- 11 -
25.000 USD. Một số hai, một số năm và ba số không - năm số không nếu bạn dùng dấu chấm thập phân. Không ít hơn số tiền mua cả căn nhà này vài năm trước là bao. Chi phí cho hai năm cao đẳng của Connie. Chi phí cho toàn bộ học vấn cao đẳng của con tôi, có thay đổi, nếu con bé quyết định muốn học ở Ðại học Vermont.
Cho đến hôm nay, Rand và tôi chưa bao giờ viết một tấm séc nào trị giá lớn như thế. Về mặt kĩ thuật mà nói, tôi đoán là tôi vẫn chưa viết. Chính Rand mới thật sự là người tìm một cây bút trong ngăn kéo nhà bếp và viết ra những từ “Hai mươi lăm nghìn đô la” trên dòng kẻ của tấm séc, ngay bên dưới “Trả theo lệnh của”. Sau đó anh viết nguệch ngoạc con số hai và năm và tất cả những con số không đó.
Và 25.000 USD đó chỉ mới là khởi đầu. “Nút vặn để khởi động đồng hồ,” Stephen Hastings nói. “Số tiền để cho vào đồng hồ thu cước đỗ xe.” Và bây giờ chiếc đồng hồ thu cước đang chạy.
Thoạt đầu tôi rất phiền não với số tiền này, và tôi đã ước gì chúng tôi đủ điều kiện để có một luật sư bào chữa công, nhưng chúng tôi không đủ. Tôi cứ nghe thấy những lời này trong đầu, câu nói này: “Trời ơi, như thế bằng với rất nhiều bánh mì.” Ðó là cách chúng tôi thường nói: “Rất nhiều bánh mì.” Cần sa có thể bằng với rất nhiều bánh mì, hoặc một chiếc xe - dùng rồi hoặc móp méo hoặc nát bét vì một loại sơn kẻ đường màu cam xấu xí mà ai đó nghĩ là tạo ra ảo giác - hoặc một cặp loa âm thanh nổi.
Tôi nói với Rand số tiền đó là quá nhiều, đặc biệt vì chúng tôi sẽ còn cần nhiều hơn nữa nếu sự việc này kéo dài. Nó gần như là tiền tiết kiệm của cả đời chúng tôi, gần như là toàn bộ số tiền chúng tôi đã chắt mót trong hơn một thập niên qua để lo học phí cao đẳng cho Connie hoặc tiền về hưu của chúng tôi, hoặc cả hai.
Vả lại, tôi đã không làm gì sai. Vì thế tôi nói với Rand có thể chúng tôi không cần phải có luật sư giỏi nhất mà chúng tôi có thể tìm được, hoặc luật sư giỏi nhất mà tiền có thể mua được. Ðâu phải tôi bị bắt khi đang cướp nhà băng với một khẩu súng máy.
Nhưng Rand không đồng ý, và nói rằng không cần biết tôi có làm gì sai hay không, đó không phải là vấn đề. Vấn đề là một người phụ nữ đã chết khi làm một việc mà tất cả chúng tôi đều biết là chính quyền bang rất ghét, và việc đó chính là đẻ con tại nhà. Vì thế một người nào đó phải chịu trách nhiệm.
Thời trước, dĩ nhiên anh sẽ gọi chính quyền là “tổ chức”.
Trong tâm trí tôi, tôi có thể nhìn thấy Rand lắc đầu và tôi có thể nghe anh nói, “Trời ơi, sẽ tốn rất nhiều bánh mì để đấu với tổ chức, nhưng chúng ta vẫn phải trả đủ.” Anh không nói ra điều đó, đương nhiên. Anh sẽ không nói ra, không phải trong những ngày này.
Ðiều anh đã nói là, “Chúng ta muốn người giỏi nhất, và rõ ràng đó chính là Stephen Hastings. Chúng ta không nên ngạc nhiên khi anh ta tính phí cao nhất.”
Có lẽ Rand đúng. Nhưng nếu xét tôi là ai và làm gì, thì Stephen Hastings là một sự lựa chọn rất trớ trêu. Trong thế giới của pháp luật, Stephen đắt giá phải nói: Anh ta trau chuốt, công nghệ cao và rất, rất sành điệu. Trong khi đó, trong thế giới của những đứa trẻ, tôi lại rẻ như bèo, một khoản rất nhỏ so với chi phí cho một bác sĩ sản phụ khoa. Và tôi cố hết sức để không trau chuốt, công nghệ thấp và... đời thường.
Và nghe có vẻ như Stephen đã đến Việt Nam, dựa trên một số chuyện anh ta nói với Connie. Tôi thấy chuyện đó cũng rất kì quặc. Hãy tưởng tượng thế này: Ðó là một ngày cách đây mười bốn năm. Ở một bên của hành tinh, tôi đang ở Plattsburgh, mặc chiếc áo phông có dòng chữ “Hãy hút cần sa, đừng ném bom”, cài hoa cúc lên khắp hàng rào thép gai ở căn cứ không quân và trong họng súng của những người lính không ngừng bảo chúng tôi phải dừng lại. Ðâu đó phía bên kia hành tinh đang là buổi tối, và anh chàng đến từ Vermont có tên là Stephen Hastings này ở đấy, đang lội trong đầm lầy hoặc ruộng lúa ngập đến hông. Và giờ đây anh chàng đó sẽ bào chữa cho tôi.
Tôi thực lòng tin rằng việc này sẽ kết thúc tốt đẹp, ít nhất một phần bởi vì Stephen có vẻ là một luật sư rất giỏi. Nhưng cũng còn vì tôi đã cố gắng làm điều đúng đắn khi quyết định cứu Veil.
Stephen dường như hiểu được điều đó. Anh ấy có thể là kiểu người trau chuốt và sành điệu, nhưng tôi có thể mường tượng cảnh mình đỡ đẻ cho vợ hoặc bạn gái anh ở nhà họ một ngày nào đó. Có thể Stephen sẽ là ông bố luật sư đầu tiên của tôi. Như thế sẽ thật tuyệt.
Tôi biết anh chưa có con, và tôi biết anh không còn là trai có vợ nữa. Tôi tự hỏi liệu anh có bạn gái ở Burlington hay không.
trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth
MÁU VỌT RA TỪ MỘT TRÁI TIM ĐANG ĐẬP sẽ bắn cao chừng nào? Với mẹ tôi, câu hỏi đã mất tính tu từ hoặc lý thuyết của nó, thay vào đó đã trở thành một chi tiết bệnh lý và y học: Theo suy nghĩ của bà, có một sự liên hệ vô hình, thậm chí có thể là toán học, giữa độ mạnh của mạch và độ cao của máu phun vào thời điểm rạch.
Tuy nhiên, với Stephen Hastings, vấn đề này đã trở thành một việc thuần túy thuộc về kĩ thuật: hậu cần, không phải bệnh lý. Ông ta không quan tâm một trái tim đang đập có thể bắn vào không trung vòi máu cao bao nhiêu, hoặc giả cái đường bán nguyệt màu đỏ ấy là hẹp hay thấp - một tia súng nước, hay sự bục vỡ của một quả bong bóng nước bị đâm bằng đinh ghim. Dù định mệnh của mẹ tôi quả thực phụ thuộc rất lớn vào việc ai sẽ thắng cuộc chiến của các chuyên gia mà Stephen đã thách đấu với Bill Tanner - các bác sĩ của ông với các bác sĩ của chính quyền, các bà mụ của ông với các bà mụ của họ - nhưng với riêng vấn đề này, ông không quá lo lắng về những lời cung khai y tế. Thay vào đó ông lo lắng về sự chắn tầm nhìn, cũng như vị trí Mục sư Asa Bedford và Anne Austin đã đứng lúc mẹ tôi mới chọc con dao bếp vào da Charlotte:
DANFORTH: Đúng, bác sĩ phẫu thuật biết những điều mà tôi không biết. Tương tự như phi công lái máy bay và cô nuôi dạy trẻ.
STEPHEN HASTINGS: Và rồi ông hỏi vợ ông đã chết chưa?
ASA BEDFORD: Vâng, thưa ông.
HASTINGS: Và Sibyl nói với ông rằng bà ấy đã chết?
BEDFORD: Đúng thế.
HASTINGS: Vậy tiếp theo ông làm gì?
BEDFORD: Tôi chẳng làm gì cả.
HASTINGS: Mục sư Bedford, tôi tin rằng chúng ta đều thống nhất là ông đã đi đến cửa sổ. Hãy sửa lại nếu tôi hiểu sai.
BEDFORD: Không, tôi không hiểu câu hỏi. Tôi tưởng ông muốn biết tôi có làm gì... về mặt y tế không.
HASTINGS: Ông đi đến cửa sổ?
BEDFORD: Vâng.
HASTINGS: Để nhìn ra bên ngoài?
BEDFORD: Tôi nghĩ vậy.
HASTINGS: Ông nhìn ra ngoài cửa sổ. Ông có nhìn tuyết rơi không?
BEDFORD: Tôi không nhớ, nhưng có thể tôi đã nhìn. Ít nhất là trong một hoặc hai giây. Nhưng sau đó tôi nhìn lại Charlotte.
HASTINGS: Từ cửa sổ.
BEDFORD: Vâng, thưa ông.
HASTINGS: (ra dấu về phía khung vẽ với bức tranh vẽ theo mô tả phòng ngủ nhà Bedford, đối chiếu tài liệu bang số 8) Cửa sổ cách giường bao xa?
BEDFORD: Không xa lắm. Vài mét.
HASTINGS: Sáu tấc?
BEDFORD: Không, xa hơn.
HASTINGS: Chín tấc?
BEDFORD: Không
HASTINGS: Một mét rưỡi?
BEDFORD: Có thể. Có thể hơn.
HASTINGS: Hai mét mốt?
BEDFORD: Tôi không biết, tôi chưa bao giờ đo cả.
HASTINGS: Nhưng ông nghĩ nó có thể cách xa tối đa là hai mét mốt?
BEDFORD: Hoặc ít nhất là một mét rưỡi.
HASTINGS: (tại khung vẽ) Dùng sơ đồ của bang và thước đo của bang, khoảng cách từ tâm của giường đến kính cửa sổ là hai mét. Ông thấy như thế có đúng không?
BEDFORD: Nghe có vẻ... đúng.
HASTINGS: Cám ơn ông. Mặt trời lúc đó đã mọc chưa?
BEDFORD: Chưa, thưa ông, bên ngoài vẫn tối.
HASTINGS: Vậy là ông có nhìn ra ngoài.
LUẬT SƯ BANG WILLIAM TANNER: Phản đối. Đã hỏi và đã trả lời.
THẨM PHÁN HOWARD DORSET: Phản đối được chấp nhận.
HASTINGS: Lúc đó vẫn là buổi tối chứ?
BEDFORD: Lúc đó trời vẫn còn tối. Lúc đó không phải là buổi tối. Trời tối vì có bão. Mây mù.
HASTINGS: Vì vậy ánh sáng duy nhất trong phòng đến từ các ngọn đèn?
BEDFORD: Đúng, nhưng tôi có thể nhìn thấy Charlotte.
HASTINGS: (ra dấu về phía sơ đồ) Đèn trần nhà có mở không? Cái nằm trong góc ấy?
BEDFORD: Có. Chiếc đèn đó đã được mở suốt đêm.
HASTINGS: Còn chiếc đèn trên tủ đầu giường?
BEDFORD: Có. Chiếc đèn đó cũng được mở. Sib - bà Danforth đã mở nó lên ngay trước khi bà ấy bắt đầu... ca phẫu thuật.
HASTINGS: Sibyl đứng ở đâu trong suốt cuộc phẫu thuật? Ở phía nào của giường?
BEDFORD: Phía bên kia. Phía cách xa tôi.
HASTINGS: Ở đây ư?
BEDFORD: Vâng, thưa ông.
HASTINGS: (dán một chấm xanh lên bức tranh vẽ cạnh giường ngủ) Đây là Sibyl. (Dán một chấm đỏ lên bức tranh vẽ ngay bên trong cửa sổ) Và đây là ông. Thế này chính xác không?
BEDFORD: Tôi nghĩ vậy.
HASTINGS: Nói cách khác, vợ ông nằm trên giường, còn chiếc giường nằm giữa ông và Sibyl.
BEDFORD: Chính xác. Từ cửa sổ, tầm nhìn của tôi không bị cản.
HASTINGS: (dán một chấm vàng lên chóp tủ đầu giường phía sau bị cáo) Và đây là chiếc đèn Sibyl đã mở lên ngay trước khi bà ấy cứu đứa bé?
BEDFORD: Đúng.
HASTINGS: (dán một chấm vàng thứ hai vào góc phòng ngủ phía sau bị cáo) Và đây là chiếc đèn được mở gần như suốt đêm?
BEDFORD: Đúng.
HASTINGS: Đèn này có sáng mạnh không?
BEDFORD: Không, nó sáng dịu. Nó được gắn một bóng đèn công suất thấp, và cũng vì lý do đó mà chúng tôi dùng nó cho ca đẻ. Bà Danforth muốn ánh sáng dịu.
HASTINGS: Còn chiếc đèn ở cạnh giường. Nó có sáng không?
BEDFORD: Theo tôi là có. Đó là đèn đọc sách của chúng tôi.
HASTINGS: Đủ sáng để hắt bóng không?
TANNER: Phản đối. Câu hỏi mang tính suy đoán.
DORSET: Tòa cho phép hỏi. Nhân chứng có thể trả lời.
BEDFORD: Tôi đoán thế.
HASTINGS: Bóng đèn một trăm watt ư?
BEDFORD: Hầu hết là vậy.
HASTINGS: Hầu hết?
BEDFORD: Nếu bóng đèn hỏng và chúng tôi có sẵn bóng một trăm watt trong nhà, thì chúng tôi sẽ dùng nó. Nếu không có, chúng tôi sẽ dùng cái tốt thứ hai. Có thể một bóng đèn bảy mươi lăm watt chẳng hạn.
HASTINGS: Vào đêm Veil chào đời, ông đã sử dụng chiếc đèn với bóng một trăm watt, đúng không?
BEDFORD: Đúng, tôi nghĩ thế.
HASTINGS: Nó có được mở tối đa không?
BEDFORD: Có, thưa ông,
HASTINGS: (tại sơ đồ của bang, nhấn một ngón tay lên chấm chỉ bà Danforth và một ngón tay lên chấm đại diện cho chiếc đèn trên tủ đầu giường) Và chúng ta đồng tình rằng đây là vị trí chính xác trong phòng của chiếc đèn, và vị trí chính xác của Sibyl?
BEDFORD: Vâng.
HASTINGS: Và đèn được mở?
BEDFORD: Đèn được mở.
HASTINGS: Cái bóng ở đâu?
BEDFORD: Cái bóng?
HASTINGS: Một chiếc đèn đủ sáng để đọc sách sẽ luôn hắt bóng. Đúng thế không?
BEDFORD: Tôi đoán thế.
HASTINGS: À, Sibyl có một chiếc đèn với bóng đèn một trăm watt ở ngay phía sau bà ấy, và khi bà ấy cúi xuống trên người vợ ông - thân trên bà ấy ở chính xác giữa chiếc đèn và vợ ông - thì phải có một cái bóng.Đúng không?
BEDFORD: Có vẻ như vậy.
HASTINGS: Vào đêm con trai ông chào đời - Veil - ánh sáng từ bóng đèn một trăm watt phía sau Sibyl đã hắt bóng đi đâu?
BEDFORD: Lên giường.
HASTINGS: Xin vui lòng nhìn sơ đồ phòng ngủ. Cái bóng đó đã hắt lên chỗ nào trên giường? (Ấn ngón tay vào giữa giường) Ở đây chăng?
BEDFORD: Có thể.
HASTINGS: Ngón tay tôi ở đâu?
BEDFORD: Trên giường.
HASTINGS: Phần nào của giường?
BEDFORD: Ở giữa.
HASTINGS: Cái gì nằm ở giữa giường vào đêm con trai ông chào đời?
BEDFORD: Vợ tôi, dĩ nhiên rồi. Đó là nơi cô ấy đ...
HASTINGS: Bóng của chiếc đèn hắt lên vợ ông?
BEDFORD: Vâng.
HASTINGS: Lên thân mình bà ta?
BEDFORD: Tôi đoán vậy.
HASTINGS: Cám ơn ông. Ông có nhớ Sibyl đã mặc gì đêm hôm đó không?
BEDFORD: Tôi nghĩ bà ấy đã mặc áo len và quần jeans xanh. Một chiếc áo len dày.
HASTINGS: Một chiếc áo len trượt tuyết?
BEDFORD: Tôi chưa bao giờ trượt tuyết.
HASTINGS: Nhưng là một chiếc áo len dày?
BEDFORD: Đúng.
HASTINGS: Ông có nhớ nó màu gì không?
BEDFORD: Không, thưa ông.
HASTINGS: (trình món đồ cho luật sư bang và Thẩm phán Dorset; áo len được nhận làm vật chứng) Thưa quý tòa, đối chiếu tài liệu bị cáo số ba. Đây có phải là chiếc áo mà Sibyl đã mặc không?
BEDFORD: Tôi nghĩ vậy.
HASTINGS: Nó có màu gì?
BEDFORD: Màu xanh nước biển. Còn hoa tuyết quanh vai và cổ áo có màu trắng.
HASTINGS: Nhưng chủ yếu là màu xanh nước biển?
BEDFORD: Chủ yếu.
HASTINGS: (trình áo cho bồi thẩm đoàn xem và đặt nó vào khay vật chứng) Chúng ta đã xác định rằng Veil chào đời vào khoảng từ sáu giờ mười lăm đến sáu giờ hai mươi sáng. Đúng không?
BEDFORD: Đúng.
HASTINGS: Đêm trước đó ông có ngủ chút nào không?
BEDFORD: Không, tôi không ngủ.
HASTINGS: Ông có chợp mắt ngày hôm trước không? Vào buổi chiều chẳng hạn?
BEDFORD: Không.
HASTINGS: Ông có nhớ ông thức dậy lúc mấy giờ vào ngày hôm trước không? Ngày thứ năm?
BEDFORD: Không nhớ rõ lắm. Nhưng có thể là khoảng sáu giờ ba mươi.
HASTINGS: Vậy là ông đã thức cả đêm khi con trai ông chào đời?
BEDFORD: Đúng vậy.
HASTINGS: Thật ra, ông đã thức khoảng hai mươi tư giờ.
BEDFORD: Vâng.
HASTINGS: Mắt ông có mệt không?
BEDFORD: Tôi không nhớ đã nghĩ rằng mắt mình mệt.
HASTINGS: Liệu chúng có thể đã mệt không?
TANNER: Phản đối.
DORSET: Tòa cho phép hỏi.
HASTINGS: Sau khi thức hai mươi tư giờ, liệu mắt ông có thể mệt không?
BEDFORD: Có thể.
HASTINGS: Cám ơn ông. Bây giờ, ông nói với tòa rằng ông nghĩ mình có thể đã nhìn thấy một chút máu phun ra, dù rằng ông đứng cách đấy gần hai mét khi nó xảy ra. Tôi nói đúng không?
BEDFORD: Đúng.
HASTINGS: Và dù rằng bụng của vợ ông bị bóng che. Đúng không?
BEDFORD: Đúng.
HASTINGS: Và dù rằng ông đã nhìn thấy máu trên nền áo len trượt tuyết màu xanh nước biển. Phải không?
BEDFORD: Đúng, nhưng...
HASTING: Và dù rằng ông đã thức trắng đêm. Không, không chỉ trắng đêm. Những hai mươi tư giờ. Đó có phải là lời khai mà ông thực sự muốn bồi thẩm đoàn tin không?
BEDFORD: Tôi biết mình đã thấy gì.
DORSET: Luật sư còn câu hỏi gì cho nhân chứng không?
HASTINGS: Còn.
DORSET: Vậy hãy vui lòng hỏi đi.
HASTINGS: Ông có tin rằng vợ ông đã chết khi ông đi đến cửa sổ?
BEDFORD: Ồ, có.
HASTINGS: Ông có yêu bà ấy không?
BEDFORD: Dĩ nhiên.
HASTINGS: Ông có buồn không?
BEDFORD: Chúa ơi, có!
HASTINGS: Ông có rất buồn không?
BEDFORD: Có
HASTINGS: Và có phải trong tâm trạng đó mà ông nghĩ rằng ông đã nhìn thấy máu bắn ra?
BEDFORD: Vâng, nhưng tôi không bị bấn loạn. Tôi đã nói rồi, tôi biết mình thấy gì.
HASTINGS: Thế ông có làm gì đó - làm bất cứ điều gì - để ngăn Sibyl khi ông nhìn thấy máu không?
BEDFORD: Không, như tôi đã nói với ông Tanner, tôi nghĩ như thế là bình thường. Tôi cho rằng Charlotte đã qua đời, và đây chỉ là... chỉ là cách mà cơ thể phản ứng...
Stephen đã nói với bố mẹ tôi khi họ thảo luận chiến thuật vào tối hôm trước rằng sẽ có hai vấn đề với lời khai của Mục sư Asa: điều ông ta có thể đã thấy, và điều ông ta lẽ ra đã thấy. Stephen tin chắc rằng không có ông chồng đầu óc tỉnh táo nào lại đặt mình vào cảnh chứng kiến một con dao đi vào bụng người vợ đã chết của mình, và đó là lý do thực sự khiến Mục sư Asa đi đến cửa sổ. Nhưng ông bảo bố mẹ tôi rằng trước hết, ông sẽ đặt nghi vấn về điều Mục sư Asa có thể đã thấy từ phòng ngủ buổi sáng hôm đó.
Buổi đối chất của Stephen với vị mục sư bắt đầu ngay sau bữa trưa và tiếp diễn cho đến khi phiên tòa ngày hôm ấy khép lại. Có những khoảnh khắc trong buổi chiều hôm đó - ngắn ngủi nhưng rùng mình - khi tôi tin với niềm tin của một đứa trẻ mới lớn rằng Stephen đã thuyết phục từng người trong phòng rằng thật phi lý khi tin Mục sư Asa Bedford thực tình chứng kiến ca mổ đẻ của vợ mình, và ít có khả năng ông ta đã nhìn thấy máu bắn ra nếu sự phi lý trên có thật. Tôi tự nhủ không người đàn ông nào ở vị trí Mục sư Asa lại chắc chắn tuyệt đối về điều ông ta đã thấy, và - có thể quan trọng hơn là - không người đàn ông nào sẵn lòng nhìn.
Nhưng khi buổi đối chất kết thúc, thực tế vẫn là thực tế, Asa Bedford vẫn là một giáo sĩ: Ở cái góc của chúng tôi tại Vương quốc vào năm 1981, điều này có nghĩa là lời nói của ông vẫn có trọng lượng. Trọng lượng đáng kể, mặc cho những điều quái dị trong đức tin của nhà thờ ông ta. Tôi nghĩ phần đối chất của Stephen rất tuyệt vời, nhưng khi tất cả chúng tôi ai về nhà nấy để ăn tối, tôi lại sợ rằng một phiên đối chất - dù là một phiên hay - sẽ không thể đảo ngược một tuần lời khai y học đầy bất lợi và trí nhớ của vị mục sư.
Khi các cô gái còn bé, búp bê của họ thường là em bé, không phải Barbie.
Stephen Hastings đã nói như thế. Đương nhiên, Stephen không có con. Nhưng điều này không làm ông từ bỏ quan điểm về cách suy nghĩ và niềm tin của trẻ con. Cuối cùng thì, như ông đã nói vào đêm bố tôi bắt bẻ ông, ông cũng từng là trẻ con. Stephen luôn sẵn sàng thừa nhận rằng ông chẳng có một tí khái niệm gì về cách nuôi dạy trẻ - làm sao để kỉ luật hay khen thưởng chúng, hoặc đơn giản là hết mực yêu thương chúng - nhưng ông một mực cho rằng mình hiểu rõ tính logic thấm nhuần trong tư duy của một đứa trẻ. Tư duy của một bé gái cũng như tư duy của một bé trai.
Và Stephen tin rằng các bé gái thích búp bê em bé - những đứa trẻ sơ sinh bằng nhựa không cần chăm sóc. Không ẵm bồng, không cho ăn, không thay quần áo, không trông nom. Không làm gì cả. Chỉ có giả tiếng khóc, giả đau bụng, giả những cơn đói. Tã bẩn tưởng tượng. Cảnh bừa bộn giống như thật. Cuối cùng, như ông nói, búp bê em bé sẽ dần mất vị trí trong mối quan tâm của đứa trẻ. Những con búp bê già hơn thì có thể mất vị trí hoặc không, tùy thuộc vào việc cô bé đó có phát hiện ra Barbie và Skipper và Ken hay không. Nhưng những em bé bằng nhựa - cùng ham muốn bản năng được nuôi dưỡng một thứ nhỏ bé và đòi hỏi - thì mất vị trí thật. Một số bé gái lại bị con bọ nuôi dưỡng đốt khi họ dậy thì, và dùng nghề trông trẻ như một cách thay thế. Những cô bé khác thì không tìm lại được ham muốn làm mẹ cho đến khi họ trở thành người lớn, và nhu cầu nguyên thủy của việc vứt bỏ màng tránh thai để duy trì nòi giống áp đảo mọi lý lẽ.
Và rồi, dĩ nhiên, có những cô gái trở thành bà mụ: những cô gái cảm thấy không bao giờ đủ với những đứa bé nhỏ xíu xiu - trẻ sơ sinh - những cô gái sẽ trở thành những người phụ nữ cực kì mê đắm quá trình sinh đẻ kì diệu mà lộn xộn.
Khi mùa xuân trở thành mùa hè và Stephen đã chìm đắm trong văn hóa sinh đẻ tại nhà, ông kết luận rằng sự khác biệt cơ bản giữa người phụ nữ trở thành bác sĩ sản phụ khoa và người phụ nữ trở thành bà mụ có liên hệ rất ít với học vấn hoặc triết lý sống hoặc nền tảng gia đình, mà rất nhiều đến mức độ kì vọng về phép màu của sự sinh đẻ và về sự sống ở thời khắc hiện ra. Những người phụ nữ trở thành bác sĩ sản khoa xem họ trước hết như một bác sĩ, sau đó như một chuyên gia sản phụ khoa. Ông cảm thấy khi những cô gái này bắt đầu tập trung nghiêm túc vào điều họ muốn làm khi lớn lên - ở trường trung học hoặc cao đẳng - họ có thể ban đầu quyết định rằng chỉ muốn làm bác sĩ. Sau đó, có thể ở trường y, họ thu hẹp lựa chọn vào khoa sản.
Ngược lại, những cô gái trở thành bà mụ thì biết nghề bà mụ là thiên hướng của họ từ khi còn rất trẻ, hoặc - như con đường của mẹ tôi đã chứng tỏ - bị níu chân vì một trải nghiệm liên quan đến sinh đẻ sâu sắc, làm thay đổi cuộc đời. Stephen nhất mực tin rằng những người phụ nữ trở thành bác sĩ sản phụ khoa cũng yêu trẻ không kém gì các bà mụ, nhưng họ là kiểu người mà khi còn trẻ nhiều khả năng đổi những con búp bê được mặc đồ để đặt vào nôi đồ chơi để lấy những con búp bê được mặc đồ để giả làm người lớn.
Đương nhiên Stephen có ẩn ý gì đó trong trường hợp của tôi, ít nhất là khi nhắc đến búp bê. Tôi chơi búp bê em bé cho đến sau khi vào lớp một; gần như chỉ sau một đêm trong năm đó, chúng trở thành thế giới nhỏ của những con búp bê Barbie bị ám ảnh với quần áo, xe cộ, và màu tóc của chúng. Tôi thậm chí còn có cả một Barbie Y tá, dù thật lòng mà nói nó dành phần lớn thời gian không mặc gì khi ở bên Ken.
Nhưng có phải tôi đã trở thành bác sĩ sản phụ khoa chỉ vì tôi muốn làm bác sĩ, và tôi tình cờ lớn lên trong một căn nhà khiến tôi quen thuộc với chuyện giải phẫu không? Tôi nghi ngờ điều đó. Và sau khi chứng kiến cách một số bác sĩ sản phụ khoa xé xác mẹ tôi ra bằng thuật ngữ y học tại tòa - dùng ngôi thứ ba như thể bà không phải đang ngồi cách đấy chỉ năm, sáu mét - tôi rất có thể nung nấu một sự căm ghét theo bản năng đối với toàn bộ nghề nghiệp này đến mức tôi sẽ chọn bất cứ nghề gì trừ nghề bác sĩ nhi.
Đến ngày nay, một số bạn bè của mẹ nghĩ tôi đã phản bội bà khi trở thành bác sĩ sản phụ khoa. Có hai bà mụ ở Vermont không thèm nói chuyện với tôi, hoặc với những bà mụ chọn tôi làm bác sĩ dự bị. Nhưng như tôi đã nói với tất thảy những bà mụ thuộc thế hệ mẹ tôi mà tôi vẫn còn là bạn, hoặc với những bà mụ thuộc thế hệ tôi mà tôi đã trở thành bạn, sự lựa chọn nghề nghiệp của tôi không phải là một sự lên án nghề nghiệp của mẹ tôi hoặc một cú tát vào những kẻ làm khổ bà. Rõ ràng nỗi gian nan của bà là một yếu tố trong quyết định của tôi - toàn bộ những ca mổ đẻ của tôi đều tiến hành trên những người phụ nữ còn sống, mỗi người được gây mê đúng cách và được chuẩn bị cho quá trình đẻ con - nhưng như một người bạn làm bác sĩ tâm lý của tôi đã nói, động cơ không quan trọng: đa phần chúng ta không biết động cơ của mình là gì. Và tuy tôi học được từ mẹ rằng cách đứa trẻ đến với cuộc đời này thực sự rất quan trọng, tôi cũng học được từ những người phỉ báng bà một thực tế không thể tránh khỏi là hầu hết trẻ em trên thế gian này chào đời trong bệnh viện. Trong suy nghĩ của tôi, tôi đã làm được rất nhiều việc tốt trong phòng sinh và phòng phẫu thuật, và dù tôi không dùng thảo dược như blue cohosh, tôi cũng chưa bao giờ thực hiện ca khám thai nào kéo dài ít hơn nửa giờ. Tôi hiểu các bà mẹ của tôi.
Stephen nhanh chóng đưa các chuyên gia vào cuộc, ngay cả trước khi mẹ tôi bị khởi tố bị can. Ngoài một thợ chụp ảnh ghi lại các vết xây xát và bầm dập mẹ tôi hứng chịu khi bò trên băng tuyết cạnh xe bà, ông lập tức thuê một chuyên gia tái tạo hiện trường tai nạn để kiểm tra độ dốc và bề rộng của đường chạy xe vào nhà Bedford. Ông muốn đảm bảo không có một mảy may nghi ngờ nào trong đầu bồi thẩm đoàn về việc mẹ tôi đã làm mọi điều có thể một cách có tình người để cố gắng chuyển cô Bedford đến bệnh viện trong đêm mà cô ấy qua đời, nhưng đường chạy xe vào nhà quá bừa bộn còn đường sá bị phong tỏa: Mẹ tôi đã làm những việc bà phải làm vì bà không có lựa chọn khác.
Và ông có thể đã dành nhiều ngày trời nói chuyện điện thoại trong những tuần đầu tiên, tìm cho được các bà mụ trên khắp cả nước từng bị xét xử vì lý do nào đó - hành nghề y không giấy phép, sở hữu trái phép thuốc thuộc danh mục quản lý - và phỏng vấn các luật sư của họ. Ông tìm được những chuyên viên thẩm nghiệm y lý tư pháp và bác sĩ sản phụ khoa để làm chuyên gia làm chứng cho chúng tôi nếu cần, một số người sẵn sàng đến từ những nơi xa xôi như Texas.
Dù Stephen có thể không đặc biệt quan tâm đến những chi tiết về độ cao của máu bắn ra, vẫn có một số vấn đề y học có tầm quan trọng lớn với ông - dĩ nhiên bao gồm cả nguyên nhân cái chết của Charlotte Fugett Bedford. Stephen muốn đảm bảo rằng chúng tôi có lời giải thích thỏa đáng cho lý do tại sao người phụ nữ ấy chết, đặc biệt là sau khi cuộc khám nghiệm tử thi đã kết thúc và tình hình cho thấy chính quyền bang sẽ tin chắc không hề có chứng phình động mạch não, và nguyên nhân cái chết vì thế chính là Sibyl Danforth.
Với sự giúp đỡ của các chuyên gia, trong những tuần đầu tiên Stephen bắt đầu lập ra các danh sách: những bản mục lục dài lê thê về các biến chứng có thể xảy ra trong bất kì ca đẻ nào, ở nhà hay ở bệnh viện; những chuyện kể từ lịch sử nghề nghiệp của mẹ tôi cho thấy tiêu chuẩn cao bất thường của bà về sự chu đáo; những sự kiện cho thấy cộng đồng y khoa có mối thâm thù với việc sinh đẻ tại nhà, và mẹ tôi chỉ là con tốt thí - thảm thương, nhưng tiện dụng.
Dẫu vậy, chuyên gia trở nên gần gũi với chúng tôi nhất như người trong gia đình, thực ra lúc đầu cũng hiểu biết rất ít về sinh đẻ tại nhà như Stephen. Cô ấy quả thật giống như một “chung gia” hơn, vì chuyên môn của cô là thu thập thông tin. Patty Dunlevy là một thám tử tư, nữ thám tử tư đầu tiên của bang. Stephen Hastings nói ông chọn cô làm điều tra viên trước hết vì cô là người giỏi nhất ở Vermont, không cần tranh cãi. Nhưng xét các vấn đề liên quan đến vụ kiện của mẹ tôi, tất cả chúng tôi đều hiểu rằng việc cô là phụ nữ cũng chẳng gây hại gì.
Patty nhanh chóng trở thành một kiểu hình mẫu cho Rollie McKenna và tôi. Chúng tôi cùng nhau gặp cô, vào một buổi chiều thứ tư chưa đầy một tuần sau khi Charlotte Bedford qua đời. Hai đứa chúng tôi đang chải lông cho Witch Grass trên bãi cỏ nhà McKenna, ở chỗ gần con đường nhất, khi chiếc xe màu trắng của Patty - một chiếc xe lạ thấp bè nhưng đẹp mắt phủ một lớp bùn, một vết xước khá lớn trên cửa xe, một vết nứt mạng nhện trên kính chắn gió - đỗ lại “két” một tiếng trên khoảnh đất cạnh hàng rào. Người phụ nữ cầm lái rướn người qua băng ghế trống, kéo kính mát xuống, và hạ cửa kính để hỏi xem chúng tôi có biết người tên là Sibyl Danforth sống ở đâu không.
Những ngờ vực mới khó biến mất hơn cả những thói quen cũ (nhất là khi sự ngờ vực này dựa trên thực tế), và tôi lập tức lo sợ rằng người phụ nữ này là nhà báo. Vì thế mặc cho sai lầm tôi phạm phải chỉ hai ngày trước đó khi Stephen Hastings xuất hiện ở trước cửa nhà chúng tôi, tôi đã trả lời câu hỏi của người phụ nữ này bằng một câu hỏi.
“Bà ấy có biết cô đến không?” tôi hỏi vẻ cảnh giác.
“Dĩ nhiên là biết. Cháu hẳn là con gái của chị ấy.”
“Điều gì khiến cô nghĩ vậy?”
“Cháu cảnh giác cho chị ấy. Cô là Patty Dunlevy. Cô làm việc với Stephen Hastings - luật sư của mẹ cháu.”
Người phụ nữ này tầm ba mươi mấy bốn mươi tuổi, nhưng mái tóc cô vẫn có màu gần như vàng nghệ. Buổi chiều hôm đó cô đeo một miếng băng quấn đầu màu xanh sân golf để tóc không rơi xuống mặt, và mặc áo khoác da đen đặt may, kiểu áo thường thấy khoác trên lưng một cô nàng thượng lưu tại một tiệc khiêu vũ hơn là một tay chơi mô tô tại cuộc tuần hành của câu lạc bộ mô tô Những thiên thần của Địa ngục. Nhưng chúng tôi nhanh chóng nhận ra Patty là một cô tắc kè, và đó là một trong những lý do vì sao cô làm quá tốt công việc của mình. Tôi biết khi cô phỏng vấn các khách hàng của mẹ hoặc những bà mụ khác vào mùa xuân và hè năm đó, cô có thể mặc váy bohemian rũ rượi hoặc quần jeans xanh rách rưới; khi đến gặp bác sĩ hoặc giám đốc bệnh viện, đặc biệt là những người khó tính, cô lại xuất hiện trong những chiếc váy kẻ và giày xỏ chân đế thấp, với áo sơ mi kiểu được là thẳng thớm, phẳng phiu. Patty rõ ràng rất thích cặp kính mát bóng lộn và chiếc áo khoác da màu đen, nhưng cô cũng hiểu chúng là trở ngại nghề nghiệp không cần thiết với nhiều nguồn tin của cô, và rất cẩn thận để đảm bảo ấn tượng đầu tiên về mình bao giờ cũng hoàn hảo.
Khi vừa hiểu ra Patty Dunlevy không phải là nhà báo, tôi đã thích cô ngay tắp lự. Cả Rollie và tôi đều thích. Chiếc xe của cô vừa là đại diện cho đạo đức nghề nghiệp của cô - phong cách được tôi luyện bằng sức lao động - vừa là cách người phụ nữ này chứng tỏ cô là tâm điểm sống của sự hấp dẫn không lay chuyển được: Sau khi tôi cho Patty biết người cô tìm chính là mẹ tôi, tôi đã không những chỉ đường đến nhà chúng tôi, mà còn leo lên xe và làm phụ lái cho quãng đường năm trăm mét từ nhà McKenna đến nhà Danforth.
“Mẹ cháu thế nào rồi?” cô hỏi, khi Rollie và Witch Grass trở thành chấm nhỏ trong kính chiếu hậu.
“Cháu nghĩ là ổn ạ.”
“Thật là một cơn ác mộng. Cháu không biết cô cảm thấy buồn cho chị ấy thế nào đâu.”
“Cô làm gì với chú Hastings? Cô cũng là luật sư ạ?” tôi hỏi, ngồi ngay ngắn vào chiếc ghế đơn trong xe.
“Không. Cô là điều tra viên.”
“Là thám tử ạ?”
“Gần giống như thế. Cô làm việc với luật sư để moi những thông tin mà họ không thể.”
Một hình ảnh lướt qua mắt tôi về Patty Dunlevy ngồi trong chiếc xe nhỏ thấp bè của cô trong bãi đỗ xe ở một khách sạn gần sân bay Burlington. Cô đang dùng một chiếc máy ảnh có ống kính rộng như súng chống tăng để chụp ảnh những đôi tình nhân làm chuyện sai trái qua lớp rèm lá sách bụi bặm khép hờ.
“Kiểu thông tin gì ạ?”
Câu trả lời của cô cho thấy cô đã nhận ra sự lĩnh hội trong giọng nói của tôi.
“Ồ, đủ loại thông tin. Có thể là một việc cực kì tầm thường như lấy bản xác nhận về một vụ mất điện từ một công ty điện lực. Vài đoạn băng ghi âm điện thoại. Hoặc có thể là một việc thú vị hơn một chút như thu thập thông tin cơ bản từ một nhân chứng khó chịu. Kiểu công việc có thể làm mất uy tín người ta một ít. Nhưng cô sẽ nói thẳng với cháu điều mà cô đã nói với mọi người: Cô không nhận làm các vụ ngoại tình và các vụ li dị.”
“Cô sẽ... làm gì cho mẹ cháu?”
Cô mỉm cười. “À, đầu tiên cô sẽ thu thập từ chị ấy tên của từng người sẵn sàng nói tốt về chị ấy trên hành tinh này nếu bọn cô nhờ họ cung khai. Rồi bọn cô sẽ bắt tay tìm hiểu xem chính xác thì cô sẽ làm gì cho mẹ cháu.”
“Cô sẽ có một danh sách dài đấy, cô biết không.”
“Của những người thích chị ấy à? Tuyệt vời. Cô luôn cảm thấy được thết đãi đặc biệt mỗi khi Stephen nhờ cô làm việc cho những người tốt.”
...
Bây giờ tôi không mê tín, và tôi cũng không mê tín vào năm 1981. Trong đầu tôi, điều này chỉ thật trớ trêu - chứ không mang tính tượng trưng - khi Charlotte Fugett Bedford đau đẻ vào ngày mười ba tháng ba, còn kết quả khám nghiệm tử thi viết tay đến vào ngày một tháng tư. Ngày Cá tháng tư. Ngày đầu là một ngày xui xẻo, còn ngày sau là một ngày để nói đùa.
Ngày Cá tháng tư năm đó rơi vào thứ ba, và trong nỗ lực của bố mẹ tôi nhằm đem lại cho cuộc sống chúng tôi một vẻ bình thường, họ nằng nặc đòi tôi gia nhập đội tuyển chạy dự bị của trường như chúng tôi đã thảo luận trong suốt mùa đông. Tôi luôn nghĩ rằng mình là một vận động viên tương đối giỏi, và tôi tự tin mình có đôi chân khỏe nhờ những năm cưỡi Witch Grass. Tôi vẫn chưa bắt đầu hình dung mình sẽ chạy đường dài hay chạy ngắn, nhưng tôi biết tôi thích vẻ ngoài của mình khi mặc những chiếc quần sooc đó.
Các vòng thi tuyển bắt đầu vào thứ ba, vì thế mãi đến gần giờ ăn tối tôi mới về nhà. Nhưng chúng tôi đã nói khá nhiều về biên bản khám nghiệm tử thi cận kề vào những tuần sau khi Charlotte Bedford qua đời đến nỗi tôi có thể nhận ra ngay từ sự im lặng của bố mẹ và sự hiện diện của chai rượu trên bàn ăn rằng những kết luận cuối cùng của nó chỉ đem lại toàn tin xấu.
Khi mẹ tôi đứng dậy và bắt đầu dọn bữa tối - món thịt bò hầm mà chẳng ai đụng vào, dù tất cả đều hiểu đó sẽ là món thịt hầm thừa mứa cuối cùng của mùa đông năm đó - bố nói với tôi điều mà tôi đã biết. Chuyên gia pháp y không tìm thấy triệu chứng nào của chứng đột quỵ, không dấu hiệu nào của chứng động kinh. Nguyên nhân gây tử vong ban đầu? Choáng xuất huyết do mổ đẻ trong lúc sinh con tại nhà.