← Quay lại trang sách

- 10 -

Hôm qua Connie uống một tách cà phê trong bữa sáng. Lần đầu tiên, nhưng tôi nghĩ việc này sẽ trở nên thường xuyên. Tôi không hỏi con bé có thích hay không vì như thế thì giống giọng điệu áp đặt của bố mẹ quá. Và tôi cũng không ngăn con bé, dù ý nghĩ ấy đã nảy ra trong đầu tôi. Nó còn chưa tròn mười bốn tuổi.

Tôi nhớ mình đã làm gì khi mười bốn tuổi. Ðiều đó tệ hơn cà phê nhiều, vậy mà tôi vẫn sống sót đến năm mười lăm tuổi. Vì thế tôi tự nhủ chuyện cà phê này là bình thường, con bé biết nó muốn gì, và tôi cố giữ vẻ bình thản.

Con bé hẳn đã cho đến hai gói đường Sweet’n Low. Và tôi cá là vị cà phê vẫn không ngọt ngào bằng cô con gái bé bỏng của tôi. Nó vẫn đang mặc áo ngủ, chân đi dép dạng tất: loại tất len to có đế bằng da. Rand đã thức và đi ra ngoài - đến lúc toàn bộ sự việc khủng khiếp này kết thúc, tôi nghĩ anh chỉ có thể tập trung làm việc cho ra hồn khi mọi người xung quanh đều say giấc - còn con bé thì mới uể oải bước vào nhà bếp, uể oải băng qua căn phòng, uể oải đi đến những tách cà phê treo trên móc cạnh máy nướng bánh mì, và bắt đầu rót cho mình một tách.

Tôi nghĩ hẳn là mình đã nhìn chăm chú ghê lắm vì con bé dừng lại giữa chừng trong lúc rót cà phê rồi nhìn sang tôi.

“Con uống một tách được chứ ạ?” nó hỏi.

Và đó là khi câu hỏi thật sự kì lạ này hình thành trong đầu tôi, loại câu hỏi mà tôi có thể nghe mẹ tôi nói với mình: Con không nghĩ là con còn bé quá sao?

Vì vậy tôi chỉ gật đầu như thể, bạn biết đấy, không có gì nghiêm trọng. Và dù một mặt nó chẳng có gì nghiêm trọng - đó là cà phê, và con bé nhìn thấy bố mẹ nó nốc thứ ấy liền tù tì - nhưng mặt khác, việc này rất nghiêm trọng. Ðó là một bước tiến nữa cho cô con gái của chúng tôi.

Tôi muốn viết “cô con gái bé bỏng”. Nhưng nó đã không còn là một cô con gái bé bỏng trong nhiều năm rồi. Thậm chí có lẽ tôi không nên nghĩ đến nó như một cô bé nữa. Người đang mặc áo ngủ và dép tất này là một thiếu nữ. (Chúa ơi, chẳng phải hôm qua con bé gọi đó là “dép tất” sao? Có lẽ là không. Có lẽ từ nửa thập niên trước rồi.) Và tôi không chỉ muốn nói nó là thiếu nữ về mặt cơ thể, dù khi con bé mặc áo ngủ đứng đó, rõ ràng cơ thể nó đã thay đổi. Chiều cao. Hông. Ngực.

Tôi muốn nói con bé đã trở thành thiếu nữ về mặt tình cảm. Nó đã luôn chững chạc hơn so với tuổi, nhưng gần đây có những khoảnh khắc tôi cảm thấy nó đã hoàn toàn trưởng thành. Nó vẫn mang giọng điệu trẻ con mỗi khi nói chuyện điện thoại với Tom Corts, và nhìn từ xa nó vẫn trông khá trẻ con khi chải lông con ngựa nhà McKenna với Rollie. Nhưng cách con bé giải quyết những việc lớn hơn vào lúc này khiến tôi kinh ngạc. Ðó là khi trông nó có vẻ như một người trưởng thành nhỏ bé. Như khi nó đọc những bài báo đáng sợ vào sáng Chủ nhật. Nó quả thực đang phân tích chúng như những nhà bình luận tin tức sáng Chủ nhật trên truyền hình vậy.

Hoặc khi nó gặp luật sư của tôi tối hôm qua. Ðó là một ví dụ điển hình. Khi nó gặp Stephen. Nó đã rất ư khôn khéo, đảm bảo anh ấy có tất cả những gì anh cần, hỏi anh những câu hỏi rất hay, và kể những câu chuyện rất buồn cười.

Nó thậm chí còn hỏi anh ấy có muốn ở lại dùng bữa tối. Hệt như một nhà ngoại giao nhí. Hệt như một nhà ngoại giao trẻ tuổi. Không phải nhí. Trẻ tuổi. Và dù anh ấy không thể ở lại dùng bữa tối vào hôm qua, tôi có cảm tưởng anh sẽ ăn tối với chúng tôi vào những lần khác trong mùa xuân này. Connie sẽ phải gặp anh ấy nhiều lần nữa, và điều đó thật không hay chỉ vì việc anh ấy làm, không phải vì con người anh như thế nào.

Tôi biết Connie sợ. Tôi biết tôi sợ. Tôi không biết phải làm gì trong cả hai trường hợp của chúng tôi.

Ðây là điều tôi nghĩ tôi sẽ làm về chuyện cà phê. Con bé có thể uống cà phê vào buổi sáng trước khi đi học, nhưng không được uống sau bữa tối. Nếu nó muốn bắt đầu ngày mới với một tách cà phê, được thôi. Nhưng không một giọt trước giờ đi ngủ vì nó vẫn còn đang lớn, và nó thực sự cần phải ngủ. Chúng tôi sẽ giải quyết vụ cà phê như thế.

trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

KHI CHARLOTTE FUGETT BEDFORD CHẾT, các bà mụ khác rất lo sợ. Những bà mụ không chuyên, tức là những người không được đào tạo y khoa, những người đỡ đẻ tại nhà. Không phải những nữ hộ sinh: Họ làm việc với bác sĩ và đỡ đẻ trong bệnh viện, và không có lý do gì để hoảng sợ.

Nhưng những bà mụ không chuyên thì lo sợ - và thực tế chứng minh nỗi sợ của họ là đúng đắn - rằng cộng đồng y khoa sẽ dùng cái chết của người phụ nữ nọ như một bản cáo trạng lên án việc đẻ tại nhà nói chung. Tuy nhiên, khi mùa đông chậm rãi nhường chỗ cho mùa xuân, và mẹ tôi bị khởi tố bị can và bị đối xử như một tội phạm, khi các bà mụ biết điều kiện đặt ra để mẹ tôi được tại ngoại, thì nỗi sợ hãi của họ nhanh chóng biến thành giận dữ. Nói cho chính xác là phẫn nộ. Và dù những bà mụ mà tôi đã gặp trong đời có rất, rất nhiều thế mạnh, nhưng họ lại không có khả năng trò chuyện vô tư về việc so sánh đẻ ở nhà với đẻ trong bệnh viện, hoặc không sẵn lòng thảo luận việc thực hiện một ca đỡ đẻ của chính họ một cách hoàn toàn khách quan. Hơn nữa, nếu - như Tom Corts đã ví von - bác sĩ là bầy thú săn mồi như sói, thì bà mụ giống loài động vật bầy đàn như voi: Tấn công một con, những con còn lại sẽ lao vào con bị thương và làm mọi thứ có thể để bảo vệ nó.

Trong những tháng sau khi Charlotte Fugett Bedford chết, nhà chúng tôi thường xuyên có bà mụ đến thăm. Đôi khi họ đem theo thức ăn cứ như một người trong nhà chúng tôi mới qua đời, đôi khi họ đem theo hoa: Khi tháng năm đến, ngôi nhà thơm lừng mùi tử đinh hương; vào tháng sáu, phòng ăn và nhà bếp ngạt ngào hương hoa kim ngân và hoa thủy tiên ngọt lịm. Thỉnh thoảng họ đem theo tên các bà mụ trên khắp cả nước, những người từng trải qua - theo cách nói trại của các bà mụ để chỉ bất kì trường hợp tử vong, dị tật, hoặc dị dạng đáng sợ nào - “kết quả xấu”. Đôi lúc họ xuất hiện với tên luật sư của các bà mụ đó, một cử chỉ mà thoạt đầu tôi cho rằng sẽ khiến Stephen Hastings cảm thấy bị đe dọa. Tôi đã nhầm. Ông ta tỉnh như không.

Ngay từ đầu ông đã bảo mẹ tôi cho ông biết tên những bà mụ này và luật sư của họ để ông có thể thảo luận với họ về các vụ xét xử của họ và chiến thuật bào chữa của họ. Từ một luật sư ở Virginia, ông lấy được tên của một chuyên gia pháp y và người này cuối cùng đã cung khai đại diện cho mẹ tôi; từ một bà mụ ở Seattle, ông nghe được chuyện về một bà mụ ở California, bị xét xử vì hành nghề không giấy phép sau khi bà ấy bơm Pitocin và Ergotrate vào một thai phụ đang lâm bồn.

Những bà mụ ghé thăm chúng tôi đến từ khắp New England và Bắc New York, vài người đã đi một quãng đường rất xa khiến tôi phải ngạc nhiên, chỉ để có cơ hội gặp và động viên mẹ tôi. Khi một số bài báo về bà được gửi đi bằng đường điện tín, các bà mụ ở những nơi xa tít mù như Arkansas và New Mexico đã đọc về tình cảnh của bà, và mỗi bang có một người lặn lội đến Reddington để bày tỏ tình đoàn kết.

Những người phụ nữ này, dù đến từ một góc heo hút ở bắc New Hampshire hay khu thành thị ở Boston, dù biết mẹ tôi nhiều hay ít, đều là những người có cái ôm trìu mến. Họ không bao giờ bắt tay khi gặp bà, họ luôn ôm bà. Việc này cũng diễn ra với bố tôi nữa, nếu ông tình cờ có ở nhà, và với Stephen Hastings nếu ông tình cờ ghé qua. Họ cũng được ôm đáp trả. Hơn nữa, đó không phải là kiểu ôm ấp xã giao mà các mệnh phụ hoặc những cô gái trẻ mới vào đời hay làm ở những nhà hàng cao cấp hoặc những buổi khiêu vũ ở Manhattan, đó là những cái ôm vòng hai tay siết mạnh trong một thời gian rất dài. Đó là những kiểu chào không khách sáo bắt đầu bằng hai tay dang ra như đôi cánh, sau đó khép lại quanh người được ôm như một chiếc áo bó. Tôi ghét phải nghĩ đến những hư hỏng họ có thể gây ra cho quần áo của nhau nếu những bà mụ này hoặc mẹ tôi thuộc kiểu người thích trang điểm.

Các bà mụ ở Vermont, tất cả đều biết mẹ tôi, thì tập trung quanh bà như những mật vụ vây quanh một tổng thống mới bị bắn. Họ đem đến cho bà món thịt hầm và món kho; họ để lại trong nhà bếp chúng tôi những liễn khổng lồ nào xúp lạnh Tây Ban Nha, nào món sốt Địa Trung Hải, nào đậu Hà Lan và xúp cải bó xôi. Họ nướng những ổ bánh mì ngũ cốc và bánh xốp việt quất, bánh quy gừng và bánh xốp chocolate mềm tơi. Họ làm thơ tặng mẹ tôi. Họ viết những bài xã luận cho mục bình luận của các báo ở Vermont; họ viết thư cho các nhà lập pháp và luật sư bang. Họ tiến hành các buổi “tập huấn” để giải thích về sinh đẻ tại nhà ở các thư viện công cộng tại St. Johnsbury và Montpelier. Cheryl Visco và Donelle Dolino tổ chức một buổi bán chăn thủ công để gây quỹ trả lệ phí bào chữa cho mẹ tôi, còn Molly Thompson và Megan Blubaugh thì viết hàng trăm lá thư gây quỹ trên danh nghĩa của bà. Em gái và em rể của bà mụ Tracy Fitzpatrick có một nhà hàng chay ở Burlington, và cô ấy đã thuyết phục họ nấu một bữa tối gây quỹ đặc biệt, toàn bộ tiền thu được dành cho việc bào chữa cho mẹ tôi.

Vài bà mụ dành tặng những ca đẻ cho mẹ tôi, và tôi không tin có một đứa trẻ nào chào đời tại nhà ở Vermont trong sáu, bảy tháng sau đó lại không được chụp ảnh rồi đưa cho Sibyl xem như một cách động viên tinh thần: Đây, những bức ảnh chụp chân dung các bé trai và bé gái sinh ra trong phòng ngủ và phòng khách nói, chính là những gì mà cô đang bảo vệ. Đây là lý do cô phải chiến đấu. Tôi biết ít nhất ba cô gái sống ở Vermont ngày nay được đặt tên Sibyl, mỗi người là một đứa trẻ được sinh ra tại nhà vào mùa hè hoặc mùa thu năm 1981, tên của họ là một sự tôn kính có ý nghĩa không nhỏ dành cho mẹ tôi.

Và, đương nhiên, các bà mụ cũng giúp mẹ tôi bằng cách nhận những thai phụ của bà làm bệnh nhân, khi chính quyền bang yêu cầu bà dừng hành nghề, ít nhất là tạm thời, như một điều kiện để tại ngoại. Các bà mụ thường đến thăm khám thai tận nhà cho các thai phụ để giúp họ tiết kiệm gánh nặng di chuyển phát sinh sau cú sốc mất bà mụ của họ.

Tôi nghĩ phần lớn thời gian, bố tôi rất vui khi chứng kiến mẹ nhận được những sự ủng hộ này từ các bà mụ. Nó giúp giảm bớt áp lực lên ông. Đôi khi nó cũng động viên tinh thần ông. Và cả nhà chúng tôi quả thực đã ăn uống rất tử tế trong mùa xuân và mùa hè năm đó. Nhưng có những lúc bố tôi phát cáu, mệt mỏi khi ngôi nhà của ông đã trở thành quán cà phê cho một đám đàn bà tân thời mang dép xăng đan, cho những phụ nữ mặc váy hoa chéo nhiệt tình sung sức. Tôi nghĩ ông cảm thấy Cheryl Visco đặc biệt phiền phức.

Một ngày sau khi Charlotte chết, chính xác là không lâu sau khi bố mẹ tôi về nhà sau khi dành cả ngày thứ bảy với các luật sư và bác sĩ cấp cứu, bà ấy xuất hiện ở nhà chúng tôi với một chiếc phong bì hồ sơ dày nhàu nát chứa đầy thông tin pháp luật mà bà đã thu thập trong nhiều năm từ Liên minh Bà mụ Bắc Mỹ: tên của những bà mụ từng bị xét xử vì một lý do nào đó, kết quả các vụ xử. Những bản sao chất lượng kém của các bài báo cũ rích. Danh sách các công ty bảo hiểm. Các công ty luật.

Và trong những tuần ngay sau cái chết của Charlotte, khi ngày càng rõ rằng chính quyền bang đang thu thập chứng cứ để khởi tố một cách từ từ và bài bản, Cheryl ghé qua gần như mỗi ngày với lý do duy nhất là để ủng hộ tinh thần. Đôi khi bà đem theo một nhánh hoa, đôi khi đem theo một tấm thiệp mà bà nghĩ là hài hước. Đôi khi bà nói tên của quyển sách mà mẹ tôi nên đọc, đôi khi bà tự đem theo sách.

Khi đến muộn vào một buổi chiều trong tuần, bà thường ở lại để dùng bữa tối. Khi đến vào sáng cuối tuần, bà sẽ ở lại ăn trưa. Ngày thực sự đang trở nên dài hơn khi tháng ba chuyển thành tháng tư, nhưng - như bố tôi nói - khi Cheryl ở đấy, ngày dường như dài vô tận.

Cheryl có lẽ đã hơn năm mươi tuổi vào lúc đó, nhưng bà vẫn là một phụ nữ đẹp. Tóc bà đã bạc, và không như hầu hết những mái tóc bạc khác, trông nó vẫn dài lắm. Nó trông như tấm màn phủ xuống lưng bà, thường che lên một chiếc áo len màu đen ôm sát hoặc phần trên của một chiếc áo đầm đen tay dài nhưng vừa khít. Cheryl cao gần một mét tám, mảnh mai hơn hầu hết những cô gái bằng nửa tuổi bà, và là chủ đề của đủ mọi thể loại tin đồn và buôn chuyện: Bà có ba đứa con với ba người đàn ông khác nhau, và kết hôn với chỉ một người trong số đó. Trong khi một số người cho rằng các mối quan hệ của bà đổ vỡ vì những lý do làm cho các cuộc hôn nhân của nhiều bà mụ xấu đi - giờ giấc làm việc dài đến phát bực và một thời khóa biểu hoàn toàn ngoài dự đoán - những người khác lại quả quyết rằng sở dĩ Cheryl ba lần thất bại trong tình yêu là vì tính nết gàn dở và chân giá trị lỏng lẻo của bà. Người ta xì xầm rằng nếu bà đã có một ông chồng và hai bạn tình chính trong nhiều năm, thì ắt hẳn bà phải có những ba mươi tình nhân. Có thể là ba trăm cũng nên.

Bản thân tôi nghĩ điều khiến các cuộc hôn nhân của Cheryl tan vỡ chính là khả năng thần kì của bà khi nói chuyện nhiều giờ liền mà không cần nghỉ lấy hơi. Bà có thể kể cả một câu chuyện mà không cần hít vào, nhắc lại những câu chuyện phiếm dài dằng dặc chẳng dừng một chút. Điều đó làm bố tôi phát điên, cũng như nó có thể đã tống hầu hết những người đàn ông trong đời Cheryl đi. Theo kinh nghiệm của tôi, đàn ông không đặc biệt giỏi trong việc lắng nghe, và muốn ở cạnh Cheryl bất kể lâu mau đều đòi hỏi một sự kiên nhẫn, thụ động, và một sự quan tâm vô bờ bến đến cuộc đời của Cheryl Visco.

Đương nhiên, Cheryl rất quý mến mẹ tôi, và trong những tuần mẹ tôi vẫn còn bấn loạn vì cái chết ở Lawson, Cheryl là một người bạn hoàn hảo: hiện diện nhưng không đòi hỏi, sự bầu bạn không cần gắng sức. Mẹ tôi có thể chỉ ngồi im và lắng nghe, có thể gật đầu mỗi khi cảm thấy đồng tình.

“May rủi là từ kì lạ nhất trên thế giới, phải không?” Cheryl bắt đầu, nói chậm lúc đầu nhưng tăng tốc dần như một đứa trẻ vị thành niên béo phì trên ván trượt tuyết. “Một từ, sáu âm tiết. Nó là danh từ, nó cũng là động từ. Thay đổi một chữ cái thì nó trở thành tính từ. Và mọi điều về nó làm nhiều người sợ thất kinh hồn vía; họ phải cố gắng tránh nó bằng mọi giá. Đừng đi du lịch đến Trung Đông những ngày này - may rủi có thể xảy ra. Đừng dính líu đến anh chàng mới dọn đến Phố Creamery - tôi nghe nói người ta đã cạo ra hàng đống bùn từ sàn nhà anh ta sau khi li dị. Đừng đẻ con ở nhà - may rủi chẳng biết đâu mà lần. Đừng, đừng, đừng... Chà, bạn không thể sống cuộc đời mình như thế! Bạn không thể dành cả đời để lẩn tránh may rủi. Nó ở ngoài kia, nó không thể tránh khỏi, nó là một phần linh hồn của cuộc sống. Chẳng có gì là chắc chắn trong vũ trụ này cả, và thật là buồn cười khi cố gắng sống như thể sự chắn chắn có tồn tại! Chẳng có gì làm tôi phát điên hơn là khi người ta nói đẻ tại nhà thì may rủi hoặc thiếu trách nhiệm hoặc mạo hiểm. Chúa ơi, nếu thế thì đã sao nào? Mà dĩ nhiên, theo suy nghĩ của tôi, điều đó hoàn toàn không đúng. Đâu là cái giá của việc nỗ lực loại bỏ may rủi, hoặc cố gắng làm tăng cơ may? Một thế giới nhỏ bé tiệt trùng với những bóng đèn bệnh viện sáng choang ư? Một thế giới nơi những cái kẹp kéo thai nhi thay thế cho những ngón tay ư? Nơi phụ nữ được truyền dịch và gây tê màng cứng thay vì dùng thảo dược? Dĩ nhiên, chúng ta có thể giảm bớt nguy cơ, nhưng chúng ta cũng đã giảm bớt rất nhiều sự vuốt ve và yêu thương hay đơn giản là sự kết nối giữa con người. Chẳng có ai nói sống trên đời không phải là một việc khá may rủi, Sibyl nhỉ. Chẳng có ai thoát khỏi đây mà còn sống cả.”

Dù Cheryl sống ở Waterbury, cách chúng tôi một giờ đi xe, nhưng bà thỉnh thoảng lại nán lại đến mười hoặc mười một giờ tối. Có đêm khi tôi lên lầu để làm bài tập hoặc gọi điện cho bạn bè tầm tám giờ, tám rưỡi, tôi lại nghe bà đang giảng đạo cho bố mẹ tôi. Tôi sẽ nghe thấy bố chuồn nhanh sau đó, lê bước lên cầu thang viện cớ cảm thấy mệt. Sau đó, khi Cheryl cuối cùng đã về nhà và mẹ tôi uể oải đi lên lầu, tôi lại nghe tiếng bố càm ràm bực bội về khả năng phi thường của Cheryl khi có thể nán lại bất kể được hoan nghênh hay không. Có những đêm giọng ông chì chiết hơn những đêm khác; có những đêm giọng ông to hơn.

Vào những đêm yên tĩnh hơn, ông thường chỉ nhận xét, “Chị ấy không giữ nổi chồng vì không biết im miệng.” Nhưng khi ông thực sự nổi trận lôi đình hoặc khi ông đã uống thêm rượu trong bữa tối, tôi có thể nghe ông lên giọng khi nói, “Không có bà ấy cuộc sống chúng ta cũng đã đủ căng thẳng rồi! Lần tới bà ấy đến mà không chịu về thì hãy gọi điện cho tôi. Gọi cho tôi để tôi ngủ quách ở văn phòng cho rồi.”

Mẹ tôi sau đó sẽ đóng cửa phòng ngủ, và tôi im lặng chờ đợi tại bàn học, lắng nghe, tự hỏi tối nay cuộc cãi cọ sẽ bùng lên hay xẹp xuống.

Chúng tôi biết được điều gì đã xảy ra với Anne Austin, người học việc của mẹ tôi, vào tối thứ hai. Chúng tôi biết không phải vì cô ta tự gọi lại cho mẹ tôi, hoặc vì cô cuối cùng cũng trả lời điện thoại sau rất nhiều lần mẹ tôi gọi đến. Chúng tôi biết không phải vì cô xuất hiện ở cửa nhà chúng tôi sau khi Stephen Hastings và thợ chụp ảnh của ông ta ra về, hoặc vì chúng tôi chạm mặt cô trong lúc đi mua sắm ở siêu thị.

Chúng tôi biết vì B.P. Hewitt - Bác sĩ Brian Hewitt - gọi đến từ bệnh viện trong giờ ăn tối và nói ông ta muốn ghé qua sau khi hết ca trực. Bố mẹ tôi đồng ý, và phần lớn cuộc nói chuyện của chúng tôi khi dùng xong bữa tối xoay quanh lý do tại sao bác sĩ dự bị của mẹ lại muốn ghé nhà chúng tôi. Theo như tôi biết, ông ta chỉ mới đến đây một lần, và đó là ba năm trước khi một nửa dân số của hạt tập trung tại sân nhà chúng tôi để dự buổi tiệc “tốt nghiệp” mà mẹ tổ chức cho Heather Reed, người đã theo học việc mẹ tôi ít nhất năm năm và sắp sửa bước vào sự nghiệp bà mụ của riêng mình.

“Ông ta biết được bao nhiêu?” bố tôi hỏi, dùng nĩa tách vỏ một quả khoai tây đút lò trên đĩa của ông.

“Về Charlotte à?” mẹ tôi hỏi.

“Ừ,” bố đáp, sau khi hít vào thật sâu và chậm để khỏi trả miếng bà. Nhưng âm thanh hơi thở đó lầm bầm rõ câu, Dĩ nhiên. Ông ta còn có thể biết được cái quái gì khác chứ?

“Em kể với ông ấy những gì em nhớ. Em kể những điểm cơ bản.”

“Em nói chuyện với ông ta khi nào? Là thứ bảy hay Chủ nhật? Hay là hôm nay?”

“Thật ra là từ hôm thứ sáu. Sáng thứ sáu. Em gọi cho ông ấy từ bệnh viện trước khi về nhà. Tại sao? Anh nghĩ em gọi cho ông ấy thì có vấn đề gì không?”

“Có thể. Anh không biết. Anh chỉ đang thắc mắc liệu ông ta nghe câu chuyện đầu tiên từ em, hay từ... từ lão già dở hơi em gặp ở phòng cấp cứu với đứa bé. Cái lão nói toàn những chuyện nhảm nhí với báo chí ấy. Dumond. Bác sĩ Dumond.” Bố nói chữ bác sĩnhư thể nghĩ rằng lão đã lấy bằng y khoa qua đường bưu điện, như thể ông đã tìm thấy trường học bên trong một bao que diêm.

“Ông ta nghe chuyện từ em.” Rõ ràng, nhưng thủ thế. Một giọng điệu xuất hiện ngày càng nhiều trong lời nói của mẹ tôi năm đó. Và dù giọng điệu đó là đáng thông cảm, nhưng sự kết hợp giữa thái độ chắc chắn tuyệt đối với sự ương bướng chính đáng khiến nó nghe khá giống một tiếng rên, và tôi tin đôi khi nó chẳng có ích gì cho bà.

Tôi biết tên của bác sĩ Hewitt là Brian, nhưng tôi chưa bao giờ nghe người ta nhắc đến ông với cái tên nào khác ngoài B.P. Dù lớn hơn bố mẹ tôi mười mấy tuổi, ông vẫn mang biệt danh được gán cho từ thời còn học trường y: B.P., một điều tất yếu cho người hi vọng trở thành bác sĩ, vì những chữ cái đầu tên và tên đệm của ông là viết tắt của từ huyết áp[13]. Mái tóc ông - màu lông lạc đà - lúc nào cũng lòa xòa trước trán và phủ trên vành tai, và tôi không nhớ từng nhìn thấy dù chỉ một nếp nhăn trên mặt ông. Ông có bốn đứa con trai, hai đứa trạc tuổi tôi, vì thế không có gì lạ khi tôi thường gặp ông trong thị trấn: Trong tâm trí tôi, tôi vẫn có thể nhìn thấy mái tóc ông thò ra dưới chiếc mũ bóng chày, mũ bảo hiểm, và chiếc mũ rơm ông đội vào một mùa hè khi đến một hội chợ của hạt ở Orleans. Tôi luôn cảm thấy ông đúng là kiểu bác sĩ chuyên đỡ đẻ em bé.

B.P. đỡ đẻ cho bệnh nhân của ông tại bệnh viện, đương nhiên, và ông nói trước tòa rằng ông tin bệnh viện là nơi an toàn nhất để những đứa trẻ chào đời. Nhưng ông cũng nói ông hiểu rằng một số phụ nữ sẽ đẻ con tại nhà bất kể ông nghĩ gì, và ông rất sẵn lòng hỗ trợ cho “kiểu bà mụ đàng hoàng.”

Rõ ràng mẹ tôi là kiểu bà mụ đàng hoàng. Là bác sĩ dự bị của mẹ tôi, B.P. chấp nhận sẵn sàng đến bệnh viện khi mẹ tôi chuyển bệnh nhân của bà đến đấy. Vì mẹ tôi chỉ đưa các thai phụ đến bệnh viện khi lo sợ có biến chứng - một khó khăn lớn dần, chẳng hạn như một cơn chuyển dạ không có tiến triển, hoặc sự rối loạn đột ngột và căng thẳng của hiện tượng suy thai - điều này có nghĩa là đa phần những lần B.P. gặp mẹ tôi ở đó, ông đều chuẩn bị tinh thần cho một ca mổ đẻ.

Trong vòng chín năm B.P. hỗ trợ mẹ tôi, dữ liệu cho thấy bà đã chuyển bệnh nhân đến bệnh viện hai mươi tám lần. Trong số hai mươi tám lần chuyển viện đó - một con số nhỏ, đúng, nhưng dĩ nhiên ẩn sau sự bất thường của những con số đó là nỗi khiếp sợ và thất vọng của hai mươi tám người phụ nữ bị đưa đi bằng xe cấp cứu hoặc xe ô tô từ hơi ấm căn nhà họ đến những phòng ốc xa lạ ở bệnh viện, lo lắng với từng phút giây (hoặc khoảng dừng) trong tử cung của họ rằng đứa bé sắp chết - B.P. đã có mặt trong hai mươi sáu lần. Và trong số hai mươi sáu ngày hoặc đêm đó, khi ông gặp mẹ tôi ở bệnh viện, có hai mươi bốn trường hợp ông đưa thai phụ đang chuyển dạ - thông thường là im lặng trong sợ hãi, dù không bao giờ, không bao giờ chết lặng - vào phòng mổ và phẫu thuật lấy đứa bé ra.

Tất cả các em bé đều khỏe, trừ một trường hợp. Một đứa bé sinh non. Sinh ra đã chết.

Chưa có trường hợp nào người mẹ tử vong.

Và trong trường hợp đứa trẻ sinh ra đã chết, B.P. và chuyên gia pháp y chắc chắn rằng đứa bé - một bé trai mà bố mẹ nó định đặt tên là Russell Bret - cũng sẽ chết dù cho mẹ nó có đẻ trong bệnh viện đi chăng nữa. Nếu ai đó tin rằng bố mẹ Russell Bret đã phạm sai lầm khi cố gắng đẻ con ở nhà, thì tôi cũng không tin có ai nói ra điều đó. Ít nhất là nói một cách công khai. Và không một ai, theo như tôi biết, nói bóng gió rằng mẹ tôi phải là người chịu trách nhiệm.

Khi B.P. đến nhà chúng tôi vào tối thứ hai đó, trông ông có vẻ mệt mỏi và lo lắng. Tôi lập tức choáng váng khi nhận ra đây không phải là ông bố vô tư lự mà tôi đã từng thấy ở khán đài sân vận động trường học, xem con trai giữ chốt hai trong trận bóng chày, hoặc ông bố thanh thản đạp xe cùng các con trai trên Phố Hallock. Ông mỉm cười với tôi khi bố tôi dẫn ông vào phòng khách, nhưng đó là kiểu cười chẳng có lấy một chút thần sắc, là điềm báo cho một tin cực kì xấu. Tôi luôn hình dung rằng - cùng với bác sĩ - kế toán, thợ cơ khí, và luật sư chuyên kháng án tử hình là những người thường xuyên cần đến nụ cười đó.

Trong lúc ông ta nói với bố mẹ lý do ghé qua, tôi dọn dẹp nhà bếp. Tôi cẩn thận tạo ra vừa đủ tiếng động để bố mẹ tin rằng tôi đang tập trung vào bát đĩa, nhưng không quá ồn để tôi vẫn nghe được phần lớn những gì người lớn đang nói.

“Cô ấy gọi khoảng một giờ sau khi cô gọi, Sibyl ạ. Có lẽ là bốn mươi lăm phút sau,” B.P. nói với họ.

“Sáng thứ sáu à?” mẹ tôi hỏi.

“Ừ. Sáng thứ sáu.”

“Cô ấy lo lắng đến thế sao?”

“Rõ ràng là thế.”

“Sao cô ấy không gọi cho tôi?”

“Cô ấy không gọi à?”

“Không.”

“Hai người chưa nói chuyện với nhau từ... từ sau ca đẻ ư?”

“Sibyl đã cố gắng liên lạc với cô ta trong ba ngày,” bố tôi nói. “Trong ba ngày qua, Sibyl có lẽ đã để lại năm, sáu tin nhắn trên máy trả lời của cô ta.”

Tôi vặn nhỏ vòi để nước chảy nhỏ giọt rồi lau khô tay bằng chiếc khăn lau bát treo cạnh bồn rửa. Tôi bắt đầu cảm thấy chóng mặt, như vừa đứng dậy đột ngột sau khi quỳ gối một lúc lâu. Tôi nhận ra họ đang nói về Anne, người học việc mới của mẹ. Người đã có mặt cùng mẹ tại - theo cách nói của B.P. về sự kiện này - ca đẻ.

Tôi đưa tay chạm mép quầy bếp và chồm người về trước, cố gắng nhấc bớt trọng lượng khỏi chân.

“Hai người chưa nói chuyện với nhau, hai người chưa gặp nhau?” Giọng nói của bác sĩ lại vang lên. Trong giọng nói có gì đó như ngạc nhiên, có gì đó như lo lắng. Lo lắng cho mẹ tôi.

“Chưa,” mẹ tôi đáp. “Không một lời.”

“Tôi đã bảo cô ấy gọi cho cô. Nói chuyện với cô,” B.P. nói tiếp.

“Cô ấy đã không làm thế.”

“Cô ta còn ở Vermont không?” bố tôi hỏi.

“Tôi tin là thế.”

“Vậy thì tôi sẽ gặp cô ấy vào ngày mai,” mẹ tôi nói với B.P. “Tôi có hẹn khám thai cả buổi chiều, và Anne sẽ phụ giúp tôi. Khi đó chúng tôi có thể nói về toàn bộ chuyện này.”

“Ồ, tôi không nghĩ vậy đâu, Sibyl ạ,” B.P. chậm rãi nói, và tôi nghĩ lý do khiến ông bắt đầu nói chậm lại là vì ông muốn có thêm thời gian tìm từ thích hợp cho điều mà ông sắp nói ra. “Nếu Anne chưa gọi cho cô, thì tôi không nghĩ cô ấy sẽ đến vào ngày mai.”

“Chính xác thì Anne đã nói gì với ông?” Bố tôi nghi ngờ.

“Trước tiên hãy cho tôi biết điều này đã. Nếu cô không phiền. Cô biết về Anne đến mức nào?” bác sĩ hỏi, và tôi có thể đoán rằng ông ta đang hướng câu hỏi về phía mẹ tôi.

“Tôi tin rằng mình biết rõ cô ấy.”

“Nhưng cô ấy học việc với cô chưa được bao lâu.”

“Không, không lâu lắm.”

“Khoảng sáu tháng?”

“Không lâu như thế. Ba. Có thể bốn. Chúng tôi bắt đầu hợp tác từ tháng mười hai.”

“Ông đang đánh trống lảng, B.P. ạ, ông đang tránh né vấn đề. Cô gái đó đã nói gì với ông?” bố tôi hỏi một lần nữa, sự kiên nhẫn của ông đang rơi rụng.

B.P. thở dài. Cuối cùng: “Khi cô thực hiện vết rạch trên người bà Bedford để cứu đứa bé, cô ấy nói cô ấy nhìn thấy máu bắn ra. Vài lần. Cô ấy nghĩ rằng bà ta còn sống.”

Có những cách nói để thể hiện sự im lặng; có những lời nói quen thuộc. Có những câu chữ và tình cảm như thơ. Một sự im lặng sâu tựa cái chết, một sự im lặng sâu tựa vĩnh cửu. Im lặng như tờ, sự im lặng uyên thâm và hữu hiệu. Sự im lặng của những không gian vô tận, sự im lặng nằm dưới những suy nghĩ dịch chuyển.

Sau khi B.P. nói, có phải phòng khách đã trở nên im lặng đến nỗi chúng tôi có thể nghe được tiếng động khẽ nhất? Các căn phòng thường tĩnh lặng như thế, và sàn phòng khách đó lót gỗ cứng sơn màu xám. Chúng tôi có thể nghe được những tiếng động khẽ nhất trong căn phòng đó trong hầu hết ngày đêm. Không, sự tĩnh lặng xâm chiếm ba người lớn và tôi, sự tĩnh lặng bao trùm lên căn nhà chúng tôi rất khác với sự im lặng. Nó không phải là sự im lặng của ý nghĩ, sự lặng lẽ của thiền định. Nó không phải là sự im lặng bắt nguồn từ sự tĩnh mịch, sự lặng thầm nảy nở quanh những tâm hồn thanh thản.

Đó là trạng thái tĩnh lặng của sự chờ đợi. Của sự chuẩn bị. Của sự kì vọng nhuốm mùi - không, không phải nhuốm mùi, mà bị bao trùm - bị bao trùm bởi sự u ám.

Chúng tôi đã bất động trong bao lâu - những người lớn trong phòng, tôi trong nhà bếp - có lẽ trong thực tế rất khác với những gì tôi cảm thấy lúc này trong kí ức. Tôi nhớ sự tĩnh lặng kéo dài rất lâu; tôi nhớ mình chống tay lên bồn rửa trong một khoảng thời gian rất dài. Nhưng tôi chóng mặt quá, sợ rằng mình đã bị ốm, và trong thực tế sự tĩnh lặng có lẽ chỉ diễn ra vài giây. Một khoảng dừng trong cuộc trò chuyện - dù mọi người có mặt trong cuộc trò chuyện đó đều hiểu rằng hiện thực của chúng tôi đã bị tin tức của B.P. làm thay đổi, rằng cuộc đời chúng tôi trước và sau lời nói của ông ta sẽ rất khác nhau - nhưng dù sao vẫn chỉ là một khoảng dừng đơn giản.

Và rồi nó vỡ vụn. Sự tĩnh lặng do lời nói đem lại đã bị lời nói phá vỡ.

“Nếu ông muốn,” mẹ tôi nói, “tôi sẽ nói chuyện với Anne vào ngày mai và chấm dứt chuyện này.”

“Cô ta sẽ không đến đây vào ngày mai, Sibyl ạ, tôi đảm bảo với cô như thế.”

“Sao ông chắc chắn như vậy? Cô ấy có nói gì khiến ông tin như thế không?”

“Cô ấy đâu cần nói. Nhưng mọi việc đã rõ ràng. Rõ ràng từ thực tế là cô ấy đã không liên lạc với cô kể từ... kể từ khi người phụ nữ ấy qua đời. Cô ấy đang lảng tránh cô.”

“Lảng tránh tôi.” Một câu khẳng định hơn là một câu hỏi. Mẹ tôi nghe có vẻ ngờ vực hơn là lo lắng.

“Lảng tránh cô. Đúng thế.”

Tôi hít vào vài hơi sâu để cố gắng trấn tĩnh mình, để làm yên cái dạ dày. Nhưng hai đầu gối tôi đang hối thúc và vì thế tôi bỏ cuộc, tôi để cho cơ thể mình trượt xuống sàn nhà bếp. Tôi ngã từ từ, như đang lặng lẽ chìm dần xuống nước, lưng tôi trượt trên chiếc tủ dưới bồn rửa và tôi quỵ xuống.

“Ông đã nói gì với Anne khi cô ta gọi?” tôi nghe bố hỏi, và trong một khoảnh khắc những giọng nói nghe như ở xa vời vợi đến nỗi tôi sợ mình sẽ ngất đi, nhưng khoảnh khắc ấy trôi qua.

“Tôi bảo tôi nghi ngờ điều cô ấy nói là thật. Tôi bảo tôi đã nói chuyện với cô và Andre, và tôi có cảm giác rằng cô ấy đã nhìn thấy quá nhiều máu và có thể nó rất đáng sợ. Nhưng cô ấy đã không nhìn thấy cô rạch một người sống. Việc đó thật là không thể, căn cứ vào người như cô.”

“Người như tôi,” mẹ tôi lẩm bẩm. Một lời lặp lại.

“Đúng. Một bà mụ giàu kinh nghiệm. Một người được đào tạo kĩ năng cấp cứu xuất sắc.”

“Sau đó thì sao?” Bố tôi lại hỏi.

“Cô ấy có vẻ hiểu ra, và tôi hi vọng như vậy là kết thúc chuyện này. Tôi đề nghị cô ấy gọi cho cô để giải tỏa hết những lo lắng trong lòng. Công khai giải quyết hết những khúc mắc giữa hai người.”

“Nhưng cô ấy không hề gọi điện cho tôi,” mẹ tôi nói, và trong giọng nói của bà tôi nghe thấy sự tổn thương lẫn nỗi sợ hãi.

“Rõ ràng là không. Nhưng rồi trong ngày hôm đó, cô ấy có gọi cho Mục sư Bedford.”

“Cô ấy gọi cho Asa?”

“Và rồi cô ấy gọi cho văn phòng luật sư bang.”

“Và cô ta bảo với họ cô ta nghĩ rằng người phụ nữ này còn sống khi Sibyl mổ đẻ?” bố tôi hỏi.

“Có vẻ là thế. Điều mà cô ấy có thể đã nói với luật sư bang - và đây là lý do tôi muốn ghé qua tối nay - chính là cô ấy và Asa đều nhìn thấy máu bắn ra khi cô thực hiện nhát rạch. Theo quan điểm của cô ấy, tim vẫn còn đập khi cô bắt đầu phẫu thuật.”

“Vậy tại sao cô ấy không nói gì?” mẹ tôi nói, lần đầu tiên to tiếng trong buổi tối hôm đó. “Không, cô ấy biết Charlotte đã chết - và Asa cũng biết!”

Mẹ tôi không phát rồ, nhưng giọng điệu của bà cho thấy bà hiểu rất rõ rằng sự nhìn nhận của Mục sư Asa về bi kịch này tác động đến mọi thứ. Bố tôi, có thể có lý do nào đó, lo sợ rằng chỉ thêm một tiết lộ nữa sẽ khiến bà hóa điên, nhanh chóng hỏi, “B.P., tại sao ông đến đây tối nay? Vào lúc này? Có chuyện gì xảy ra hôm nay à?”

“Tôi bị phỏng vấn. Tôi nghĩ đó là từ đúng. Phỏng vấn. Tôi đã bị vài cảnh sát phỏng vấn hôm nay. Và dựa trên câu hỏi của họ, tôi có ấn tượng rằng mọi người - luật sư bang, chuyên gia pháp y, mục sư - tin rằng có người mới chết vì một bà mụ tiến hành một ca mổ đẻ trong phòng ngủ trên một người sống.”

...

Tối hôm đó, mẹ gõ cửa phòng tôi và hỏi tôi còn thức không. Có lẽ bà biết tôi còn thức vì bà có thể nhìn thấy ánh đèn dưới khe cửa, mà tôi thì không thuộc kiểu người ngủ quên lúc đọc sách. Qua tấm van trên sàn tôi nghe tiếng bố ở dưới lầu, cho khúc củi cuối cùng trong đêm vào lò sưởi.

“Mẹ vào đi,” tôi nói, lăn qua giường để nhìn ra phía cửa, ném quyển tạp chí đang đọc lên tủ đầu giường.

Tôi ngạc nhiên khi thấy mẹ chưa chuẩn bị đi ngủ. B.P. đã ra về nhiều giờ trước; lúc này đã gần nửa đêm. Nhưng mẹ vẫn mặc chiếc váy bohemian lòe xòe, và kẹp tóc. Bà khập khiễng đi vào phòng rồi ngồi lên mép giường. Ngoài cửa sổ phòng tôi, mặt trăng rất to, một hình bầu dục chỉ thiếu chút bạc nữa là tròn vành vạnh.

“Con thức khuya quá,” bà nói.

“Tại cà phê đấy,” tôi trả lời, trêu mẹ. Tôi đã thấy bà quan sát tôi hết sức tỉ mỉ vào buổi sáng hôm đó khi tôi quyết định thử một trong những giới hạn của mình. Đó là một sự khám phá hoàn toàn ngẫu hứng, tuyệt đối không tính trước. Tôi chỉ đơn giản nhìn thấy Ngài Cà phê, và hai tay tôi làm những việc còn lại.

Bà cầm quyển tạp chí lên, loại tạp chí dành cho phụ nữ tuổi đôi mươi, rồi lật qua các trang. Số báo đó đăng những bài viết về kiểu quần siêu ngắn mùa hè, những lập luận ủng hộ và phản đối các tiệm làm nâu da, và một phụ bản đặc biệt về ngừa thai. Không có người phụ nữ nào ở Vermont có thân hình hoàn hảo như cô nàng tóc vàng Texas trên trang bìa, và không cô gái nào có mái tóc to như thế.

“Trong này có gì hay không?”

Mẹ biết chính xác tôi thấy những phần nào trong quyển tạp chí này hay ho.

“Có mấy chiếc quần sooc con thích trên trang 186,” tôi đáp, không hẳn là bịa, nhưng cũng không hẳn là thật.

Bà gật đầu và mỉm cười. “Con mặc vào trông sẽ đẹp đấy.”

“Vâng, nhưng chúng có vẻ du thuyền,” tôi nói, bịa ra một từ khi tôi không thể tìm thấy từ thích hợp. “Con nghĩ phải sống trên đại dương thì mặc mới hợp.”

“Có thể.”

“Hoặc làm bồ nhí của một công tử nhà giàu nào đó,” tôi nói thêm, một kiểu nói đùa giữa hai chúng tôi. Mỗi khi nhìn thấy một cô gái ở Vermont ăn mặc thiếu thẩm mỹ và quá lòe loẹt so với tiểu bang nhỏ bé của chúng tôi, thì người này lại thì thầm với người kia, “Kia kìa - bồ nhí của công tử nhà giàu đấy,” kéo dài chữ giàu cho đến khi nó nghe như hai âm tiết: già-uuuuuuu.

“Ô, hay đấy, có một bài viết về cách chọn tiệm làm nâu da phù hợp. Cái này sẽ rất, rất có ích đây,” mẹ tôi nói.

“Bây giờ đã có một tiệm ở Burlington rồi đấy, mẹ biết không.”

“Không, mẹ không biết.”

“Ừm.”

“Cái xứ đồi núi này ngày càng tân thời nhỉ.”

“Con xem quảng cáo là chính. Để xem có gì hay ho ấy mà.”

Bà đọc lướt qua những dòng tiêu đề và chú thích trong mục ngừa thai. “Con và Tom thế nào rồi?”

“Ổn ạ.”

“Không cảm thấy lạ khi không đi nhảy với cậu ấy tối thứ sáu à?”

“Lạ?”

“Con có nhớ cậu ấy không?”

“Bọn con nói chuyện điện thoại rồi. Và anh ấy có ghé qua chiều thứ bảy, mẹ biết đấy.”

“Mẹ biết. Nhưng mẹ cá là như thế không giống như đi chơi với cậu ấy ở sàn nhảy.”

“Không. Không hẳn.”

Bà lại nhìn xuống quyển tạp chí, và khi dán mắt vào mục nói về màng chắn thai, bà nói, “Đừng bao giờ quên. Khi con nghĩ đã đến lúc, con phải nói với mẹ. Chúng ta sẽ đi thẳng đến bệnh viện.” Bệnh viện là cách nói vắn tắt của chúng tôi để chỉ Trung tâm Kế hoạch hóa gia đình.

“Con sẽ nói.”

“Hứa chứ?”

Tôi trợn tròn mắt. “Mẹ à!”

Bà trợn tròn mắt và ngả đầu ra sau như đóng kịch để trả lời.

“Hứa chứ?” bà hỏi lại, nhắc đến lời tuyên thệ bà đã bắt tôi thực hiện khi tôi mười ba tuổi là nếu tôi nghĩ có khả năng nhỏ nhất rằng tôi sẽ quan hệ tình dục trong tương lai mà tôi biết trước - ngay cả khi khả năng đó hiếm hoi cũng như bị sét đánh trúng vào cuối tháng mười hai - tôi sẽ nói với bà, và chúng tôi sẽ đi đến Trung tâm Kế hoạch hóa gia đình để chọn một chiếc màng tránh thai vừa vặn với tôi. Ngoài bán ma túy cho bạn cùng trường và bắn thầy giáo, tôi nghĩ điều duy nhất Tom và tôi có thể làm trong năm đó để khiến mẹ tôi thất vọng và buồn lòng chính là làm trò nhặng xị cùng nhau dẫn đến kết cục mang thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên.

Khi tôi kể với vài đứa bạn về lời hứa này, những đứa con gái như Rollie và Sadie, chúng kết luận rằng không có bà mẹ nào trên hành tinh này tuyệt vời bằng mẹ tôi. Đa số các bà mẹ vào lúc đó thậm chí còn không nói đến từ màng tránh thai với những cô con gái mười ba tuổi của họ, đừng nói gì đến việc chở chúng đến bệnh viện để mua một chiếc. Trong mắt bạn bè tôi, những lợi ích tinh thần khi có một bà mẹ làm bà mụ lớn hơn đáng kể so với những bất lợi do các cơn chuyển dạ kéo dài hoặc các ca đẻ giữa đêm đem lại.

“Con hứa,” tôi nói.

“Cám ơn con.” Bà cuộn quyển tạp chí thành ống và giữ nó nghiêm trang trên đùi như thể đó là bằng tốt nghiệp.

“Không có chi. Mắt cá chân của mẹ thế nào rồi?”

“Ổn rồi.” Bà nhún vai. “Thuốc giảm đau.”

“Chúng có tác dụng ạ?”

“Còn phải hỏi.”

“Bác sĩ Hewitt muốn gì?”

“Con không nghe thấy à?”

“Con đâu có nghe được hết.”

“Ông ta là một người bạn tốt,” bà nói như vậy thay vì trả lời câu hỏi của tôi. Tôi không nghĩ đó là một sự lảng tránh cố ý, nhưng bà nhanh chóng nói tiếp, “Mẹ nghĩ ngày mai mẹ sẽ khám bệnh một mình.”

“Anne cũng chẳng làm được gì nhiều, phải không?”

“Cô ấy đã làm tròn bổn phận rồi. Cô ấy đang học hỏi.”

“Nghe như cô ấy còn phải học nhiều.”

Mẹ nhìn tôi một lúc lâu, và tôi cố hết sức để giữ cho mắt mình nhìn vào mắt mẹ. Tôi nghĩ bà nhận ra vào giây phút đó rằng tôi hiểu biết nhiều thế nào: bà rất cần chia sẻ với tôi, nhưng bà đã không làm thế. Bà không chớp mắt, và nếu lũ ruồi trong những bức tường nhà chúng tôi không nhặng xị vào lúc đó, chúng sẽ thấy đầu mẹ tôi chỉ gật một cái thật khẽ. Đúng, cái gật đầu đồng ý, bà hiểu.

Ở dưới lầu, bố đang châm thêm nước vào ấm đun trên lò sưởi, tựa chiếc nắp sắt lên quai ấm bằng đồng. Tôi biết rõ tiếng lanh canh nó tạo ra. Một giây sau mẹ và tôi đều nghe thấy tiếng xèo xèo từ những giọt nước tràn xuống quanh thân ấm lên mặt đá cẩm thạch của lò sưởi, đủ nóng để biến nước thành hơi ngay tức khắc. Sau đó ông kéo sợi xích của chiếc đèn đọc sách bên ghế sofa, và tôi biết ông chuẩn bị lên lầu.

Cuối cùng tôi nhìn xuống mép chiếc chăn chần bông của mình, không thể nhìn vào mắt mẹ lâu hơn được nữa.

“Ngủ ngon nhé, con yêu,” bà nói. “Chúc con có những giấc mơ đẹp.”

“Chúc mẹ cũng ngủ ngon nhé,” tôi đáp, và ở đâu đó sâu trong lòng bà đã tìm thấy sức mạnh để lẩm bẩm câu trả lời không thật lòng cho lời chúc đó.