân. Vào sáng hoặc chiều thứ bảy, ông nói với phóng viên đó rằng ông vẫn còn bị sốc, và ông không có gì để nói về mẹ tôi hoặc ca đẻ của vợ ông:
“Tôi rất, rất mang ơn khi tôi được ban cho một đứa con nữa. Nhưng tôi thậm chí không biết phải bắt đầu thể hiện nỗi buồn đau của mình thế nào về cái chết của Charlotte. Tôi không biết phải nói gì. Tôi xin lỗi. Tôi không nên nói thêm gì nữa.”
Ông không giảng đạo vào sáng Chủ nhật. Ông thậm chí không đến nhà thờ. Thật ra, ông đã không bao giờ đến giảng đạo ở nhà thờ đó nữa. Ông đã dự lễ ở đó thêm hai lần nữa, nhưng đến đầu tháng năm, ông đã rời khỏi Vermont, trở về Alabama, nơi gia đình ông sinh sống.
Vài tuần sau, câu phát biểu của ông “Tôi không nên nói thêm gì nữa” bắt đầu có ý nghĩa riêng với bố tôi. Trong một thời gian, ông đã tin rằng Bill Tanner hoặc một luật sư chỉ biết xúi giục người khác kiện tụng để lấy tiền đã bảo Mục sư Asa nói như thế, để đảm bảo ông không nói gì có thể ảnh hưởng đến nhà Bedford khi họ kiện nhà Danforth ra tòa. Và ngay cả nếu những lời nói đó không phải do một luật sư bày vẽ cho Mục sư Asa, thì vào sáng Chủ nhật chúng tôi đọc được chúng, chúng tôi cũng nhận ra rằng chúng - cùng với bình luận của bác sĩ Dumond và nguồn tin từ văn phòng luật sư bang - có nghĩa là mẹ tôi sẽ phải ra hầu tòa.
Mẹ và tôi hầu như không bao giờ cùng nhau nấu bữa ăn tối, vậy mà, trớ trêu thay, đó chính là điều chúng tôi đang làm vào cuối ngày thứ hai khi Stephen Hastings và thợ chụp ảnh của ông ta nhấn chuông cửa. Mẹ tôi đang ngồi trên bàn ăn, cố hết sức để không đứng trên chân. Dù ba ngón chân bị dán băng keo cá nhân, bà vẫn cố lột vỏ những quả ớt đỏ chúng tôi vừa nướng, trong lúc tôi đang xắt rau trên tấm thớt cạnh bồn rửa chén.
Lúc đó chỉ mới bốn giờ ba mươi, vì vậy còn ít nhất một giờ nữa bố tôi mới về nhà.
Mẹ biết luật sư của mình sẽ đến vào bất cứ lúc nào để nói chuyện thêm với bà và thu thập những tài liệu mà ông ta cho là quan trọng. Có thể vì cảnh sát bang đã cử hai người đến nhà chúng tôi vào tối thứ sáu, một người hỏi còn một người ghi chép, mà tôi đã ra mở cửa với kì vọng đứng trước cửa là một người cỡ tuổi bố mẹ tôi, mặc bộ complet sang trọng, và một người trẻ hơn rất nhiều - có thể ăn mặc bình dân hơn - với trách nhiệm duy nhất là ghi lại cuộc nói chuyện trên giấy.
Thay vào đó tôi gặp một người đàn ông mặc quần tây và áo khoác giả vest, không thắt cà vạt, và một người hơi lớn tuổi hơn mặc quần jeans xanh, áo sơ mi vải flanen, và một áo phao cộc tay. Như một con vật thồ hàng, người đàn ông mặc quần jeans đeo hai túi đựng máy ảnh ở hai vai, trong tay ông là những cuộn dây nối và hai chiếc đèn kim loại lớn.
Báo chí, tôi sợ hãi nghĩ, đã quyết định đổ bộ đến nhà chúng tôi vì mẹ tôi không chịu gọi lại cho họ.
“Tôi không nghĩ mẹ tôi muốn nói chuyện với các người,” tôi nói, đứng thẳng lưng ở cửa.
Người thợ chụp ảnh quay sang người kia, và dù hàm râu của ông ta dày như bông thép, tôi vẫn có thể nhìn thấy ông ta nhăn mặt. Ông ta cong vai lên khiến hai sợi dây đeo túi máy ảnh nghiêng về phía cổ mình, và thở dài ngao ngán.
Người mặc áo giả vest chìa tay ra với tôi và mỉm cười. “Cháu là Connie, phải không?”
Tôi phớt lờ cái bắt tay, nhưng gật đầu. Tôi thích giọng nói và ngữ điệu của ông ta - tự tin và chân thành, không giả tạo - nhưng điều cuối cùng tôi muốn làm là dính vào một cuộc trò chuyện dài dòng với nhà báo trong khi luật sư của mẹ tôi có thể đến vào bất cứ lúc nào.
“Tôi là Stephen Hastings,” ông nói tiếp. “Tôi đã gặp bố mẹ cháu hồi chiều thứ bảy. Đây là Marc Truchon. Ông ấy đi với tôi để chụp vài tấm ảnh.”
Truchon gật đầu, và tôi theo phản xạ bắt tay Stephen.
“Cháu nghĩ hai chú là nhà báo,” tôi nói, cố gắng cười, nhưng âm thanh phát ra nghe như tiếng càu nhàu. Đến tận bây giờ tôi vẫn không khéo ở khoản chữa thẹn mỗi khi bị bé cái nhầm, và khi còn là một cô gái mới lớn - cũng hậu đậu và ghét bản thân như hầu hết những bạn cùng trang lứa - tôi có thể đôi khi đỏ lựng hai má đến nỗi trông như đang mắc nghẹn. Khi tôi dẫn hai người đàn ông vào nhà bếp, cảm giác bẽ mặt có lẽ đã nướng chín da tôi, trông như tôi mới phơi nắng suốt một tuần.
Mẹ tôi đứng dậy khi chúng tôi bước vào phòng, vịn lưng một chiếc ghế khác để làm điểm tựa.
“Chúa ơi, Sibyl, đừng đứng dậy!” Stephen nói, dùng tay ra dấu cho mẹ ngồi lại ghế như đang điều khiển giao thông. Khi bà đã ngồi xuống, ông nhoẻn miệng cười và nói thêm, “Mà nghĩ lại, sao chị không đứng dậy và nhảy lò cò một chút nhỉ? Hãy làm cho cái mắt cá ấy sưng to như quả bưởi nào.”
Marc Truchon chụp ảnh mẹ tôi trong phòng khách suốt gần ba mươi phút, ghi lại hình ảnh các bộ phận trên người bà trên tấm phông nền màu trắng nhỏ mà ông đem theo trong túi xách. Ông chụp lại những vết rách dọc lòng bàn tay trái của mẹ tôi như những cú nhào thẳng, trong đó có một vết đứt dài và sâu chạy từ cạnh nhẫn cưới đến ngón cái. Ông chụp ảnh một loạt những chỗ trầy xước và vết bầm của mẹ, nhiều chỗ có hàng chục chấm nhỏ như đầu bút bi do vết sẹo mới hình thành.
Thoạt đầu tôi rất ngạc nhiên khi Marc lại bắt đầu ở cánh tay và bàn tay mẹ, vì hai chân bà mới là bộ phận bị thương và bầm dập nhiều nhất. Nhưng rồi khi ông ta nói, “Được rồi, bà Danforth, chúng ta chụp tới hai chân nhé?” và Stephen quay lại nhà bếp lẩm bẩm gì đấy về một cốc nước, tôi đã hiểu ra: Chiều hôm đó mẹ tôi mặc một chiếc váy bohemian dài có họa tiết hình cánh hoa, một chiếc váy giản dị gần chạm sàn khi bà đứng lên, và giờ đây bà phải kéo váy lên đến tận hông. Ngoài mắt cá chân bị bong gân, bà còn có nhiều vết bầm rải rác trên hai chân, trong đó có một vết to bằng quả dâu tây ở đùi, đau đến mức bà không thể mặc quần jeans, một vết bầm sâu đến độ có màu đen hơn là màu tím.
Tôi nhanh chóng theo Stephen vào nhà bếp để cho mẹ và thợ chụp ảnh được riêng tư. Vả lại, tôi không muốn nhìn thấy những chỗ bầm dập tồi tệ nhất của mẹ.
“Cốc để ở đâu Connie nhỉ? Tôi rất muốn uống nước,” Stephen nói trong lúc dùng một chiếc khăn mùi xoa trắng lau cặp kính.
Tôi mở cửa tủ và lấy ra hai chiếc cốc. Rồi, sực nhớ mẹ luôn mời khách cà phê và trà thảo dược, tôi lôi xuống một chiếc hộp kim loại bà dùng để đựng túi trà. “Chú có muốn uống cà phê không? Hay là trà thảo dược?”
“Gia đình cháu có cổ phần trong công ty trà hay cà phê à?”
“Cháu không biết,” tôi đáp, mở miệng rồi mới nhận ra đó là một lời nói đùa.
“Không,” ông nói tiếp, “lúc này nước là được rồi.”
Tôi vặn vòi nước ở bồn rửa bát đầy mỗi cốc.
“Lớp tám, đúng không?” ông ta hỏi.
Tôi gật đầu.
“Ở trường trung học công đoàn à?”
“Vâng ạ.”
“Trường cho xe đến đón, hay là bố mẹ cháu phải đưa rước cháu?”
“Ồ, không ạ, trường có xe đưa đón học sinh.”
Ông lắc đầu. “Trong mùa bùn thì như thế là nhất nhỉ.”
“Khó có gì làm cho xe đưa đón học sinh phải dừng lại.”
“Cháu có biết Darren Royce không?”
“Thầy Royce, giáo viên sinh học ạ?”
“Chính là người đó.”
“Vâng, cháu có biết.”
“Thầy ấy có dạy lớp cháu không, hay cháu chỉ biết thầy ấy là ai thôi?”
“Thầy dạy cháu môn sinh học. Mỗi tiết năm mươi phút, chưa kể giờ thực hành ở phòng thí nghiệm.”
“Thầy ấy dạy giỏi không?”
Tôi nhận ra trong lúc nói chuyện, tôi đã đứng thẳng lưng, một phản xạ để đáp lại dáng đứng hoàn hảo của Stephen. Tôi tiến đến từ quầy bếp nơi tôi mới dựa lưng và thẳng vai.
“Hai người là bạn à?”
“A, trả lời câu hỏi bằng một câu hỏi. Điêu luyện lắm.”
“A, trả lời câu hỏi bằng một lời khen. Điêu luyện lắm.”
“Ừ, chúng tôi là bạn.”
“Vâng, thầy ấy dạy hay lắm.”
“Thích thầy ấy không?”
“Có ạ. Hai người biết nhau thế nào ạ?”
“Không lực. Muốn trêu thầy ấy một tí không?”
“Có thể.”
“Lần sau khi gặp thầy ấy, nói với thầy ấy rằng L-T gửi lời chào từ Trại Latrine.”
“L-T?”
“Thầy ấy sẽ hiểu.”
“Còn Trại Latrine: Đó là tên gọi trại của chú ở quân đội à?”
“Không lực. Ừ. Nó là một trong những trại đó.”
“Nó ở Việt Nam ạ?”
“Đúng thế.”
Chúng tôi thỉnh thoảng nghe thấy từ phòng khách lúc thì giọng của mẹ, lúc thì giọng của Marc, và rồi tiếng bấm máy mỗi khi ông ta chụp ảnh. Cánh cửa khép chưa đến một nửa, nên mỗi lần ánh đèn lóe lên, nhà bếp lại sáng lòa như thể ánh nắng mùa hè đã chiếu sáng bầu trời bên ngoài.
“Bố cháu có ở nhà không?” ông ta hỏi.
“Chưa về ạ. Bố thường về nhà khoảng năm rưỡi sáu giờ.”
Ông ta liếc nhìn những quả ớt đã lột vỏ trên bàn làm bếp và rau củ, một số đã được thái, trên quầy bếp.
“Bữa tối trông ngon lành nhỉ. Cháu đang nấu món gì đấy?”
“Thực ra cháu chẳng làm gì nhiều. Cháu không phải là đầu bếp gì đâu. Cháu chỉ cắt những gì mẹ bảo cắt. Cháu nghĩ kết quả sẽ là món thịt bê nấu nước xốt kem chua.”
“Ừm, hi vọng chúng tôi sẽ không làm mất quá nhiều thời gian của mẹ cháu.”
“Chú định làm gì tiếp theo?”
Ông ta lấy từ túi trước của áo khoác ra một chiếc máy thu âm dài bằng tấm bưu thiếp, nhưng rộng chỉ bằng một nửa. “Tôi sẽ hỏi bà ấy vài câu. Tối nay sẽ không hỏi gì quá khó.”
“Chú sẽ không ghi chép ạ?”
“Ôi, Chúa ơi, không.”
“Cảnh sát đã làm thế mà. Bố mẹ cháu nói cảnh sát đã ghi chép.”
Ông ta mở máy thu âm ra và cho tôi xem cuộn băng cassette nhỏ nhất mà tôi từng thấy, một cuộn băng chỉ to hơn con tem bưu điện một chút. “Chà, cảnh sát có phương pháp của cảnh sát, tôi có phương pháp của tôi. Và cháu biết gì không?”
“Gì ạ?”
“Phương pháp của tôi tốt hơn rất nhiều.”
Có thể vì cách nói chuyện tự tin của ông, và có thể vì dáng đứng thẳng của ông. Có thể vì cách ăn mặc của ông, chiếc áo khoác nhỉnh hơn một bậc. Có thể vì tất cả những điều đó gộp lại. Nhưng tối hôm đó tôi đã đi ngủ với niềm tin rằng nếu mẹ tôi quả thực cần đến một luật sư - và, trong suy nghĩ của tất cả chúng tôi, điều đó vẫn còn chưa chắn chắn - thì bà đã có người tốt nhất ở Vermont.