← Quay lại trang sách

- 12 -

Sự sinh nở là một phép màu to lớn được báo trước bằng rất nhiều phép màu nho nhỏ.

Sự thụ thai. Những cái tay cái chân tí hon. Lông tơ. Một dấu vân tay, những đoạn xương cứng. Thai máy. Sự xoay chiều. Sự trượt xuống.

Tôi sẽ không bao giờ quên khoảnh khắc thai máy khi mang bầu Connie. Lúc đó con bé được mười ba hoặc mười bốn tuần tuổi. Tôi mang chiếc bụng lum lúp trong chiếc áo len dày cộp dài đến gối. Lacey Woods đã đem nó về từ nơi nào đó ở vùng Trung Mỹ, và nó có hình con đại bàng Aztec mờ mờ ở trên lưng. Nó rất đẹp, dày đến độ có thể giữ ấm cho tôi ngay cả khi ở ngoài trời trong cái lạnh của tháng mười hai vào ngày mà Connie thông báo sự hiện diện của mình.

Tôi đang ngồi trên một tảng đá to khổng lồ ở sân sau nhà bố mẹ, một trong những tảng đá hướng về khu nghỉ mát trượt tuyết trên ngọn Republic. Lúc đó Rand và tôi đã quyết định sẽ kết hôn, nhưng sinh vật bé bỏng trong người tôi không phải là lí do. Con bé - đương nhiên, lúc đó vẫn chưa biết là cậu bé hay con bé, chúng tôi chẳng biết chúng tôi sẽ sinh trai hay gái - chỉ là một dấu hiệu cho thấy chúng tôi nên kết hôn sớm thay vì muộn.

Mặt trời đã khuất sau ngọn Republic, dù chưa đến bốn giờ, và không khí bắt đầu trở lạnh tê tái. Người ta đã tạo một ít tuyết trên những con đường mòn ở khu nghỉ mát trượt tuyết, còn thì mặt đất vẫn có màu nâu, và vì thế ngọn núi trông hao hao như một ngọn núi lửa tạo ra những dòng nham thạch trắng kì lạ.

Tôi đã thôi không leo lên những tảng đá ấy kể từ khi học trung học, và ngồi ở đấy khiến tôi có cảm giác như mình là một cô bé. Và rồi, đột ngột, tôi cảm thấy sự rung động nhỏ ở phía dưới rốn một chút. Một con nòng nọc quẫy đuôi. Một gợn nước lăn tăn, một con sóng. Ngay lập tức hình ảnh về con nòng nọc - một hình ảnh mà tôi có lẽ đã nghĩ đến từ sách giáo khoa sinh học ở trường phổ thông - biến đổi thành hình ảnh của một em bé sơ sinh. Tôi biết con mình lúc ấy trông chẳng giống em bé sơ sinh tẹo nào, nhưng tôi giả vờ đó là thứ đang rung động trong người tôi. Một người tí hon mờ ảo đang bơi ếch bên trong chiếc đèn đối lưu. Một bong bóng dịu dàng nảy lên, nhưng chuyển động rất chậm, quanh bụng tôi. Tôi thấy những ngón tay mũm mĩm của em bé sơ sinh búng nước ối tách một cái, tôi thấy những bàn chân tí hon bé hơn những củ khoai tây nướng nhẹ nhàng đạp nước dội về phía tôi, và tôi vòng tay quanh mình để ôm em bé của tôi qua bụng của mình.

Ôi Chúa ơi, tôi thật hạnh phúc. Tôi nhớ mình cứ ngồi trên tảng đá đó âu yếm hình hài bé nhỏ - hình hài bé nhỏ của tôi - trong người tôi. Trong tất cả những phép màu nho nhỏ hợp lại thành phép màu to lớn đó, tức sự sinh nở, phép màu tôi yêu thích nhất chính là khoảnh khắc thai máy. Toàn bộ những cảm xúc, sự trông đợi và ước mơ dành cho con bạn dâng lên phủ lấy bạn như những con sóng.

Và thai máy rõ ràng là từ chính xác để mô tả nó, vì tim bạn đập nhanh lên, và sự phát triển của thai nhi bắt đầu tăng tốc.

Một số bà mẹ nhận biết thai máy ngay từ tuần thứ mười hai, những người khác muộn hơn. Theo kinh nghiệm của tôi, mười sáu tuần là phổ biến nhất, nhưng một số thai phụ không cảm thấy thai máy cho đến khi thai được mười tám tuần tuổi. Ðiều này thực sự không quan trọng, trừ việc những người phải chờ đợi sẽ lo sốt vó. Chuyện đó là không thể tránh khỏi, một người mẹ không thể chịu nổi việc đó. Bạn muốn cảm nhận người bạn của mình, bạn muốn biết cậu ấy hay cô ấy đang ở đó.

Ðương nhiên, những trường hợp thai máy muộn cũng có thể đem đến một cảm giác dễ thương. Sau tất cả những lo âu khắc khoải, niềm vui sướng tột cùng hẳn là rất tuyệt diệu khi điều đó cuối cùng cũng đến. Tuyệt diệu một cách tuyệt đối, khó tin, và cùng cực.

trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth

THÁNG TƯ KHÔNG HOÀN TOÀN là mùa xuân cũng chẳng hoàn toàn là mùa đông ở Vermont. Thường thấy mưa tuyết bất chợt - thậm chí có thể vài centimet tuyết ướt và nặng - ngày hôm trước, rồi mặt trời nóng bỏng và nhiệt độ cao nhất mười lăm độ C vào ngày hôm sau. Hoa nghệ tây và hoa tulip mọc lên, chịu đựng kiểu nhiệt độ đỏng đảnh giỏi như mọi thứ khác (chúng nở hoa, chúng rũ xuống, chúng ngẩng lên và nở hoa), nở rộ sắc xanh hoặc vàng trên nền cỏ nâu ngày hôm trước, rồi lại trên nền cỏ xanh ngày hôm sau.

Người Vermont không biểu thị phản ứng của họ với những thay đổi đột ngột của thời tiết một cách kịch tính như hoa, nhưng chúng tôi cảm nhận chúng trong người và thể hiện chúng ra ngoài. Chúng tôi có thể chẳng buồn xúc tuyết khỏi lối đi hoặc đường chạy xe vào nhà sau một trận mưa tuyết tháng tư - tuyết cũng sẽ chóng tan thôi - nhưng chúng tôi sẽ quét tuyết khỏi hiên nhà hoặc bậc tam cấp trước nhà, và ý nghĩ về việc cầm chổi nhúng vào những tấm chăn trắng trong khi toàn thế giới đã bước vào mùa xuân cả rồi khiến người sôi nổi nhất cũng phải lắc đầu ngao ngán. Ngoại trừ những người nấu đường hi vọng một đợt nhựa phong chảy điên cuồng lần cuối, số đông chúng tôi đều thở dài khi thức giấc và phát hiện mái nhà lại bị tuyết phủ trong lúc mình đang say giấc: Đến giữa buổi sáng những lớp tuyết ấy sẽ trượt khỏi lớp ngói hoặc mái tôn, lăn như tuyết lở xuống mương, tạo thành những đống tuyết tra tấn chúng tôi trong nhiều ngày liền.

Tuy nhiên, khi mặt trời sáng rực và không khí ấm áp, chúng tôi hét to lên để chào nhau ở những con đường dài chạy xe vào nhà và từ cửa xe khi đi ngang qua nhau; chúng tôi ngẩng cao đầu khi bước, nhìn thẳng lên bầu trời với đôi mắt nhắm nghiền và khuôn mặt giãn ra tươi cười. Chúng tôi hít thật sâu không khí mùa hè, nhưng kiểu hít vào này không kết thúc bằng một tiếng thở dài; nó là bắt đầu của một tiếng rừ rừ, hay những tiếng rên phát ra khi được cọ vào lưng.

Chúng tôi không còn lau chùi nữa, chúng tôi không còn cằn nhằn nữa. Chúng tôi tràn đầy năng lượng.

Dù gia đình tôi hiểu vào ngày đầu của tháng rằng mẹ tôi sẽ bị khởi tố bị can, nhưng mãi đến gần cuối tháng chính quyền bang mới xác định chính xác tội danh - nói cho đúng là những tội danh - đó là gì. Vì thế, trong suốt tuần đầu tiên và nửa tuần kế tiếp của tháng tư, cảm xúc của chúng tôi đã đi tàu lượn với những đỉnh và đáy nhiều hơn cả số đỉnh và đáy mà kiểu thời tiết hết sức đồng bóng của chúng tôi có thể tạo ra.

Stephen đã cảnh báo bố mẹ tôi ngay từ ngày họ mới gặp nhau rằng chính quyền bang có thể đưa ra giả thuyết rằng mẹ tôi đã cố ý giết Charlotte Bedford, và vì thế bà phải bị khởi tố tội giết người cấp độ hai. Sự khác nhau giữa giết người cấp độ hai với tội bất cẩn gây chết người là không hề nhỏ: Giết người cấp độ hai đi kèm với mười năm tù nếu có yếu tố giảm nhẹ từ phía bị cáo, và đến mức chung thân nếu không có yếu tố giảm nhẹ. Bất cẩn gây chết người, tội danh mà Stephen nghĩ là có khả năng dành cho mẹ tôi, chỉ hàm ý mẹ tôi đã hành động hoàn toàn vô đạo đức hoặc tắc trách ghê gớm, nhưng ít ra bà đã không chủ ý giết ai. Giết Charlotte Bedford không phải là ý định của bà trong trường hợp này, đó chỉ là một tai nạn không may, vì thế chỉ đi kèm với từ một đến mười lăm năm tù và có thể ba nghìn đô la tiền phạt.

Tuy nhiên, chúng tôi chưa bao giờ nghi ngờ về cáo buộc ít nghiêm trọng hơn, còn gọi là tội nhẹ: hành nghề y không giấy phép. Điều đó, như Stephen nói, là không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, bất chấp lời cảnh báo của Stephen - và sự trấn an của ông rằng việc truy tố tội danh giết người cấp độ hai ít có khả năng xảy ra - khi Bill Tanner lần đầu tiên đề nghị chính quyền bang nên nghiêm túc xem xét vụ án theo hướng hành động của mẹ tôi là cố ý, bố tôi đã nổi đóa, mẹ tôi sợ hãi, và cả hai trở nên lúng túng. Tôi ngồi trên cầu thang nhà chúng tôi vào một buổi tối, nghe họ nói chuyện với Stephen trên điện thoại - mẹ tôi từ điện thoại ở tầng trệt, bố tôi từ điện thoại ở lầu một.

“Tôi biết những từ cố ý và vô ý có nghĩa gì với một người bình thường,” bố tôi đang nói. “Tôi muốn biết chúng có ý nghĩa thế quái nào với luật sư... tôi hiểu rồi... Một tiền lệ ư? Ông đang nói với tôi rằng vụ việc như thế này từng xảy ra trước đây rồi à?... Ừ hử... Người phụ nữ ấy đã chết rồi, trời ạ. Tại sao Sibyl lại nghĩ rằng mổ đẻ sẽ giết chết cô ta chứ?...”

Một lúc sau mẹ tôi nói thêm, giọng bà gần như hoảng loạn, “Sao họ có thể nói thế? Tôi đã bảo với Asa rằng cô ấy chết rồi!” nhưng tôi không hình dung được Stephen có thể trả lời kĩ càng trước lời cảm thán của mẹ, vì bố đã lại cắt ngang gần như lập tức.

“Tôi nghĩ nếu giết ai đó anh phải có động cơ... Nhưng chẳng có một lý do quái quỷ nào khiến cô ấy lại ‘muốn gây ra cái chết’ cho người phụ nữ đó, chẳng có lý do nào cả!... Thật là ngu ngốc, đó là điều ngu ngốc nhất mà tôi từng nghe nói... Ừm, như thế thì vẫn ngu ngốc. Tôi hi vọng họ sẽ nói thế, vì họ sẽ không có lấy một cơ hội nào để thắng. Phải không? Phải không?”

Khi cuộc trò chuyện có dấu hiệu đi đến hồi kết, tôi rời khỏi chỗ ngồi của mình trên cầu thang và đi vào phòng khách, làm ra vẻ đang vừa đi vừa đọc sách giáo khoa sinh học. Gần như lập tức bố đi xuống gặp mẹ ở nhà bếp.

“Anh xin lỗi đã nổi nóng,” ông nói, và tôi nghe ông mở tủ chứa rượu.

“Khó mà dằn lòng được,” mẹ tôi dịu dàng nói. “Có lẽ việc này thường xuyên xảy ra với anh ấy.”

“Việc người ta nổi trận lôi đình ấy à?”

“Em đoán thế.”

“Anh ta dường như chẳng phiền lòng.”

“Ừ.”

Cửa tủ lạnh đóng sập lại, và những viên đá va vào thành cốc trước khi bị nhấn chìm trong một vũng rượu dưới đáy.

“Để anh nói xem anh hiểu có đúng không,” bố lên tiếng, và ông kéo một chiếc ghế nhà bếp ra khỏi bàn, kéo lê nó trên sàn nhà tạo thành tiếng kêu rin rít. “Họ sẽ nói em đã chủ tâm giết Charlotte Bedford...”

“Họ có thể nói thế. Rõ ràng họ chưa quyết định điều gì.”

“Được rồi, họ có thể nói em đã chủ tâm giết Charlotte Bedford.”

“Em đoán thế.”

“Để cứu đứa bé.”

“Đúng. Họ có thể nói rằng em nghĩ Charlotte sắp chết, nhưng em phải biết rất rõ cô ấy còn sống khi em mổ đẻ.”

“Em phải...”

“Em phải biết. Em không thể làm việc em đang làm để kiếm sống mà không phân biệt được sự khác nhau. Em không thể phạm phải một... một sai lầm như thế.”

“Và em làm thế để cứu đứa bé...”

“Mổ đẻ á? Ừ. Họ nghĩ thế.”

Im lặng kéo dài. Sau đó một tiếng vọng từ bố tôi: “Ừ. Họ nghĩ thế.”

Từ ghế sofa, tôi không thể nhìn thấy cả bố lẫn mẹ, nhưng tôi hình dung bố đang xoay cốc rượu trong tay, còn mẹ đang ngồi bất động, hai tay khoanh lại trước ngực. Tôi biết rõ những hành động và tư thế đó.

“Sib này?” bố tôi nói tiếp sau một lúc im lặng.

“Vâng.”

“Anh muốn hỏi một chuyện.”

“Về Stephen hay về em?”

“Về em. Anh chỉ hỏi lần này thôi, và sẽ không bao giờ hỏi lại nữa. Nhưng anh phải biết. Anh phải hỏi...”

“Đừng nghĩ đến chuyện đó, đừng nghĩ đến chuyện hỏi nó. Em không thể chịu nổi nếu cả anh cũng nghi ngờ em.”

“Em đã trả lời rồi. Đó là tất cả những gì anh muốn nghe.”

“Đừng nghi ngờ em, Rand ạ.”

“Anh không nghi ngờ em.”

Mẹ tôi đã dành vô số ngày và đêm để đem sự sống đến cuộc đời này. Tôi cảm thấy thật bất công khi phiên tòa của bà lại được lập ra với khái niệm rằng bà có thể đã nhầm lẫn sự sống thành cái chết vào phút cuối.

Chiếc tàu lượn cảm xúc của chúng tôi đã vận hành như thế này: Bố mẹ tôi vừa bắt đầu xốc lại tinh thần sau cơn tuyệt vọng và nghi ngờ bản thân khiến họ gần như kiệt quệ trước khả năng một phiên tòa xử tội giết người cấp độ hai thì Stephen trấn an họ rằng tội danh ấy ít có khả năng. Thay vì từ từ tiến đến đỉnh đường lượn trong nhiều ngày, họ bị giật mạnh lên đỉnh bất thình lình - đầu tiên là mẹ tôi, trong một chuyến thăm buổi chiều của Stephen, còn bố tôi thì vào đêm hôm đó khi ông đi làm về.

Thông tin ấy đến với chúng tôi như với những người được chẩn đoán mắc bệnh giai đoạn cuối, thay vì là một tin đáng sợ hóa ra lại đáng mừng khôn xiết. Tôi thuyên giảm rồi, tôi còn sống được hai năm nữa ư? Thật tuyệt vời! Chỉ là bất cẩn gây chết người thôi ư? Ôi trời đất ơi, tuyệt quá!

Tôi rất ngạc nhiên khi về nhà sau buổi tập chạy vào một buổi chiều cuối tuần và thấy mẹ đang ngồi ở hiên trước nhà cùng Stephen. Đó là một ngày tháng tư kỳ lạ, mặt trời nóng bỏng chiếu sáng trên nền đất lạnh giá vẫn còn lầy lội, và đến năm giờ chiều, người ta vẫn có thể ngồi thong thả ngoài trời trên cầu tàu hoặc bậc tam cấp nhìn về hướng tây.

Mẹ tôi và Stephen mỗi người đang ngồi tựa lưng vào một cây cột trắng làm trụ đỡ mái hiên, hai chân khoanh lại tạo thành hình kim tự tháp. Họ dừng nói chuyện và mỉm cười với tôi khi trông thấy tôi ở cuối đường chạy xe vào nhà, và tôi có thể cảm thấy vị luật sư này đã đến với tin tốt.

Tôi có ngạc nhiên không khi Stephen đích thân đến từ tận Burlington để gặp mẹ tôi - một chuyến lái xe gần chín mươi phút - thay vì gọi điện thoại? Tôi đã ngạc nhiên, chỉ một thoáng. Và chính đêm đó trong bữa ăn tối, bố tôi đã đưa ra lời nhận xét đầu tiên trong số rất nhiều lời nhận xét cay nghiệt về Stephen khiến tôi tin rằng ông sẽ phải hối tiếc. Nhưng phản ứng đầu tiên của tôi khi trông thấy Stephen ngồi đấy vào khoảnh khắc ấy là ông sẽ là một người bạn tốt của mẹ tôi, và ông chắn chắn sẽ làm hết sức để bảo vệ bà. Nếu ông có những tình cảm dành cho bà mà hầu hết những luật sư khác sẽ cho là thiếu chuyên nghiệp, thì điều đó chỉ là vì lợi ích của chúng tôi mà thôi.

Họ đều đứng dậy khi tôi tiến đến đoạn đầu của lối đi bộ, và mẹ tôi đi về trước như để hôn tôi khi tôi đến bậc tam cấp. Tuy nhiên, bà đột ngột dừng lại, như thể sợ tôi sẽ ngượng nếu bà hôn tôi trước mặt Hastings. Bà đã đúng, tôi sẽ ngượng. Nhưng có lẽ tôi cũng ngượng không kém trước cách bà lúc lắc đầu về trước như một con gà tây rừng, và chỉ muốn bà dành cho tôi nụ hôn ấy cho rồi.

“Hôm nay thế nào rồi, con yêu?” bà hỏi, ý nói đến buổi tập luyện.

“Tốt ạ. Ổn hết.”

“Chân đau không?”

“Không. Chẳng đau tẹo nào.”

“Mẹ cháu nói cháu tham gia vào đội chạy rồi,” Stephen nói.

“Chỉ là đội dự bị thôi ạ,” tôi nói, một sự đính chính có ý nghĩa theo suy nghĩ của tôi.

“Ở lớp tám, như thế vẫn là một thành tích lớn đấy chứ,” ông nói.

Tôi gật đầu và nhìn chằm chằm vào đôi giày chạy, cách của tôi khi ấy để đón nhận lời khen một cách duyên dáng.

“Chú Hastings đến đây để cho chúng ta biết chuyện gì đang xảy ra,” mẹ tôi giải thích.

“Chúng ta? Bố về nhà rồi ạ?” tôi ngoái lại nhìn đường chạy xe vào nhà, tự hỏi có phải mình đi ngang qua xe Jeep của bố mà không nhận ra. Tôi đã không đi ngang qua nó; chẳng có chiếc Jeep nào ở đấy cả. Chỉ có chiếc Volvo xám quyền quý nhưng vuông vắn của Stephen.

“Chưa, bố con chưa về. Ý mẹ là chúng ta, gia đình ta.”

“Ồ.”

“Chú Hastings nói mẹ không gặp rắc rối nghiêm trọng như chúng ta nghĩ đêm hôm trước.” Bà nhoẻn miệng cười, nụ cười trông vừa chân thành vừa dũng cảm đối với tôi, nhưng giờ nghĩ lại tôi thấy nó có lẽ mang vẻ châm biếm. Bố mẹ tôi đã cố gắng hết mức để giải thích với tôi sự khác nhau giữa giết người cấp độ hai và bất cẩn gây chết người, một sự giết người có chủ đích với một hành vi đơn thuần khinh suất và phạm pháp, và dù phần lớn những gì họ nói đều rõ ràng dễ hiểu, nhưng nhiều chi tiết vẫn làm tôi chẳng hiểu gì trong những tuần đầu tháng tư ấy, và tôi vẫn đơn giản hóa tình cảnh của mẹ tôi thành một cảnh tượng cơ bản: Nữ thánh Joan bị thiêu tại cọc. Hình ảnh chính xác đến từ một bức tranh trong từ điển bách khoa của chúng tôi, và nó thật đáng sợ: một người phụ nữ đẹp trẻ hơn mẹ tôi một chút, mặc chiếc đầm bohemian như kiểu đầm của bà mụ, khuôn mặt nàng kiên cường - gần như mang vẻ anh hùng siêu thực - khi những ngọn lửa vàng và đỏ biến những thanh gỗ nâu thành màu đen. Da của Joan vẫn chưa bị bỏng, nhưng hơi nóng từ ngọn lửa đang khiến nàng đổ mồ hôi, và một số người trong đám đông vây quanh đang đứng giẫm lên con ngựa chết của Joan để xem rõ cái chết của nàng.

Trong mắt tôi, mẹ không phải là thánh, ngay cả vào lúc đó: tôi vẫn thấy khó chịu khi những thai phụ của bà lúc nào cũng được ưu tiên hơn tôi. Nhưng tôi tin bà đã tuyệt đối không làm gì sai trong trường hợp của Charlotte Bedford, và chắc chắn không đáng bị nuốt chửng trong đám lửa đột ngột bốc lên quanh bà. Và vì thế khi bà nói rắc rối của bà ít nghiêm trọng hơn - ít hơn rất nhiều đến nỗi Stephen phải lái xe ròng rã đến nhà chúng tôi ở Reddington - tôi lập tức cho rằng bà hẳn đã được ban lệnh ân xá hoàn toàn, và đám lửa đã bắt đầu tan biến. Người đàn ông tên Bill Tanner nọ đã suy nghĩ có tình có lý. Asa Bedford đã suy nghĩ có tình có lý. Cô Anne Austin ấy - Anne Austin đê tiện, giảo trá, phản phúc - đã suy nghĩ có tình có lý.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” tôi hỏi, và niềm hân hoan đầy kì vọng trong giọng nói của tôi hiện rõ đến nỗi ngay lập tức hai người lớn cùng lắc đầu để tôi bình tĩnh lại.

“Đó là tin tốt, Connie ạ, con đừng hiểu lầm,” mẹ tôi vội nói, “nhưng chúng ta chớ vội nhảy lộn vòng trên bãi cỏ.”

Tôi đã không nhảy lộn vòng ít nhất là năm, sáu năm rồi, và tôi nghĩ mẹ đã không làm thế trong hàng chục năm qua, nhưng tôi giữ lại suy nghĩ ấy trong đầu. Có thể nếu Stephen không có ở đó, tôi sẽ nói một câu đùa khiếm nhã, nhưng ông ta đang ở đó, vì thế tôi chỉ gật đầu và đợi bà nói tiếp.

“Vẫn còn rất nhiều người ngoài đó phát điên vì cái chết của Charlotte hơn cả chúng ta, nếu có chuyện ấy, nhưng ít nhất thì có vẻ như họ không nghĩ rằng mẹ của con là một -” bà dừng lại khi tìm trong mình sức mạnh cần có để nói thành lời từ ấy - “kẻ giết người.”

Rồi bà nhanh chóng nhoẻn miệng cười, và nói tiếp bằng giọng châm chọc qua đôi môi mở hé, “Họ chỉ nghĩ bà mẹ già của con là một bà mụ cực kì tệ hại.”

Stephen cúi xuống để phủi ít bụi khỏi đôi giày mọi màu đen bóng loáng nhỉnh-hơn-một-bậc của ông, rồi nói, “Sibyl này, tôi không nghĩ rằng người ta sẽ tin điều đó.”

“Xin thứ lỗi. Họ chỉ nghĩ là tôi không biết một người phụ nữ còn sống hay đã chết mà thôi.”

“Họ nghĩ rằng chị từng - một lần - phạm sai lầm.”

“Một sai lầm khủng khiếp. Một sai lầm tai hại.”

Stephen nhìn mẹ tôi chằm chằm, và tôi nhận ra qua nét biểu cảm trên gương mặt ông rằng ông đang cố gắng để kéo phanh cảm xúc của bà, để bà bình tâm lại vì tôi. Sau đó ông quay sang tôi, hai tay chắp sau lưng lúc ông tựa vào cột, rồi nói, “Cứ cho rằng toàn bộ sự vụ khó chịu này bị đưa ra tòa, đó có thể sẽ không phải là một phiên tòa xét xử tội giết người. Đó là tin mới.”

Tôi suy nghĩ một lúc, những từ giết người và ngộ sát và cố ý tạo thành mớ bòng bong khổng lồ trong đầu tôi. Tôi cố gắng nhớ tất cả những điểm khác biệt. Cuối cùng tôi bỏ cuộc và hỏi, “Đó sẽ là phiên tòa xử tội gì?”

“Bất cẩn gây chết người. Ít nhất thì đó có vẻ là tội danh hiện giờ.”

“Con có hiểu điều đó nghĩa là gì không, con yêu?” mẹ tôi hỏi.

“Đại khái.”

“Đại khái, chứ không phải hoàn toàn à?”

“Vâng ạ.”

“Điều đó có nghĩa là,” Stephen nói tiếp, “chính quyền bang sẽ nói rằng mẹ cháu chịu trách nhiệm trước cái chết của bà Bedford, và bà ấy đã hành động phạm pháp khi tiến hành mổ đẻ. Nhưng đó là một tai nạn. Bà ấy không cố ý hại ai.”

“Nếu họ nghĩ đó là tai nạn, vậy tại sao họ phải bận tâm tổ chức phiên tòa chứ?”

“Một việc là tai nạn không có nghĩa nó không phải là một tội ác.”

“Đó là tội ngộ sát, phải không ạ?”

“Là tội bất cẩn gây chết người. Đúng thế.”

Mười lăm năm. Cho một tai nạn. Tôi đứng đó, cố gắng hấp thu con số năm nhiều hơn khoảng thời gian tôi đã sống.

“Khi nào thì phiên tòa bắt đầu?” tôi hỏi.

“Vài tháng nữa. Hi vọng là vài năm nữa,” Stephen trả lời.

“Vài năm?”

“Nếu vụ việc phải ra tòa.”

“Stephen, tôi không muốn việc này kéo dài vài năm trời,” mẹ tôi nói.

“Sự trì hoãn là bạn của chúng ta, Sibyl ạ.”

“Tại sao?”

Ông nhún vai. “Một vụ như thế này luôn bắt đầu với rất nhiều năng lượng của bên công tố, và nó luôn mất dần động lượng theo thời gian. Đó là lẽ tự nhiên. Bill phải tập trung vào truy tố những kẻ xấu thực sự, không phải một bà mụ và bà mẹ tử tế như Sibyl Danforth. Và tất cả những người bác sĩ làm vẻ vô cùng giận dữ lúc này sẽ tiếp tục bận tâm đến những việc khác. Hãy cho rằng không có ai nữa chết trong một ca đẻ tại nhà: Cuối cùng họ sẽ hết quan tâm. Cuối cùng báo chí sẽ hết quan tâm. Vả lại, chị càng tại ngoại lâu mà không gây rắc rối gì, thì càng có khả năng chị sẽ được hưởng án treo ngay cả khi chị bị tuyên có tội.”

“Tại ngoại,” mẹ tôi lẩm bẩm, không hẳn là câu hỏi, vì đó có lẽ là kết luận đầu tiên bà rút ra rằng một tội danh sẽ đi kèm với một vụ bắt giam.

“Đó là một trong những khẳng định kì lạ mà không luật sư nào hiểu tường tận. Nhưng sự trì hoãn luôn có lợi cho bị cáo. Thật đấy. Điều cuối cùng chúng ta muốn là việc này bị đem ra xét xử trước Giáng sinh - hoặc mùa xuân năm sau.”

Mẹ tôi cầm những lọn tóc vàng bẩn của bà bằng ngón cái và ngón trỏ, ngắm nghía những đoạn màu nâu như thể bà không thích màu của chúng. Đưa đuôi tóc đến gần mắt, bà nói với tôi, “Có thể chúng ta sẽ ăn tối muộn đấy, cưng ạ, hay là con vào nhà làm món gì để ăn vặt trước nhé?”

Tôi không bao giờ gặp vấn đề về cân nặng, nhưng như nhiều đứa con gái mới lớn khác, tôi chỉ ăn thức ăn vặt ít hoặc không có calorie. Và thế là tôi đã đem một chai Coca ăn kiêng và một bát sữa kem chocolate vón cục đến phòng ăn, căn phòng tốt nhất để nghe lỏm cuộc nói chuyện ở hiên nhà. Chỉ vì mẹ không muốn tôi nghe bà và Stephen đang nói gì không có nghĩa là tôi không muốn nghe.

Những cánh cửa sổ chống bão vẫn còn được dán kín trong mùa đông, nhưng có một cái ở phía bên kia của tủ búp phê nằm khá gần bậc tam cấp trước nhà, đủ để tôi có thể ngồi bên dưới nó và nghe rõ cuộc nói chuyện của người lớn qua hai lớp kính.

Tôi ngồi tựa lưng vào tường, đặt bát kem trên đùi, cẩn thận để đầu vẫn nằm dưới bậu cửa sổ.

“Điều gì khiến anh nghĩ rằng vụ này có thể sẽ không ra tòa?” mẹ hỏi khi tôi đã yên vị.

“Có thể không cần phải như thế.”

“Đương nhiên chúng ta sẽ phải ra tòa.”

“Sao chị nói vậy?”

“Tôi đã đỡ đẻ quá nhiều em bé trong những năm qua, và chọc giận quá nhiều bác sĩ. Họ sẽ không buông tha tôi đâu.”

“Trước hết, Bill Tanner là người có lập trường. Ông ta sẽ không tiến hành khởi tố vì một bác sĩ sản phụ khoa nào đấy có mối thâm thù với chị...”

“Chúng ta không nói về một bác sĩ sản phụ khoa nào đấy, chúng ta đang nói về rất nhiều người trong số họ. Chúng ta đang nói về toàn thể Ủy ban nghề y.”

“Tôi hiểu điều đó. Tôi biết có vài bác sĩ không ủng hộ sinh đẻ tại nhà...”

“Hoặc là không ủng hộ bà mụ.”

“Hoặc không ủng hộ bà mụ. Nhưng dù tôi có nghĩ gì về Bill Tanner, ông ta không phải tuýp người tiến hành khởi tố nếu không thật sự tin rằng một tội ác đã xảy ra. Ông ta sẽ không làm tất cả những việc này chỉ vì chị đã chọc giận vài ông bác sĩ.”

“Nhưng đó là một yếu tố.”

“Cùng lắm chỉ là một yếu tố nhỏ. Họ có thể báo động ông ta ở chừng mực nào đó rằng trong mắt họ, vụ này có vấn đề, nhưng việc có tiến hành khởi tố hay không tùy thuộc vào quyết định của ông ta.”

“Vậy thì tại sao anh nghĩ chúng ta có thể không phải ra tòa?”

“Có lẽ chúng ta sẽ kịp thu xếp mọi việc.”

Cuộc nói chuyện chìm vào im lặng, và tôi giơ chiếc muỗng lên không trung. Tôi sợ họ biết tôi đang lắng nghe, và tôi không muốn tiếng động của chiếc muỗng trong bát tố giác tôi. Nhưng rồi mẹ lên tiếng, và tôi nhận ra bà chỉ đang tiêu hóa ý nghĩ về một vụ dàn xếp.

“Điều đó có nghĩa là gì?” bà hỏi. “Tôi trả một khoản tiền phạt và tôi tiếp tục sống cuộc đời của mình à?”

“Không, phức tạp hơn thế.”

“Hãy cho tôi biết.”

Tôi nghe Stephen cười, như một tiếng cười thầm tự ti. “Chị muốn biết quá nhiều thứ khi còn quá sớm. Chị đang đi quá nhanh đấy.”

“Tôi muốn biết những phương án của mình.”

“Còn quá sớm. Tôi còn không biết các phương án của chị. Còn tùy chính quyền bang xem xét vụ này như thế nào. Chúng ta xem xét vụ này như thế nào.”

“Vậy thì hãy cho tôi một ví dụ.”

“Một ví dụ? Một ví dụ về cái gì?”

“Một vụ dàn xếp.”

“Dàn xếp là thuật ngữ dân sự. Không phải là thuật ngữ hình sự.”

“Anh đã dùng từ đó, luật sư ạ.”

“Nếu tôi đã dùng thì tôi xin lỗi. Nhưng tôi nghĩ tôi chỉ nói thu xếp.”

“Luật sư các anh đều giống nhau,” mẹ tôi nhẹ nhàng nói. “Các anh cãi những điểm nhỏ nhặt nhất.”

“Chúa ơi, tôi hi vọng chị không phải làm việc với nhiều luật sư đến thế trong đời để có thể khái quát hóa một cách chính xác như vậy.”

“Ồ, một số thôi. Nhưng thường chỉ để biện hộ cho tôi những lần tôi giết người vì nhầm lẫn.”

“Nghiêm túc nhé, chị có bao giờ cần đến một luật sư hình sự chưa?”

“Tôi đã nói với anh vào hôm chúng ta gặp nhau là chưa.”

“Tôi chỉ hỏi để biết xem chị có từng bị kết án trước đây chưa - chứ không phải là chị đã dùng một luật sư hình sự chưa.”

“Trời ạ, dĩ nhiên là chưa! Chừng nào tôi mới cần đến một luật sư hình sự chứ?”

“Tôi không biết. Vì thế tôi mới hỏi.”

“Chưa, Stephen ạ, đây là một trải nghiệm mới trong đời tôi, tôi đảm bảo với anh như thế.”

“Tôi là người đầu tiên của chị.”

“Anh là người đầu tiên của tôi.”

“Tôi hãnh diện quá.”

“Một ả gái già như tôi có thể làm anh hãnh diện sao? Chúa ơi, anh đã li dị quá lâu rồi đấy.”

“Chị bao nhiêu tuổi?”

“Ba mươi tư.”

“Chỉ là một con nai vàng ngơ ngác thôi.”

“Ôi, tôi không nghĩ thế. Tôi chắc chắn là quá già để xổ ra những cách nói như ‘gái già’ và ‘trai già’ như tôi từng làm.”

“Tôi nghĩ vì cách nói đã cũ. Không phải chị.”

“Anh thiên vị rồi.”

“Vì tôi thích chị ư?”

“Vì anh không thuộc diện mang tư tưởng chống đối.”

“Chị không nghĩ tôi là một người làm cách mạng sao?”

“Còn lâu.”

“Một gã hippie?”

“Từ đó không đáng sợ sao? Tôi không tin nổi chúng ta lại từng dùng từ đó một cách nghiêm túc.”

“Chúng ta đã không dùng nó nghiêm túc, Sibyl ạ. Ít nhất tôi thì không.”

“Tôi cá lúc đó anh đúng nghĩa là người ghét dân hippie. Tôi cá chúng tôi đã khiến anh phát điên.”

“Tôi không ghét dân hippie! Tôi còn không biết một tay hippie nào. Sao chị nghĩ tôi ghét họ?”

“Vì anh cứng nhắc đến khó tin. Nhìn giày anh mà xem.”

“Tôi không cứng nhắc.”

“Anh nghĩ thế à?”

“Tôi nghĩ thế.”

“Được thôi, để xem. Hút cần sa bao giờ chưa?”

“Rồi.”

“Nhiều không?”

“Tôi không thích nó. Vì thế tôi không hút nữa.”

“Vậy anh đã hút một lần.”

“Hoặc hai lần, có lẽ thế.”

“Ở Việt Nam hay Vermont?”

“Việt Nam.”

“Như thế không tính.”

“Tại sao?”

“Tôi luôn hình dung đó là một nơi thật là khủng khiếp đến nỗi anh phải hút cần sa liền tù tì như hít không khí mới sống sót nổi.”

“Nếu ở trong rừng thì đúng là khủng khiếp. Tôi thì không phải vào rừng.”

“Vậy anh không cần phải hút cần sa à?”

“À, ít nhất không phải để sống sót.”

“Nhưng anh cũng chẳng muốn hút.”

“Tôi cảm thấy rằng, thưa bà Danforth,” ông ta nói với một sự trịnh trọng chuyên nghiệp, “bất kì phong trào nào dùng một loại thuốc cấm làm tiêu chí cơ bản để kết nạp thành viên là một phong trào không đáng để gia nhập.”

“Được thôi. Mấy câu này dễ hơn này. Có bao giờ sống một tuần trong công xã chưa?”

“May là chưa.”

“Ngủ trong xe tải?”

“Chưa.”

“Đi chân đất?”

“Dĩ nhiên.”

“Trong nhiều ngày liền ấy?”

“Trong vài giờ. Có thể.”

“Đeo chuỗi hạt?”

“Không phải là tín đồ.”

“Được rồi. Hãy hỏi những câu nghiêm túc hơn một tí nào: Có bao giờ thử liên lạc với Những Con Báo Đen chưa? Có thể là giúp tổ chức một chương trình ăn sáng cho những gia đình nghèo đói ở Boston?”

“Chị đã làm thế, đúng không nào?”

“Tôi đã làm. Có bao giờ tổng hợp thông tin về thai nghén cho phụ nữ nghèo ở Vermont, rồi in thành tờ rơi và đi đến từng căn nhà, từng chiếc nhà xe ngày này qua ngày khác để đảm bảo người ta nhận được chúng?”

“Cũng làm thế rồi à?”

“Tôi đã làm. Thế còn chỉ cảm thấy tình yêu thương tuyệt vời, kì diệu nhất dành cho con người - mọi loại người - chỉ vì họ là con người và vì thế thật là kì diệu? Có bao giờ cảm thấy như thế chưa?”

“Có lẽ khi không tỉnh táo.”

“Hoặc chỉ mong muốn thế giới ngừng quan tâm đến vật chất? Sự sở hữu? Địa vị? Muốn tất cả chúng ta ngừng phán xét nhau vì những gì chúng ta sở hữu?”

“Tôi thích những gì tôi sở hữu, Sibyl ạ,” Stephen nói, cố gắng giảm nhẹ cảm xúc của bà, và rồi tôi nghe ông giả vờ rú lên đau đớn.

“Chị thường đánh luật sư của mình lắm à?”

“Thế mà đau gì,” mẹ tôi nói, cười thành tiếng.

“Tin tôi đi, đau lắm đấy.”

“Tôi đã làm những việc đó, tôi đã cảm thấy những điều đó,” mẹ nói, phớt lờ ông ta. “Tôi đã ở cạnh những người như Raymond Mungo và Marshall Bloom. Tôi thực lòng tin rằng cuộc chiến đó là sai.”

“Tôi tin rằng chị đã nghĩ như thế.”

“Tôi sinh trưởng ở Vermont - không phải ở hạt Westchester hay một thị trấn nào đó ở Back Bay. Tôi biết những cậu con trai đến Việt Nam. Nhiều lắm. Hầu hết những cậu học cùng lớp trung học với tôi đều đi đến đó. Với tôi, cuộc chiến đó không chỉ là một trào lưu thịnh hành nào đó để mà phản đối. Tôi rất lo lắng cho những cậu bạn mà tôi biết rõ - đôi khi rất rõ - cũng như những dân làng mà tôi chưa từng gặp.”

“Những chàng trai như tôi.”

“Đúng, những chàng trai như anh. Làm dân hippie đâu chỉ có nghĩa là đi lăng quăng không mặc áo ngực, hoặc quan hệ tình dục với những chàng trai mà mình chả biết tí gì. Ngày nay người ta rất dễ nhìn lại những năm tháng đó và giễu cợt chúng tôi vì cách ăn mặc hoặc thuốc phiện hoặc những tấm áp phích ngớ ngẩn. Nhưng ở mặt tích cực nhất, toàn bộ... thời đại đó là nhằm làm cho thế giới trở thành một nơi ít đáng sợ hơn.”

Một tấm ván kêu kẽo kẹt khi một trong hai người lớn bên ngoài đứng dậy. Một cái bóng lướt qua bậu cửa sổ, và giọng nói của Stephen gần hơn.

“Tôi không có ý chế giễu những việc chị đã làm,” ông ta nói.

“Anh có chế giễu gì đâu. Tôi chỉ nói cho anh biết vậy thôi.”

Sau đó tôi nghe tiếng gỗ chuyển động dưới chân mẹ tôi, khi bà đứng dậy phía sau ông. Hai người im lặng trong một lúc lâu và tôi hình dung họ đang ngắm mặt trời lặn, hoặc đang dán mắt vào những cái bóng có hình như kem ốc quế do hàng cây vân sam xanh hắt xuống ở rìa phía tây của bãi cỏ nhà chúng tôi.

“Anh chưa nói cho tôi biết chúng ta sẽ thu xếp thế nào,” cuối cùng bà nói.

“Tôi chưa nói ư?”

“Chưa.”

“Được rồi, xem nào,” Stephen bắt đầu, những lời đầu tiên đó cất lên sau một tiếng thở dài thườn thượt. “Đây là nơi mà ý nghĩ về Vermont nhỏ bé luôn có vẻ đúng nhất với tôi. Bill và tôi quen biết nhau, và chúng tôi hiểu rõ hệ thống này. Khi tôi dùng từ thu xếp, ý của tôi là thương lượng. Hoặc ngã giá. Còn tùy thuộc chính quyền bang có hoặc không có gì trong cách tiến hành của họ, tôi có thể hình dung cảnh tôi ngồi xuống với Bill vào mùa xuân năm nay và nói với ông ta, ‘Bill này, chúng ta đều biết có thể thu xếp vụ này, hoặc là chúng ta có thể làm cho cuộc sống của mình trở nên khổ ải trong sáu tháng với một phiên tòa.’”

“Chúng ta sẽ thương lượng chuyện gì?”

“Có thể là tội danh. Và nếu chúng ta đồng ý, thì có thể là bản án.”

Tôi lưỡng lự trước từ bản án, và rõ ràng mẹ tôi cũng thế. “Bản án?” bà nói, một cơn rùng mình hoảng hốt nhỏ nhoi nhưng không nhầm lẫn được đi xuyên qua giọng nói của bà. “Tôi đã không làm gì sai!”

“Mọi điều tôi nói ở đây đều là phỏng đoán, Sibyl ạ. Tất cả chỉ là... chỉ là nói chuyện thôi. Được chứ?”

“Tôi không nghĩ mình thích kiểu nói chuyện này.”

“Ái chà, một bản án có thể chẳng là vấn đề gì cả. Vì thế hãy đừng nói về nó lúc này. Hợp lý mà, phải không?”

“Không. Tôi muốn anh nói tiếp.”

“Chị chắc không?”

“Đương nhiên là chắc. Ý nghĩ chúng ta đã tuyên án tôi rồi khiến tôi hốt hoảng một chốc lúc nãy, nhưng giờ thì tôi ổn rồi.”

“Được rồi. Đây là một cách chúng ta có thể thu xếp vụ này. Chúng ta thừa nhận có tội với tội danh hành nghề y không giấy phép - và chúng ta nộp một khoản phạt. Không to tát, ít nhất là không to tát trong bối cảnh lớn hơn. Sau đó với tội danh bất cẩn gây chết người, chúng ta chấp nhận một bản án bị hoãn. Cứ xem như là hai hoặc ba năm và một khoản phạt nhỏ khác, nhưng không có lời kết án nào vào cuối thời gian hoãn xét xử. Như thế được không?” Stephen hỏi, và tôi hiểu rằng ông ta nghĩ vừa mới vẽ ra một viễn cảnh tuyệt vời cho mẹ tôi, một viễn cảnh mà ông tin sẽ phục hồi sự sự tin và tâm trạng của bà.

“Cho tôi biết một bản án bị hoãn là thế nào,” bà nói.

“Chị nhận có tội với tội bất cẩn gây chết người. Thông thường, như thế có nghĩa là phải ở tù từ một đến mười lăm năm. Vụ này thì không. Một bản án bị hoãn là việc hoãn thi hành án trong vòng - dù sao thì đây cũng chỉ là ví dụ của tôi thôi - hai hoặc ba năm. Nếu đến cuối thời gian đó chị đáp ứng mọi điều kiện cho việc hoãn án, thì sẽ không có thời gian ở tù và không bị lưu vào tiền án. Chỉ bị phạt thôi.”

“Điều kiện là gì? Giống như bị giam tại gia ư?”

“Trời ạ, không phải! Chị muốn đi muốn về cứ việc thoải mái, cuộc sống của chị hoàn toàn bình thường. Có thể chị sẽ phải làm một số nghĩa vụ công ích. Nhưng chủ yếu thì chị chỉ cần không phạm pháp trong suốt thời gian hoãn án hoặc là - và tôi nghĩ việc này là không thể tránh khỏi - hành nghề bà mụ.”

“Và sau hai hoặc ba năm?”

“Sẽ như chưa có gì xảy ra.”

“Sẽ không bao giờ như thế. Không thể trong bất kì tình huống nào.”

“Ý tôi là trong mắt của luật pháp.”

“Vậy nếu tôi bỏ nghề trong vài năm, chính quyền bang sẽ nhượng bộ? Đúng không?”

“Đó là một... khả năng.”

“Và sẽ không có tiền án gì cả?”

“Không tiền án với tội danh bất cẩn gây chết người. Trong món hầm mà tôi mới nấu, chị phải nhận có tội hành nghề y không giấy phép.”

“Và đó là một tội nhẹ?”

“Thật khó tin, đúng là như vậy.”

“Món... món hầm này có khả thi không?”

“Tôi chưa biết được.”

“Nhưng anh không nghĩ thế, đúng không?” mẹ tôi nói. Cả hai chúng tôi đều nghe thấy sự nghi ngờ trong giọng nói của Stephen.

“Sibyl ạ, tôi quả thực không biết được. Tôi chỉ biết là nó khả thi. Có lẽ án treo là khả thi...”

“Án treo?”

“Hãy giả sử chính quyền bang xử mạnh tay vụ này, một vụ mà chúng ta không thể thắng. Không có cách nào khác. Để đổi lấy không ngồi tù chúng ta nhận có tội, và chị nhận bản án treo cùng vài năm tù treo. Cứ thế, cuộc sống của chị tiếp diễn gần như trước, ngoại trừ chị sẽ phải thường xuyên gặp nhân viên quản chế, và chị bỏ nghề bà mụ.”

Rất chậm rãi, nghe như đang phê thuốc và quả quyết không thể lay chuyển - mỗi chữ cái trong một từ là một lời tuyên ngôn - mẹ tôi nói, “Đó không phải là một phương án, Stephen ạ. Tôi không thể nào bỏ nghề được. Tôi sẽ không bao giờ bỏ nghề.”

Mặt trời lúc này đã lặn xuống dưới rặng núi, và gian phòng quanh tôi đang tối dần.

“Tôi nghi ngờ khả năng sự việc sẽ diễn tiến đến mức đó,” Stephen lẩm bẩm sau một phút.

“Anh không tin điều đó. Anh tin rằng nó sẽ diễn ra đúng như vậy.”

“Tôi không biết. Và tôi sẽ không biết trong nhiều tháng nữa.”

“Nhiều tháng...”

“Có thể còn lâu hơn. Như tôi đã nói, sự trì hoãn giúp chúng ta nhiều hơn là giúp họ.”

“Tôi không muốn vụ này kéo dài.”

“Tôi hiểu.”

“Và tôi sẽ không dừng công việc đỡ đẻ.”

Tôi nghe tiếng xe Jeep của bố khi ông đỗ xe ở đường chạy xe vào nhà rồi tắt máy.

“Tôi nghĩ chị sẽ phải dừng lại, Sibyl ạ. Ít nhất là trong một thời gian.”

“Đến khi phiên tòa diễn ra?”

“Hoặc đến khi chúng ta thu xếp với chính quyền bang.”

“Và anh nói nó có thể kéo dài nhiều tháng.”

“Ít nhất là thế.”

Cửa xe Jeep đóng sầm, tôi thấy bóng của cánh tay mẹ khi bà vẫy bố.

“Làm ơn, Stephen,” bà nói, giọng bà vừa đủ thấp để bố tôi không nghe thấy, “hãy nhanh chóng kết thúc vụ này. Càng nhanh càng tốt.”

“Vụ này càng kéo dài thì...”

“Làm ơn đi, Stephen,” bà lại nói. “Nhanh lên. Vì tôi và gia đình tôi: Hãy kết thúc nhanh chóng vụ này.”

Nhiều năm sau, khi mẹ tôi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi - là ung thư biểu mô tuyến, loại ung thư phổi mà người không hút thuốc thường mắc phải - tôi thấy bố trở thành một người chăm sóc vô cùng khéo léo. Tôi thấy một con người mềm mại bên trong ông nổi lên, con người đó mua một chiếc máy xay hoa quả Vita-Mix, rồi làm cho bà món súp lơ xay và nước ép cà rốt vào buổi xế chiều. Mẹ nói với tôi rằng bố làm hết các việc giặt giũ và đi chợ khi bà không còn sức, và tôi thấy ông đã lấp đầy căn nhà bằng hoa quả như thế nào. Tôi biết ông thường lái xe đến cửa hàng bách hóa ở Burlington để mua cho mẹ mũ ôm đầu, mũ có vành và khăn choàng. Và, đến những ngày cuối, thỉnh thoảng tôi lại thấy ông ngồi kiên nhẫn cạnh bà khi bà nằm trên giường chơi ô chữ, bầu bạn với bà như một người lắng nghe nhiệt tình và lặng lẽ. Đôi khi chiếc giường nằm trong phòng ngủ của họ, đôi khi ở trong bệnh viện.

Tôi có thể viết mà không e dè hay đong đếm rằng ông đã là một người nuôi bệnh ung thư ngoại lệ: vừa là y tá, vừa là chuyên gia dinh dưỡng, vừa là bạn đời, vừa là bạn tâm giao. Vừa là Knute Rockne[14].

Nhưng, đương nhiên mẹ tôi không mắc bệnh ung thư vào năm 1981, bà bị khởi tố vì một trọng tội. Bà bị cáo buộc tước đi mạng sống của một người khi lẽ ra bà đang hỗ trợ cho sự chào đời của một người khác.

Vì thế, mẹ tôi không cần một y tá hay chuyên gia dinh dưỡng hay người nuôi bệnh ung thư, bà cần một luật sư. Do đó tôi nghĩ vai trò người chăm sóc đặt lên vai của Stephen Hastings thay vì trên vai của bố tôi cũng là chuyện bình thường, và bố chẳng qua là ghen tị mà thôi: Ông muốn giúp. Ông muốn được gánh trách nhiệm. Ông muốn có thêm việc để làm.

Tôi cẩn thận quan sát bố mẹ vào buổi tối Stephen ghé qua để báo tin, và rõ ràng mẹ tôi đã không nhận ra những tin tốt ông đem đến sau những tin xấu. Chắc chắn bà đã cảm thấy nhẹ nhõm vì nhiều khả năng chính quyền bang sẽ khởi tố bà tội bất cẩn gây chết người thay vì giết người cấp độ hai, nhưng thông tin này đã bị che mờ trước ý nghĩ rằng bà sẽ phải dừng công việc đỡ đẻ trong một khoảng thời gian. Có thể là mãi mãi.

Ngẫm lại, tôi nhận ra phản ứng của mẹ lẽ ra không nên khiến tôi ngạc nhiên: Một tội danh hình sự là một điều trừu tượng đối với bà, một điều bà không thể hiểu tường tận. Nhưng nghề bà mụ là sứ mệnh của bà, đó là việc bà đã được chọn để làm trong đời. Chính ý nghĩ phải chấm dứt hành nghề - dù chỉ tạm thời - khiến bà lo lắng hơn nhiều so với tin tức của vị luật sư về tội trạng giảm nhẹ.

“Em phải làm sao, nói với một người như May O’Brien rằng em không thể giúp cô ấy sinh con ư?” bà hỏi bố tôi đêm hôm đó trong lúc lấy nĩa ghim thức ăn trên đĩa.

“Anh nghĩ là em phải giới thiệu cô ấy cho người khác,” bố tôi đáp. “Tracy Fitzpatrick chẳng hạn.”

“Tracy sống ở Burlington, Chúa ơi. Chị ấy ở xa quá, không thể giúp các bà mẹ của em được.”

“Còn Cheryl thì sao?”

“Cheryl Visco còn chẳng có một giây để thở; chắc là chị ấy không thể giúp được ai khác. Vả lại, chị ấy cũng ở xa quá.”

“Thế còn...”

“Và em quen thân với những người phụ nữ này - đó là điều quan trọng nhất! Họ tin tưởng em, không phải Cheryl hay Tracy. Họ còn không biết Cheryl hay Tracy là ai. Thế còn người tên là Peg Prescott thì sao? Cô ấy sẽ hạ sinh vào tháng tới. Em phải nói gì với cô ấy bây giờ? ‘Ồ, Peg ạ, chuyện chẳng có gì to tát cả. Cứ đi đến phòng sinh ở bệnh viện ấy, và một bác sĩ nào đó mà em chưa gặp bao giờ sẽ chăm sóc cho em. Chẳng có gì to tát, chẳng to tát tẹo nào.’ Cô ấy sẽ phát điên, cô ấy chắc chắn sẽ phát điên.”

Không ngước lên từ đĩa thức ăn của mình, bố tôi hỏi, “Stephen nói em nên làm gì?”

“Anh ấy không có giải pháp.”

“Thật không?”

“Thật.”

“Chúng ta đã ném tiền qua cửa sổ rồi ư?”

“Như thế nghĩa là sao?”

“Anh chỉ thấy ngạc nhiên thôi. Anh nghĩ vị luật sư một-trăm-đô-la-một-giờ của chúng ta phải có đáp án cho mọi thứ chứ.”

“Em có bỏ lỡ chuyện gì không? Hôm nay Stephen có nói gì chọc tức anh không?”

“Anh nghe giống như bị chọc tức lắm à?”

“Đúng thế đấy.”

Tôi cố gắng nhắc bố mẹ nhớ đến sự hiện diện của tôi trước khi cuộc cãi vã của họ leo thang, đứng dậy làm ra vẻ muốn đi lấy một cốc sữa gầy nữa. Tôi hỏi có ai muốn thêm gì từ tủ lạnh không trong lúc tôi đứng lên.

“Nói thật đấy, Stephen có nói gì làm anh nổi nóng không?” mẹ tôi nói tiếp sau khi trả lời tôi rằng bà không cần gì, còn bố thì vẫn giữ im lặng.

“Không.”

“Vậy tại sao lại có giọng điệu này?”

“Anh chỉ nghĩ là thật... thật kì cục khi anh ta lái xe đến tận đây hồi chiều này.”

“Việc đấy có gì kì cục? Anh ấy là luật sư của chúng ta mà.”

“Có lẽ kì cục là từ không chính xác,” bố tôi nói. “Anh chỉ cảm thấy anh ta không nên lái xe đường xa như thế đến đây để báo cho em một tin tức mà anh ta có thể làm đơn giản bằng cách gọi điện thoại. Nghe có vẻ như thiếu trách nhiệm về mặt tài chính quá. Có vẻ như anh ta hoang phí tiền bạc quá. Tiền bạc của chúng ta.”

“Có lẽ luật sư không tính phí lái xe.”

“Và có lẽ có một con cá mọc cánh ở cái ao sau nhà.”

“Nếu con làm việc ở Burlington, con sẽ muốn biến khỏi đó càng nhanh càng tốt,” tôi nói trong lúc ngồi xuống. Tôi không hề tin điều đó - thật lòng mà nói, ở tuổi đó tôi nghĩ rằng làm việc tại Burlington là một điều rất xa hoa đẹp đẽ - nhưng dường như đó là điều mà bố mẹ tôi thích nghe, và nó có thể giúp họ ứng xử văn minh.

“Thật thế à?” mẹ hỏi tôi. Bà khẽ mỉm cười, và rõ ràng bà không tin một lời nào của tôi.

“Vâng. Biến khỏi tiếng ồn đó. Những chiếc xe đó.”

“Những cửa hàng băng đĩa đó,” bà nói thêm. “Trung tâm mua sắm to lớn đó với tất cả những cửa hàng thời trang trên Phố Church đó.”

“Con không nói ở thành phố thì cái gì cũng xấu,” tôi giải thích. “Chỉ là nếu ở đó mỗi ngày, thì thỉnh thoảng ra ngoài đây có lẽ cũng thú vị đấy chứ.”

“Mẹ đồng ý,” mẹ tôi nói, dịu dàng vuốt tóc tôi một lúc.

Bố bực dọc nhìn tôi, nhưng ông cảm ơn ý định của tôi nhiều đến nỗi không thể nổi nóng với tôi vì đã đứng về phe mẹ. Ông cũng mỉm cười và nhướng mày.

“Thôi được rồi. Có thể chuyến viếng thăm nho nhỏ của anh ta đến đây hồi chiều chẳng tốn một xu nào.”

“Rõ ràng nó đã tốn một ít gì đấy,” mẹ nói.

“Ồ, có thể là không,” bố nói, giọng pha chút mỉa mai. Ông chồm qua bàn và hôn trán bà. “Có lẽ bùn tháng tư là một sự hấp dẫn lớn với một nhà thơ như luật sư của chúng ta. Có lẽ nó khêu gợi quá. Có lẽ vẻ đẹp của bùn là thứ duy nhất đã lôi kéo Stephen đến đây.”

Khi bố và tôi cùng xem ti vi sau bữa tối, tôi nghe mẹ nói chuyện điện thoại với một người bạn làm nghề bà mụ ở phía Nam của bang. Dường như một bệnh nhân mới của mẹ, một giáo sư cao đẳng ở giai đoạn cuối của thai kì thứ ba, đã không giấu nổi sự lo lắng và hồi hộp khi ở gặp mẹ tôi tại buổi khám thai sáng hôm đó. Huyết áp của cô cao hơn rất nhiều so với lần đầu tiên mẹ tôi khám cho cô, một tháng trước.

Sau một cuộc nói chuyện kéo dài - chính xác thì mẹ tôi đã dùng từ chất vấn trên điện thoại vào tối hôm đó - về mọi thứ có thể diễn biến xấu trong một ca đẻ tại nhà, bệnh nhân ấy bắt đầu hỏi những câu rất chi tiết về chuyện đã xảy ra ở Lawson. Theo cố vấn của Stephen, mẹ tôi từ chối nói về chuyện đó. Rõ ràng mẹ tôi và cô giáo sư cuối cùng đã đạt thỏa thuận rằng cô ta nên nghĩ lại quyết định sinh con tại nhà, và nghĩ đến việc liệu cô có thể sẽ vui vẻ hơn không nếu đẻ con với một bác sĩ trong bệnh viện.

Nhắc lại cuộc trò chuyện ấy với người bạn khiến mẹ tôi rất buồn, bố và tôi đều nghe giọng của mẹ trở nên cáu bẳn. Khi bà gác máy, bố đi vào nhà bếp và âu yếm ôm bà thật lâu.