← Quay lại trang sách

- 13 -

Tôi đi siêu thị mua sắm, như thể chẳng có gì xảy ra. Thật khó tin. Tôi đẩy xe qua lại các lối đi, tôi gật đầu với mọi người và họ gật đầu với tôi. Tôi chọn hoa quả, một việc chẳng bao giờ dễ dàng vào mùa này của năm, và tôi cố gắng tìm những thứ mà tôi và Connie định ăn. Hôm qua Rand và tôi đã tính toán các hóa đơn hàng tháng, và chúng tôi đã thanh toán hết. Chúng tôi đảm bảo còn đủ tiền trong tài khoản, như thể cuộc sống vẫn hoàn toàn bình thường và mối lo lớn nhất của chúng tôi là séc bị từ chối. Hôm nay tôi đã đặt mua hai chậu việt quất từ vườn ươm, còn Rand đặt mười mét khối gỗ. Anh nói hi vọng chúng tôi nhận được hàng trước ngày lễ Tưởng niệm để anh kịp xếp gỗ thành đống trước Lễ Quốc khánh. Rand là thế: người duy nhất mà tôi biết chuẩn bị xếp gỗ cho mùa đông từ trước cả khi mùa hè kết thúc. Thật ra, việc mua sắm ở siêu thị nay đã hơi khác một chút. Không hẳn là kéo dài hơn, nhưng tôi biết tôi đã dành nhiều thời gian ở khu hàng tạp hóa hơn tôi từng làm nhiều năm qua. Không phải là cố ý, nó chỉ tự nhiên xảy ra thôi. Tôi đỗ xe trong bãi tầm một giờ ba mươi, và đến lúc tôi đi ra đã là gần ba giờ. Một giờ rưỡi đồng hồ. Tôi nghĩ thông thường tôi chỉ mất bốn mươi lăm phút. Không phải vì hàng người chờ tính tiền quá dài, hoặc người ta chặn tôi lại để nói chuyện. Có chăng chỉ là giờ đây dường như người ta tránh đường ra để khỏi chặn tôi lại nói chuyện. Họ gật đầu khi họ thấy tôi, và rồi nhìn chăm chú phát sợ vào nhãn dán hộp đậu Hà Lan hoặc gói đỗ trong tay họ để không phải nhìn tôi nhiều hơn mức cần thiết và có nguy cơ phải nói chuyện với tôi. Thật lạ lùng. Vì thế tôi không biết chính xác tại sao buổi mua sắm hôm nay lại kéo dài đến thế. Tôi chỉ làm việc của mình, nhưng tôi đoán mình di chuyển chậm đến mức khó tin. Tôi và chiếc xe đẩy, chỉ ngó nghiêng dọc theo các kệ hàng. Nhưng tôi có một giả định, tôi từng đọc ở đâu đó rằng một công việc có thể chiếm lượng thời gian mà ta có thể dành cho nó. Ví dụ như, nếu bạn dành cho một công việc ba mươi phút, thì bạn sẽ làm việc đó trong ba mươi phút. Nhưng nếu bạn cho nó được một giờ, nó sẽ ngốn hết một giờ. Nghe có lý. Và tôi nghĩ đó là điều xảy ra hôm nay tại khu hàng tạp hóa. Bình thường tôi sẽ mua sắm xong trong vòng chưa đến một giờ vì tôi phải về nhà để khám thai. Tôi thường có hai hoặc ba bà mẹ hẹn khám thai trong khoảng, ví dụ như, hai giờ rưỡi đến năm giờ, và tôi phải quay về để kiểm tra cân nặng và nước tiểu, lắng nghe nhịp tim của thai nhi. Tôi phải quay về để đo vòng bụng và kiểm tra chứng phù nề ở thai phụ. Không, hôm nay thì không, hết rồi. Ít nhất là không trong lúc tôi - và tôi thích cách diễn đạt này - “tại ngoại có điều kiện.” Thật là một khái niệm thú vị. Với nét mặt cực kì thẳng thắn, như đang giải thích với tôi về một mã thuế hay gì đấy, vị thẩm phán đặt ra năm điều kiện để tôi “được thả.” Thứ nhất, ông ta nói, tôi phải đồng ý xuất hiện trước tòa và tôi phải giữ liên lạc với luật sư của tôi. Hai điều kiện đó nghe cũng có lý. Nhưng rồi, như tôi là một tên tội phạm tàn bạo tuần nào cũng đi cướp các cửa hàng bách hóa, ông ta bảo tôi không được phạm một tội khác (làm như tôi đã phạm tội rồi không bằng!) và tôi không được dính líu đến ma túy (tôi không nghĩ việc này nhằm nói rằng nếu không phải đang bị quản chế thì tôi sẽ hút ma túy khi được mời, mà chỉ đơn thuần là một cách nữa để giễu cợt tôi). Ðiều kiện duy nhất làm tôi khó chịu - không, nó không chỉ làm tôi khó chịu, nó còn khiến tôi cùng lúc vừa phát điên vừa sợ toát mồ hôi - chính là điều kiện về nghề bà mụ. Tôi không được hành nghề cho đến khi phiên xét xử này kết thúc. Ðó là điều kiện làm tôi đau đớn. Tôi không được đỡ đẻ đứa bé nào nữa, tôi không được chăm sóc bà mẹ nào nữa. Vì thế hôm nay thay vì khám xem May O’Brien có cảm nhận được thai máy chưa hay cổ tử cung của Peg Prescott có bắt đầu mỏng chưa, thì tôi lại đi chợ. Tôi mua củ cải đường. Tôi đọc tỉ mỉ những chai sốt trộn xà lách. Tôi chọn những lon nước ngọt có đường cho Rand, và nước ngọt không đường cho Connie. Và tôi nghĩ tôi đã làm tất cả những việc đó với tốc độ của một người chết. trích nhật kí bà mụ Sibyl Danforth MẸ TÔI BỊ KHỞI TỐ tội bất cẩn gây chết người và hành nghề y không giấy phép vào ngày thứ tư, 9 tháng tư, khoảng hơn một tuần sau khi chuyên gia pháp y nộp kết quả khám nghiệm tử thi cuối cùng. Tôi biết vào tối thứ ba rằng bà sẽ bị bắt ngày hôm sau, và tôi dành toàn tiết Pháp văn và phần lớn tiết đại số vào sáng thứ tư để hình dung điều đang xảy ra vào thời điểm đó ở nhà tôi - cũng như trong chiếc xe cảnh sát, và ở tòa án ở phía Bắc, tại Newport. Stephen đến nhà tôi vào thứ ba, lần này đến vào cuối ngày và ở lại dùng bữa tối. Bố tôi có vẻ như ít quan tâm đến việc chiếc đồng hồ của ông luật sư đang tính tiền hơn so với thái độ của ông cách đấy một tuần, căn cứ trên lý do Stephen đến Reddington và sức nặng từ thông tin của ông. Hơn nữa, vào đêm đó Stephen đã có thể dẫn chúng tôi từng bước qua toàn bộ quá trình mà mẹ tôi sẽ chịu đựng trong ngày hôm sau, và làm cho nó giống như một loạt những thủ tục buồn tẻ nhưng rất đỗi bình thường, hơn là một chuỗi những sự sỉ nhục tăng dần và cuối cùng có thể dẫn đến nhà tù. Dù sao đi nữa, ý nghĩ mẹ tôi đang bị bắt lấp đầy những khoảng tối nhất trong trí tưởng tượng mới lớn của tôi, đồng thời đe dọa phần cô bé chưa kịp lớn trong tôi. Lúc này tôi trông thấy mẹ đang bị cảnh sát trấn áp như cảnh mà tôi đã xem lướt qua trên tin tức, lúc sau tôi lại thấy mình như một đứa bé mồ côi mẹ, một đứa trẻ đơn độc một thân một mình kéo dài ra trong thân hình một cô gái mới lớn. Là con gái của một bà mụ, dĩ nhiên tôi đã trải qua nhiều buổi chiều và nhiều khoảng thời gian dài ở một mình, vì thế ý nghĩ về một bà mẹ vắng mặt lẽ ra không khiến tôi hoảng sợ. Nhưng sáng hôm đó ở trường học, nó đã làm tôi sợ hãi, đặc biệt là vì mẹ tôi đã khăng khăng từ chối để Stephen hoặc bố chở bà đến Newport để bà có thể tự nộp mình một cách kín đáo. Bất chấp sự cam đoan của Stephen rằng tự nộp mình không hề hàm ý nhận mình làm sai hoặc có tội, bà vẫn một mực đòi để cho chính quyền đến Reddington bắt mình. “Nếu họ muốn bắt tôi, họ phải đến đây,” bà nói vào tối thứ ba, không ngước lên từ đĩa thức ăn mà bà chẳng hề quan tâm. Vì thế, để tránh những hình ảnh tồi tệ nhất che phủ đầu óc mình vào sáng thứ tư, tôi đã nghĩ đi nghĩ lại viễn cảnh mà Stephen đã trình bày, cố gắng tập trung vào sự tẻ nhạt đơn thuần mà mẹ tôi đang trải qua vào lúc đó. Một chiếc xe cảnh sát Vermont từ đồn cảnh sát ở Derby đang tiến đến nhà chúng tôi tại Reddington, len lỏi trên đường số 14 qua Coventry, Irasburg, và Albany. Bộ đèn trên nóc xe nhấp nháy, nhưng chiếc còi hụ thì im lặng. Nó đang vượt qua những chiếc xe chạy cùng chiều với vận tốc tối đa tám mươi cây số một giờ, và chạy qua những chiếc xe tải chở hàng và xe thùng chở sữa chạy lắc lư cùng chiều ở vận tốc năm mươi sáu cây số một giờ. Nó giảm tốc độ khi chạy ngang qua cửa hàng bách hóa và nhà thờ ở trung tâm Reddington, rồi sau đó rẽ vào con đường đất dài chạy vào nhà tôi. Nó đỗ xịch lại sau chiếc xe nhà ga của mẹ và cạnh chiếc Jeep nhỏ của bố. Hai cảnh sát mặc đồng phục màu xanh lá cây bước ra khỏi xe và đi theo con đường đến cửa trước nhà chúng tôi, có lẽ giống hệt cách của hai người cảnh sát đã xuất hiện ở nhà tôi tháng trước: Leland Rhodes và Richard Tilley. Họ lịch sự giải thích với mẹ tôi chính xác tại sao bà bị bắt, dẫn ra ngày tháng cụ thể và các tội danh chính thức. Trong những khoảnh khắc ngắn tôi nhìn thấy giáo viên Pháp văn của mình và chiếc bảng đen sau lưng ông, nhưng ông nhanh chóng biến mất khi tâm trí tôi trôi về những sự kiện đang diễn ra tại nhà. Một trong hai người cảnh sát đang tra tay mẹ tôi vào còng, còn người kia đang dẫn bà đến băng ghế sau trong xe cảnh sát. Bố tôi và Stephen Hastings không được phép ngồi cùng bà trong chuyến xe về phía Bắc đến Newport mà phải tự lái xe theo sau. Họ đến đồn cảnh sát vào tiết đại số của tôi. Khi những hàng X và Y trên trang giấy trước mặt tôi biến hóa từ biến số và vector thành những đường trừu tượng, ngón tay mẹ tôi đang bị lăn mực, dấu vân tay của bà bị lưu vào hồ sơ, và khuôn mặt bà bị chụp ảnh phía trước và một bên. Với những đầu ngón tay còn dính mực xanh, bà bị đưa đến tòa để đứng trước thẩm phán. Stephen được phép đứng cạnh bà, nhưng bố tôi phải ngồi ở một băng ghế giữa những hàng ghế tạo thành hai khối vuông sau lưng bà. Tôi tưởng tượng vị thẩm phán ngồi sau chiếc bàn không chỉ to khủng khiếp mà còn nằm cao hơn những đồ đạc còn lại trong phòng xử án một cách hết sức không cân đối. Tôi thấy ông ta nhìn xuống vị luật sư mặc bộ complet doanh nhân kiểu thành thị Burlington và người phụ nữ mặc chiếc áo đầm in hình những bông hoa diên vĩ xanh, đeo dây chuyền ngọc trai và tô son môi. Theo đề nghị của Stephen, mẹ tôi đã cố gắng ăn mặc ra vẻ dân dã và hiền lành hết mức có thể, vì thế bà đã đeo sợi dây chuyền ngọc trai và tô son màu môi mà thông thường bà chỉ dùng đến trong những trường hợp đặc biệt như đám cưới và dạ tiệc đón giao thừa. Stephen đã khổ sở hết sức ở bữa tối hôm trước để giải thích rõ với chúng tôi rằng mẹ tôi sẽ không vào tù ngày hôm sau dù chỉ trong chốc lát, vì thế vào sáng thứ tư, tôi ít nhất được cứu khỏi hình ảnh những song sắt và phòng giam. Nhưng tôi đã nghe thấy giọng nói của vị thẩm phán thường xuyên như tôi đã nghe thấy giọng nói của thầy dạy Toán, và giọng nói đó rất đanh thép: kiểu giọng đôi khi vẫn nghe thấy từ những bục giảng kinh cao ngất, nhắc những con dân New England rằng tất cả chúng ta đều là kẻ tội đồ nằm trong tay của một Chúa trời giận dữ. Buồn thay, tôi không nhìn thấy vị thẩm phán như một kiểu trọng tài và người phân xử công bằng, người mà, chuyện này có thể hiểu được, thật ra có thể trở thành đồng minh của Sibyl Danforth. Thay vào đó tôi tưởng tượng một vị thẩm phán chỉ biết quan tâm đến chuyện kết án và trừng phạt, vì thế khi ông ta nói chuyện, đó chẳng qua chỉ là để đồng ý với lão Bill Tanner quỷ quyệt vô lý, hoặc để lên lớp mẹ tôi vì đã cướp đi mạng sống của một bệnh nhân. Đoạn hội thoại duy nhất tôi nghe được trong đầu mình mà tôi biết đã phản ánh thực tế những gì đang diễn ra ở Newport là câu trả lời từ hàng ghế cho câu hỏi “Bà biện hộ như thế nào?” Stephen theo kế hoạch sẽ nói thay cho mẹ tôi lúc này, vì thế ông ta đã trả lời, “Không có tội.” Mẹ tôi tuyệt nhiên không có một dòng thoại nào ngày hôm đó trong vở kịch mà bà là ngôi sao bất đắc dĩ. Vào lúc đó, tôi hình dung, bố mẹ tôi và Stephen sẽ rời khỏi tòa án, và bố tôi sẽ chở mẹ về nhà. Thực tế, như tôi biết được sau đó, có phần nào tốt hơn một chút so với sự tưởng tượng của tôi ở một điểm nhỏ, nhưng lại tồi tệ hơn ở một điển quan trọng. Điểm nhỏ là gì? Thẩm phán Howard Dorset không phải là một nhà truyền giáo kiểu Jonathan Edwards[15], không có giọng nói theo thuyết Calvin nào từ trên cao dùng hết sức lực để thông báo cho mẹ tôi về hỏa ngục gào rú trước mặt bà. Nhiều tháng sau, khi phiên tòa đang diễn ra, tôi nhận ra mình cũng thích thanh âm trong giọng nói của Dorset, đặc biệt là cách nói của một người miền Bắc Vermont chính hiệu khi ông thỉnh thoảng kéo dài chữ thang và đôi thành những từ có hai âm tiết, hoặccông việc thành ba âm tiết. Tuy nhiên, mẹ tôi đã phải trải qua một khoảnh khắc bất ngờ mà Stephen đã không chuẩn bị cho bà: những điều kiện để được thả. Stephen từng nói rõ rằng mẹ tôi sẽ phải gác nghề bà mụ cho đến khi vụ xét xử kết thúc hoặc vụ án được thu xếp, nhưng ngoài điều đó ra, ông đã khiến bà tin rằng cuộc nói chuyện về vấn đề tại ngoại sẽ không có gì gây bất đồng. Trong thực tế, nó có. Bill Tanner lập luận rằng “một bà mụ về bản chất đã là một sự coi thường đối với chính quyền, và đối với các tiêu chuẩn y tế của xã hội chúng ta. Một bà mụ về bản chất là một con ngựa bất kham, một người liều lĩnh đặt những phụ nữ - và trẻ em - vào tình cảnh rủi ro mỗi ngày vì lý do duy nhất là một sự căm ghét mù quáng và thiển cận đối với các quy tắc của y học hiện đại.” Mẹ tôi là một ví dụ điển hình: Một cựu hippie vô trách nhiệm ở một thị trấn núi đồi nhỏ bé, chạy quanh Bắc Vermont trong chiếc xe nhà ga cũ mốc. Một phụ nữ không có kiến thức đào tạo y khoa chính thống, vậy mà lại đi tung tăng khắp nơi với ống tiêm và chỉ phẫu thuật, với những loại thuốc như Ergotrate và Pitocin, trong khi giả vờ mang trong mình chuyên môn mà các bác sĩ phải mất nhiều năm mới có được. “Sibyl Danforth có tiền sử thách thức chính quyền từ lâu, lúc đầu là một người biểu tình phản chiến, còn bây giờ là bà mụ,” Tanner nói. “Căn cứ trên tiền sử đó, và căn cứ trên thực tế rằng bà ta giờ đây đang đối mặt với mười lăm năm tù nếu bị kết án, chính quyền tin rằng nguy cơ bà ta sẽ bỏ trốn là có thật và quan trọng.” “Thưa quý tòa, chúng ta đều biết không hề có nguy cơ bỏ trốn. Không hề. Thân chủ của tôi đã sống trong ngôi nhà của bà ấy gần mười năm, sống trong một thị trấn gần như trọn đời,” Stephen nói. “Hơn nữa, bà Danforth lại đang đối mặt với nguy cơ mất việc - chỉ có thế thôi.” “Và đừng quên bà ấy là một người mẹ. Bà ấy có một con gái đang học ở tại Vermont này mà bà rất mực yêu thương. Và bà có một người chồng với một nghề kiến trúc sư ổn định. Đây là nơi diễn ra cuộc sống của bà ấy, đây là nơi cội rễ của bà đã mọc sâu và bám chắc. Bà Danforth sẽ không đi đâu cả.” “Bà ta không có công ăn việc làm, thưa quý tòa, sự nghiệp bà ta đang rối tung. Uy tín bà ta đã bị hoen ố không thể cứu vãn. Có quá nhiều lý do để bà ta rời khỏi Vương quốc Đông Bắc khiến chúng tôi tin rằng nguy cơ bỏ trốn là rất cao. Vì thế chúng tôi muốn số tiền tại ngoại thể hiện điều đó. Chính quyền bang muốn yêu cầu mức tiền tại ngoại là ba mươi lăm nghìn đô la.” “Như thế thật phi lý,” Stephen nói. “Thật là lố bịch.” “Không hề, thưa quý tòa, ba mươi lăm nghìn đô la chỉ bằng một nửa giá trị ngôi nhà của gia đình Danforth. Chúng tôi tin rằng đó là số tiền đủ để đảm bảo rằng... rằng không có gì xảy ra với những cội rễ sâu xa đó.” Thẩm phán Dorset, như bố tôi kể lại với tôi, ban cho Tanner cái nhìn mà gia đình tôi gọi là tròng mắt lông lá: một cái nhìn trừng trừng mà người nhìn đảo con mắt lên trên đầu xa đến nỗi mắt và chân mày gần như thành một. “Một bi kịch đã đưa tất cả chúng ta đến đây,” vị thẩm phán nói, “và chúng ta có thể sắp sửa bắt đầu đi trên một chặng đường dài cùng nhau. Tôi, vì một lẽ, có thể bỏ qua cách nói cường điệu như ‘con ngựa bất kham’ ở giai đoạn đầu của quá trình này, đặc biệt vì tôi biết sẽ còn chứng kiến thêm nhiều kiểu nói khoa trương và cường điệu hơn nữa về sau. Trực giác của tôi cho thấy luật sư biện hộ đã đúng khi nói rằng bà Danforth không có kế hoạch bỏ đi, và tôi không thấy có lý do nào để áp đặt điều kiện dùng tiền để tại ngoại.” Rồi với một giọng cho thấy ông đã làm điều đó nhiều lần - rằng hầu hết các điều kiện là theo chuẩn mực và ông có thể liệt kê danh sách một cách thuộc lòng - Dorset nêu ra những yêu cầu đổi lấy sự tự do của mẹ tôi. Đó là một mùa hè đầy những thỉnh nguyện đơn. Mẹ tôi bị bắt và bị khởi tố trong vòng mười ngày đầu của tháng tư, nhưng bánh xe công lý thật ra chuyển động rất chậm - một chiếc xe cào tuyết leo lên đồi giữa cơn bão tuyết - và mãi đến đầu tháng bảy, mọi động thái của Stephen và Patty Dunlevy mới dường như có phương hướng. Tuy nhiên, vào tháng bảy và tháng tám, những động thái của chính quyền bang và các động thái ứng phó của Stephen bắt đầu tăng tốc, đột nhiên chiếc xe cào tuyết ấy lăn bon bon xuống đồi trên những con đường sạch bong, khô ráo. Ngay sau kì nghỉ Quốc khánh cuối tuần, Stephen nộp đơn thỉnh nguyện bãi bỏ vụ kiện, lập luận rằng ngay cả khi mọi chứng cứ đều đã được xem xét một cách rõ ràng đối với chính quyền bang, thì thực tế vẫn chẳng hề có một vụ kiện nào. Ông nói sẽ thua trong lần nộp đơn này, và quả thật là thế, nhưng nó đã cho ông một cơ hội để nghe những lập luận của Bill Tanner và lắng nghe một số chuyên gia của lão ta. Hai tuần sau đó, Stephen nộp một thỉnh nguyện đơn yêu cầu không sử dụng biên bản lời khai của mẹ tôi vào đêm cảnh sát đến gõ cửa nhà chúng tôi - chính quyền bang, với thái độ hào hứng suồng sã, đã xem cuộc nói chuyện đó như lời tự thú của bà. Stephen nói có nguy cơ chúng tôi cũng thua lần này nốt, nhưng ông nghĩ ít ra chúng tôi có một cơ hội nhỏ để ngăn người ta biến những lời khai đầu tiên của bà về cái chết của Charlotte Fugett Bedford thành bằng chứng: Cảnh sát, ông ta nhấn mạnh, đã hoàn toàn thống trị bầu không khí trong nhà, nhưng đã không giải thích rõ với mẹ tôi rằng bà nên có một luật sư đại diện trước khi bà mở lời. Nếu mẹ tôi chứ không phải là bố đặt câu hỏi về luật sư trong buổi tối tháng ba đó, chúng tôi có lẽ đã thắng; nếu bố tôi đặt vấn đề này ra trước khi mẹ tôi khai được một lúc, chúng tôi đã thắng. Nhưng hai việc đó đã không xảy ra, và những lời nói của mẹ tôi trở thành một phần trong vụ kiện của chính quyền bang. Sau đó Stephen nộp một thỉnh nguyện đơn yêu cầu thu thập tiền sử bệnh án của Charlotte Bedford từ thời cô ấy còn bé ở Mobile, Alabama, và những năm cô sống cùng Mục sư Asa ở Blood Brook và Tuscaloosa. Ông đã thắng với thỉnh nguyện này. Và ông lập luận rằng chúng tôi phải được phép tiếp cận thư từ của cô ấy gửi mẹ và chị gái trong mùa đông năm đó, cũng như những băng ghi âm Mục sư Asa thu tại những buổi lễ Chủ nhật ở nhà thờ của ông cho những giáo dân không thể tham dự do thời tiết xấu hoặc ốm đau. Sau khi nói chuyện với các thành viên của nhà thờ Mục sư Asa, Patty kết luận rằng Charlotte ốm đau nhiều hơn những gì cô nói với mẹ tôi; Stephen không biết liệu thông tin này có liên quan hay không, hoặc nếu có liên quan, thì chúng tôi sẽ dùng nó như thế nào khi thời điểm thích hợp, nhưng đó là thông tin quan trọng đối với ông, và ông muốn chứng cứ. Trong những lá thư hoặc các buổi giảng đạo đó - khi Mục sư Asa hoặc một giáo dân đề nghị cầu nguyện cho người ốm hoặc người gặp khó khăn - biết đâu sẽ có gợi ý về một chứng bệnh nào đấy mà Charlotte giấu mẹ tôi. Stephen cũng thắng thỉnh nguyện này, và Patty dành một kì cuối tuần trong tháng Tám để nghe những cuộn băng của Asa Bedford - người theo trào lưu chính thống sôi nổi - và của giáo đoàn ông ta. Tiếp theo là những cuộc thương lượng biện hộ, dù hai phía luôn có khoảng cách quá xa đến độ trông như chuyện thỏa hiệp hoặc ngã giá chưa bao giờ mang tính khả thi. Có lúc Stephen đã thuyết phục được mẹ tôi sẵn sàng nhận có tội với tội bất cẩn gây chết người nếu chính quyền bang đề xuất năm năm hoãn thi hành án. Ý nghĩ mẹ tôi bỏ nghề bà mụ trong năm năm khiến tôi kinh ngạc, nhưng nó nghe có vẻ hợp lý với bố tôi và Stephen, và họ thuyết phục bà chấp nhận điều đó. Tuy nhiên, trước sức ép của Ủy ban nghề y và sự thúc giục của các bác sĩ sản phụ khoa, chính quyền bang đã không đề nghị hoãn thi hành án. Nhưng, Bill đề nghị với Stephen rằng chính quyền bang có thể lắng nghe đề xuất chỉ một năm trong tù và sau đó là án treo có thử thách - có thể thêm sáu năm nữa - nếu mẹ tôi sẵn sàng nộp thêm tiền phạt, thực hiện nghĩa vụ công ích, và không bao giờ hành nghề bà mụ nữa. Tuy nhiên, ngay khi chính quyền bang nhắc lại yêu cầu mẹ tôi phải bỏ nghề bà mụ, các cuộc thương lượng đã sụp đổ không thể tránh khỏi. Vụ việc không thể thu xếp không phải vì nỗi ám ảnh nhà tù mà vì mẹ tôi không sẵn sàng từ bỏ sứ mệnh của bà. “Anh không hiểu hay sao, Stephen, một người phụ nữ đã chết,” luật sư của chúng tôi nói Bill thường nhắc ông nhớ - cứ như lão đã quên tại sao họ gặp nhau hoặc nói chuyện điện thoại với nhau. “Tôi không quên điều đó, Bill ạ,” Stephen nói ông thường trả lời như thế, “và thân chủ của tôi cũng đau buồn vì điều đó như bất kì ai. Nhưng thân chủ của tôi không giết bà ấy.” Đôi khi Bill gợi ý cho Stephen rằng cơn thịnh nộ mà thân chủ của ông đã nghe trong buổi hầu tòa hôm nọ tuyệt đối chẳng là gì so với những điều bà sẽ phải chịu đựng trong suốt thời gian xét xử. Và Stephen nỗ lực hết sức để đảm bảo rằng mẹ tôi hiểu được điều này. “Bác sĩ là một lũ người buồn cười. Họ không thể chấp thuận để những người không có bằng cấp y khoa đỡ đẻ,” Stephen lặp lại điều này nhiều lần vào mùa hè năm đó, luôn dùng nó như một cách hâm nóng cho lời cảnh báo của ông rằng chính quyền bang sẽ nói những điều thô lỗ đến khó tin về nghề bà mụ và mẹ tôi. Đến ngày lễ Lao động, câu nói “Bác sĩ là một lũ người buồn cười” của ông đã trở thành lời nói đùa thường trực trong nhà chúng tôi, có vẻ như một lời nói đùa tang thương chết chóc khi ngày xét xử cận kề. Đương nhiên, với tất cả chúng tôi, lời nói đùa đó che giấu cả nỗi sợ hãi lẫn sự giận dữ. Vào tháng bảy, tôi bắt đầu cảm thấy những cơn đau nhói chạy lên dọc lưng bên trái khiến tôi vẫn còn đau đến tận bây giờ, những cơn đau khiến cho việc cưỡi Witch Grass hoặc bơi sông với Tom Corts trở nên hết sức đau đớn. Nhưng trước việc Sibyl Danforth là “bà mụ đã tiến hành mổ đẻ,” tôi nghĩ mình không thể tin tưởng một ông bác sĩ nào trong mùa hè năm đó, và không muốn gây căng thẳng cho mẹ với việc phải đưa tôi đi khám bác sĩ. Tôi luôn thích những câu chuyện kết thúc với cảnh bố mẹ ôm các con vào lòng, hoặc dỗ chúng ngủ vào cuối ngày. Có rất nhiều câu chuyện như thế, và nội dung chúng cũng có biến đổi. Tôi thèm được dỗ đi ngủ vào mùa hè tôi lên mười bốn, một ham muốn lạ lùng chỉ vì tôi đã không thèm điều đó trong ít nhất năm năm trước đó, nhưng là một ham muốn hoàn toàn giải thích được khi tôi nghĩ đến cảnh mất mẹ và sự tan rã của gia đình tôi. Những buổi chiều ở nhà một mình, tôi thường mở dàn âm thanh to hết mức mà loa và tai tôi có thể chịu nổi. Tôi làm kén trong âm nhạc của mình, sự ồn ào và những xung động âm thanh che chở tôi trước những nỗi sợ khủng khiếp nhất. Nhạc rock chưa bao giờ là cách thức diễn đạt tinh tế, nhưng nó ồn ào và rất gần với nỗi giận dữ. Mùa hè năm đó, ở nhiều góc độ, tôi đã tiến gần hơn đến thiếu nữ thay vì là cô bé; được lạc dưới những con sóng cuồng nộ và ồn ào đã phần nào thỏa mãn khát khao được dỗ dành vào giấc ngủ. Tôi dành rất nhiều thời gian bên Tom, nhiều hơn hẳn so với trong năm học. Chúng tôi dành những buổi tối ở bên nhau khi anh trở về từ khu nghỉ mát trượt tuyết, nơi anh đã quay lại làm việc, và trọn những buổi chiều anh được nghỉ. Chúng tôi cùng nhau bơi sông, thường với Sadie Demerest, Rollie McKenna và những chàng trai đi qua cuộc đời chúng tôi mùa hè năm đó. Một con đường chạy dọc theo dòng sông, những người thợ xây và tráng nhựa đường đã tráng xi măng song song với nước, nhưng dòng sông nằm khuất khỏi con đường do có những bờ dốc trượt xuống sáu mét, và do những rặng phong, rặng thông và tần bì rậm rạp. Vào ngày nóng, có thể có đến ba mươi đứa học sinh chúng tôi sưởi nắng trên những tảng đá nằm giữa sông, hoặc ngụp lặn trong những hồ nước sâu giữa những tảng đá. Vào buổi chiều lạnh lẽo và âm u, có thể chỉ có bốn hoặc năm người chúng tôi, tùy thuộc Rollie và Sadie có đem theo một chàng trai nào với họ ngày hôm đó hay không. Vào bất cứ lúc nào trong mùa hè năm đó, tôi có thể đang thử chì kẻ mắt với Rollie, hoặc thử cần sa với năm, sáu cô bạn gái ở một nơi ngoài bìa rừng hoặc các góc xa xa của những bãi cỏ hoang, vốn đã trở thành địa điểm được chúng tôi chọn để tụ tập. Tom bước sang tuổi mười sáu vào đầu tháng tám và bắt đầu lái xe, một việc mà tôi nghĩ làm bố mẹ tôi hoảng sợ cũng như mọi việc khác trong mùa hè năm đó, vì như thế có nghĩa là chúng tôi có thể tự lái xe đến rạp chiếu phim hoặc một trong những nhà hàng gần khu nghỉ mát trượt tuyết. Tom không có xe riêng, nhưng lợi thế của việc xuất thân từ gia đình sở hữu một garage và nghĩa trang xe ô tô chính là anh luôn có một chiếc xe tùy nghi sử dụng. Vài chiếc trông tươm tất hơn những chiếc khác, nhưng tất cả chúng đều chạy được. Nếu bố mẹ tôi chưa đạt đến độ mòn mỏi ngóng chờ Tom trở thành con rể của họ một ngày nào đó, thì họ cũng đã chuyển từ chịu đựng anh sang thật lòng quý anh. Khi chúng tôi đã bắt đầu bền chặt trong suốt năm học, trước cả khi Charlotte Bedford chết, anh bắt đầu ghé qua nhà tôi thường xuyên. Thông thường mẹ tôi đang bận với bệnh nhân ở khu vực dành làm phòng làm việc của bà hoặc đang đi đâu đó để đỡ đẻ, và chúng tôi luôn có chút riêng tư để âu yếm nhau và nghe nhạc. Tôi nghĩ việc anh tiếp tục đến nhà tôi ngay cả sau khi Charlotte Bedford chết đã nói lên nhiều điều về chàng trai trẻ Tom Corts. Vào mùa xuân và mùa hè giữa buổi hầu tòa và phiên xét xử của mẹ tôi, anh đặc biệt năng lui tới, vì anh hiểu tôi cần anh lẫn vì anh muốn thể hiện sự gắn bó với gia đình tôi. Tôi biết bố mẹ tôi trân trọng điều đó. Mẹ tôi thậm chí còn nướng một ổ bánh cho anh vào đêm trước sinh nhật mười sáu của anh. Và thể hiện sự gắn bó của anh với gia đình tôi cho thấy một sự chững chạc và can đảm không nhỏ. Sứ mệnh của mẹ tôi luôn có khả năng khơi gợi những phản ứng lạ lẫm và mạnh mẽ từ người khác, từ những ông bố bà mẹ không cho con gái họ chơi ở nhà tôi khi tôi còn rất bé vì sợ bà sẽ lùa tất cả chúng tôi đến ca đẻ, cho đến những đứa bạn mới lớn của tôi, những người cho rằng - thật lạc quan nhưng cũng thật sai lầm - trong các loại thuốc thay thế hoặc thảo dược tân thời mà mẹ tôi thường dùng là cần sa và thuốc phiện. Sau khi một thai phụ của mẹ chết, toàn bộ vòng tròn những cộng đồng nhỏ bé nơi tôi sống - làng tôi, trường tôi, đám bạn tôi - bị phân rẽ. Vài người xem cái chết của Charlotte Bedford như một sự lên án nghề bà mụ nói chung, và như sự vô trách nhiệm của mẹ tôi nói riêng: Việc này sớm muộn cũng sẽ xảy ra, cháu/cậu biết không, ánh mắt của họ nói như thế khi họ gặp tôi ở quầy tính tiền trong cửa hàng bách hóa, hoặc trong phòng khóa đồ khi tôi thay quần áo sau buổi tập chạy. Những người khác sẽ ra mặt để thể hiện sự ủng hộ cho gia đình tôi khi chúng tôi chịu đựng điều mà họ xem là một sự lăng mạ. Các bạn luôn ở trong tâm trí và lời cầu nguyện của chúng tôi, họ nói với tôi, đôi khi ôm tôi thật chặt tại cửa hàng pizza ở St. Johnsbury hoặc khi tôi giúp gia đình đổ rác ở bãi rác của thị trấn. Còn nhóm thứ hai, tôi rất tiếc phải nói rằng nhỏ hơn nhóm thứ nhất đáng kể. Tôi trải qua phần lớn thời gian trong năm đó chịu đựng ánh mắt chỉ trích của các giáo viên trợ giảng thể dục, thư kí tòa thị chính, những quý bà xếp hàng tính tiền ở siêu thị, những người bơm xăng, và - rất thường xuyên - bố mẹ của những đứa con gái mà tôi nghĩ là bạn tôi, hoặc bố mẹ của những đứa trẻ mà tôi đã trông giữ. Tôi không thể chứng minh điều này, nhưng tôi thầm tin rằng bà Poultney đã đột ngột ngừng gọi điện cho tôi để trông nom Jessica vào tuần cuối cùng của tháng ba vì vai trò mà bà ấy tin là mẹ tôi đã có trong cái chết của một người phụ nữ khác. Tuy nhiên, Tom Corts lại chẳng hề nao núng, và thế là vào một số buổi chiều, tôi mơ mộng cảnh anh dỗ tôi ngủ vào cuối ngày, hoặc ngồi trong chiếc ghế bập bênh cạnh giường của tôi cho đến khi tôi yên giấc. Nghĩ lại, những mơ mộng đó đã khiến tôi đôi khi tự hỏi liệu chúng có phải là một nỗ lực để chặn trước chuyện quan hệ tình dục với Tom, nhưng phần lớn thời gian tôi biết rằng sự thật không phải như thế. Mùa hè năm đó, chúng tôi đã vượt quá giới hạn của sự mò mẫm đầy phấn khích xuyên qua áo ấm và áo len từng xảy ra trong mùa xuân, nhưng Tom không hề gây áp lực buộc tôi ngủ với anh và tôi cũng cảm thấy không thật sự nôn nóng. Thay vì vậy, tôi nghĩ mình đã mơ mộng cảnh Tom trông chừng tôi như kiểu của một người cha vì tôi không thể được chính bố mình bảo vệ bằng cách đó nữa. Tom vừa bước sang tuổi mười sáu vào mùa hè năm đó, tôi cũng bước sang tuổi mười bốn, và điều đó có nghĩa là tôi không thể được bố ôm ấp vỗ về như cách ông từng làm. Lẽ ra tôi nên dùng từ kì quặc vào năm mười bốn tuổi để diễn tả bất kì nỗi ham muốn nào như thế từ phía tôi hoặc sự thể hiện tình cảm từ phía ông, vì tôi biết từ đó là không chính xác. Nhưng sự chính xác với ngôn từ cần thiết là không thể ở tuổi mười bốn, và tôi sợ tôi nói gì cũng sẽ bị hiểu sai - hoặc, tệ hơn, sẽ thể hiện một sự lệch lạc nguy hiểm và bất bình thường bên trong tôi. Sự thật là, mặc cho nỗi nóng giận bủa vây bố tôi vào những thời điểm ông xem mình như kẻ bị vợ bỏ rơi, ông lại chính là người đã dạy tôi cách chải bộ tóc màu hồng chói của con búp bê quái thú. Chính bố là người đã có mặt vào ngày thứ bảy khi tôi trượt ngã chúi đầu trên một chiếc cầu tuột bằng kim loại xuống cây cọc dựng lều và phải khâu mười bảy mũi trên má. Tôi đã ngồi trên đùi của bố để xem hàng giờ liền chương trình Phố Vừng[16] trên chiếc ti vi nhiễu sóng. Bố tôi thuộc thế hệ chưa thể hiểu rõ tầm quan trọng sâu sắc của những cái ôm siết thường xuyên, nhưng ông vẫn thường quỳ gối để ôm tôi, và tôi vẫn nhớ khi còn bé thường được bố nhấc bổng lên và ôm ấp. Đến ngày nay, tôi vẫn không phiền nếu được một người đàn ông có đôi má phúng phính ôm vào lòng. Để mừng sinh nhật thứ mười sáu của Tom, tôi dùng số tiền trông trẻ trong nhiều tuần để mua vé đại hội nhạc rock ở Burlington. Chúng tôi đi ngay sau sinh nhật của anh, chỉ hai người để thay đổi không khí, và chúng tôi đã lái xe đi rồi về trong nhiều giờ liền chỉ có hai đứa bên nhau trong chiếc xe Catalina to tướng. Tôi vặn to âm thanh chiếc máy nghe băng cassette tám hộc nằm đung đưa dưới ngăn để găng tay, rồi ôm hai chân vào sát người. Chiếc Catalina có một ghế sofa kích thước bằng chiếc tủ lạnh của cửa hàng bách hóa, nhưng Tom đang ở cạnh bên và tiếng nhạc rất lớn, chuyến đi đến và về từ Burlington trong chiếc xe đó cho tôi một sự trốn thoát trong hình dạng như bào thai mà tôi đã khao khát. Nhân tiện chúng tôi đến Burlington, mẹ nhờ chúng tôi gửi một phong bì đến chỗ Stephen Hastings và lấy về một thùng hồ sơ cho bà. Stephen đã giữ những hồ sơ này nhiều tháng, và đã photocopy những tài liệu ông cần. Mẹ có lẽ đã nghĩ tôi sẽ xem trộm bên trong phong bì, và tôi đã không làm bà thất vọng. Bà gửi lại cho Stephen những bản sao chụp hồ sơ bệnh án của Charlotte Bedford, một phần trong tiền sử bệnh án mà Stephen đã kiến nghị tòa cho xem vào mùa hè năm đó. Mẹ đã viết tay những suy nghĩ của bà bằng bút màu xanh trên một số tài liệu, và vì bây giờ tôi đã là một bác sĩ và phiên tòa đã trôi qua, những gì bà khoanh tròn quả thật có lý. Tuy nhiên khi ở trong xe buổi chiều hôm đó, ghi chú Charlotte từng được điều trị bệnh thiếu máu do thiếu sắt năm năm trước chẳng có nhiều ý nghĩa với tôi, cũng như một toa thuốc do bác sĩ ở Mobile, Alabama kê vào năm 1973 cho một loại thuốc mà tôi còn không phát âm được vào lúc ấy: hydrochlorothiazide, một loại thuốc lợi tiểu giá rẻ dùng để kiểm soát chứng cao huyết áp. Hình như mẹ đã chữa bệnh thiếu máu cho Charlotte trong thời gian cô khám thai ở chỗ bà, nhưng không chữa chứng cao huyết áp; hình như huyết áp của Charlotte không quá cao khiến bà phải cảnh giác. Nhưng dường như Charlotte cũng không nghĩ đến việc báo cho mẹ tôi biết cô từng được chữa trị bệnh này trước đây. Công ty luật của Stephen gồm hai ngôi nhà với kiến trúc Victoria có cùng đường chạy xe vào nhà ở giáp ranh khu học xá của trường đại học Vermont. Tòa nhà nằm trên khu đồi của Burlington, những con đường kiểu cách, trang nhã, hai bên là hai hàng cây thẳng tắp, từ trên đỉnh đồi nhìn xuống khu thương mại của thành phố. Vào thế kỉ mười chín, khi Burlington còn là một cảng phát đạt của vùng hồ Champlain, chuyên khai thác khoáng sản potash và gỗ, những thương gia giàu có và doanh nhân thành đạt đã xây nhà cho gia đình trên đồi, phía trên khu dân cư thành phố. Chúng tôi không nghĩ sẽ gặp Stephen khi đến nơi. Tôi cứ nghĩ sẽ gửi chiếc phong bì ở chỗ tiếp tân, lấy thùng tài liệu, rồi đi. Nhưng sau khi tôi xưng tên với cô gái ở bàn tiếp tân, cô ấy nói Stephen sẽ rất thất vọng nếu không có dịp ra ngoài và chào tôi. Cô nói ông đang họp với một nhà điều tra, nhưng cuộc họp đã diễn ra cả buổi chiều rồi. Khi cô đi lên lầu để tìm ông, tôi quay trở lại xe bảo Tom cùng vào để anh không phải ngồi đợi một mình, bị nướng chín dưới nắng mặt trời mà không biết tôi ở đâu. Stephen đang họp với Patty Dunlevy, và cả hai đi ra để đón tôi, Stephen mặc một bộ complet màu xanh nước biển bảnh bao, còn Patty mang dép xăng đan và mặc một kiểu đầm bohemian viền ren mà tôi thường thấy ở những bà mụ bạn của mẹ. Có vẻ lạ khi người phụ nữ tôi gặp lần đầu đeo kính mát, mặc áo khoác da màu đen, lại diện một chiếc áo đầm rộng thùng thình chẳng mốt tẹo nào, và tôi hẳn đã nhìn cô rất chăm chú. Patty huých cùi chỏ tôi vẻ bí ẩn, chỉ vào chiếc đầm và nói, “Chiếc đầm này trông kinh quá nhỉ? Cô mua ở một cửa hàng đồ cũ tại North End đấy. Nhưng cô đã dành nhiều buổi sáng gặp thêm một số bệnh nhân của mẹ cháu, vì thế cô nghĩ mình nên ăn mặc giống như trong hội.” “Trong hội?” tôi hỏi. “Cháu biết đấy, kiểu sinh đẻ tại nhà ấy mà. Hòa bình, tình yêu, nhuộm màu xoắn ốc. Thuốc thay thế. Hãy trao đổi hàng hóa vì tôi hết tiền rồi. Tôi không trả tiền được cho chị, nhưng chồng tôi là thợ mộc, anh ấy sẽ đóng cho chị chiếc kệ sách tuyệt vời nhất mà chị từng thấy nếu chị đỡ đẻ cho tôi.” Cô nói nhanh, và giọng nói của cô đầy vẻ mãn nguyện. “Cô nên làm diễn viên mới phải,” Stephen nói. “Ông anh ơi, thì tôi là diễn viên đây.” Stephen dẫn chúng tôi đi tham quan một vòng tòa nhà, và đã có nhiều lúc tôi hi vọng tìm thấy những đoạn dây nhung phong tỏa quanh vài chiếc bàn hàng trăm năm tuổi bóng loáng và những chiếc tủ gỗ giờ đây được dùng để chứa hồ sơ: Tôi hi vọng được nghe kể, “George Washington từng ngồi ở đây,” hoặc “Ethan Allen từng ăn ở đó.” Những chiếc trường kỷ rất trang nhã nhưng êm ái: tôi có thể ngủ ngon trên chúng. Những chiếc ghế sau bàn làm việc đều bọc da; tất cả những cây bút trên sổ sách đều bằng bạc hoặc vàng. Thời đó máy vi tính chưa phổ biến, vậy mà dường như chúng có mặt khắp nơi trong tòa nhà. Cuối cùng chúng tôi đi ngang qua khu vực hội họp mà Patty và Stephen vừa làm việc khi nãy. Tôi không nghĩ ông định cho chúng tôi xem bên trong, nhưng tôi đã không nhận ra điều này vào lúc đó; hai người lớn ở sau chúng tôi một bước, và theo cách ngớ ngẩn mười bốn tuổi của mình, tôi đã dò dẫm đi vào căn phòng tối đóng panô, với Tom ở ngay sau lưng tôi. Được thắp sáng bằng một chiếc đèn chùm với những hình cầu to bằng quả nho, khu vực này trông như từng là hai phòng ngủ riêng biệt. Có một chiếc bàn dài và rộng nằm giữa phòng, chôn dưới hàng đống sổ ghi chép luật pháp, những thùng hồ sơ, và những tập hợp bài báo. Các bức tường dán giấy ghi chú trắng, trên đó Stephen và Patty đã viết những ghi chú và những cái tên bằng bút Magic Marker. Hẳn phải có đến hai hoặc ba chục tờ giấy như thế treo trên tường bằng những dải băng dính dày. Trước khi Stephen và Patty kịp giải thích với chúng tôi họ đang làm gì hoặc dẫn Tom và tôi trở lại hành lang, những chữ, cụm từ và tên của những người tôi biết đã hiện ra lồ lộ trước mặt tôi trên tường. Tôi nhận ra một trang chứa đầy tên các bà mụ, một trang khác là tên các gia đình có con do mẹ tôi đỡ đẻ. Có một trang đầy tên bác sĩ, và một trang cạnh đó chỉ có một cái tên: bác sĩ dự bị của mẹ tôi, Brian “B.P.” Hewitt. Có một trang tiêu đề “Nhà nghiên cứu bệnh học,” và một trang khác với từ nghe lạ lùng và có điềm xấu “thần kinh mê tẩu”. Và dù thoạt đầu tôi nghĩ đó có thể là từ viết tắt hoặc rút ngắn của từ âm đạo[17] nhưng một số từ bên dưới nó - tim nhịp chậm, ngất, hô hấp nhân tạo, mổ đẻ - khiến tôi kết luận rằng nó không phải. “Connie, nhớ giữ kín những điều này, nhé?” Stephen đột ngột nói, khi ông nhận ra tôi đang dán mắt đọc chúng. “Ồ, chắc chắn rồi.” Rồi nhanh chóng và thản nhiên như thể Tom và tôi đã bước vào nhầm phòng, ông lùa chúng tôi ra, nói với chúng tôi, “Nhà bếp ở dưới. Thật tuyệt khi làm việc ở nơi có nhà bếp. Hiểu ý tôi không?” Sau khi mẹ tôi mổ lấy thai xong, bà tỉ mẩn khâu lại vết thương cho Charlotte Bedford. Điều này luôn gây ấn tượng với tôi. Nhưng trong nhật kí của mẹ, đặc biệt là trong những bài viết dài bà đã viết nhiều tuần sau khi Charlotte chết, khi bà cố tìm hiểu điều gì đã xảy ra, chỉ có một câu về khoảnh khắc ấy trong toàn bộ bi kịch: “Cơ thể cô ấy quá to không thể quấn trong một chiếc chăn, vì thế tôi đã khâu nó lại ở mức tốt nhất có thể.” Được viết cách xa, độc lập với những phần còn lại của quyển nhật kí, câu văn đó dường như có vẻ kì quặc: không phi lý cũng không điên rồ, nhưng khá kì lạ. Như thể mẹ tôi đã làm rõ một sự liên hệ nào đấy mà chỉ có bà mới hiểu. Như thể một mối liên kết hoặc một mệnh đề giữa chiếc chăn và đường khâu đã bị mất. Mối liên hệ xuất hiện ở một bài viết trong quyển nhật kí được viết gần ba năm trước, một bài viết về những bố mẹ khác và một ca sinh khác: Con của họ đã chết lúc ra đời, và cái vật cực kì đáng thương đó là sinh vật dị dạng nhất mà tôi từng thấy. Ruột của cậu bé nằm ở bên ngoài. Nhưng đương nhiên bố mẹ cậu muốn nhìn mặt con. Vì vậy tôi quấn cậu bé trong chiếc chăn sơ sinh mà một người dì của cậu đã may, bao kín cậu từ chân lên đến mũi - nếu mọi thứ còn lại không quá xấu xí - cậu bé cũng mất một nửa hàm dưới. Tôi đã không khóc khi đỡ cậu bé, vì tôi đã biết trong vài giờ rằng cậu sẽ chết trước khi chào đời, nhưng tôi đã khóc khi quấn cậu lại và đưa cậu cho bố mẹ xem. Trông cậu thật bình an và thật hạnh phúc. Bỗng nhiên tôi rơi nước mắt. Một lúc nào đó sau khi mẹ tôi đỡ đẻ Veil, bà quay lại thi thể của Charlotte. Bà không quay lại ngay, vì trước tiên bà phải chăm sóc đứa bé, ban đầu chỉ là một vật tái nhợt, mềm rũ trông như sắp chết. Bà phải, như một số bà mụ nói, “làm mạnh tay với đứa bé.” Xoa cật lực lưng đứa trẻ mới sinh, hút nước nhầy, đánh vào lòng bàn chân nó. Hút thêm nhiều nước nhầy. Nói chuyện với cậu bé, bảo bố cậu nói chuyện với cậu. Tôi tưởng tượng mẹ bảo Mục sư Asa, “Hãy nói gì đi. Nó cần nghe giọng nói của ông! Hãy nói chuyện với nó!” Tuy nhiên, cả Mục sư Asa lẫn Anne đều không đề cập đến cuộc nói chuyện này trong những buổi lấy lời khai hoặc trong phiên tòa, và mẹ cũng không bao giờ kể với tôi chuyện này. Dẫu vậy, rõ ràng là trong những phút đầu tiên sau khi Veil chào đời, mẹ tôi đã chỉ tập trung vào việc làm cho đứa bé thở. Rõ ràng bà đã thành công. Và khi biết rõ đứa bé sẽ sống, bà giao Veil cho bố nó và bắt đầu chăm sóc ông. Bà ôm ông, lúc đầu vừa đứng vừa ôm, sau đó vừa ngồi vừa ôm. Hai người lớn - với đứa bé trong vòng tay cha - ngồi trượt xuống bức tường cạnh cửa sổ cho đến khi chạm đất, lưng tựa vào miếng ván ở chân tường. Đôi tay mẹ không bao giờ buông ra khỏi người vị mục sư. Anne nói cô nghe mẹ tôi bảo Mục sư Asa hết lần này đến lần khác rằng đứa bé thật xinh đẹp, và có thể đã nói một vài lần, “Ổn cả rồi. Shhhh. Ổn cả rồi.” Mục sư Asa khóc, đôi vai ông rung rung khi ông hít vào giữa những cơn nức nở. Và vào một thời điểm nào đó ở trên giường, cơ thể của Charlotte ngừng chảy máu. Khi cuộc khám nghiệm tử thi được tiến hành, chuyên gia pháp y chỉ tìm thấy khoảng bảy trăm năm mươi mililit máu trong ổ bụng. Hãy hình dung như đó là hơn hai chai sữa một tẹo. Đồng thời có những cơn sóng máu không thể đo được trào ra từ vết rạch - và tuôn chảy từ bên trong bụng - lên trên giường, thấm ướt những tấm trải, nệm, và chiếc gối mẹ tôi đã dùng như miếng bọt biển, cho đến khi ga giường màu trắng trông như màu đỏ rượu vang. Khi mẹ tôi cuối cùng đứng dậy và quay trở lại chiếc giường cùng thi thể nằm trên đó, không ai xem đồng hồ đeo tay hoặc đồng hồ treo tường bên trên chiếc tủ đầu giường. Nhưng căn cứ trên sự nhất trí của Mục sư Asa, Anne và mẹ tôi rằng lúc sự cố xảy ra là mười giờ sáu phút - khi cằm của Charlotte giật ngược lên lúc cô rặn, và Mục sư Asa nhìn thấy tròng mắt của vợ mình đảo vào trong đầu - mọi người đều đồng ý rằng khi mẹ tôi đứng rất lâu lấy tay xoa sau cổ và nhìn xuống thân hình kinh hoàng của Charlotte, thời gian có thể là trong khoảng bảy giờ kém hai mươi đến bảy giờ kém mười lăm. Nếu tôi diễn giải đúng ghi chú của mẹ tôi trong nhật kí, thì ý nghĩ chỉ cần quấn thi thể trong một chiếc chăn đã lướt qua đầu mẹ tôi. Có thể ban đầu bà đã đắp da lên trên vết thương. Có thể không. Nhưng bà muốn che thi thể lại; bà không muốn để nó trần trụi, lạnh lẽo và toang hoác như thế. Nhưng trong tâm trí của mẹ tôi, thi thể đó quá to không thể quấn lại được, vì thế bà phải chỉnh sửa nó. Có vài chiếc khăn gấp gọn gàng đặt trên một chiếc ghế ở góc phòng, và mẹ tôi đã lấy một chiếc để thấm khô vùng xung quanh vết rạch. Vấn đề tiệt trùng không còn quan trọng nữa. Sau đó bà đặt khăn lên một góc nệm ở chân giường và đi đến túi đồ nghề để lấy dây ruột mèo khâu vết mổ. Cây nhíp. Cây kim uốn cong và đồ giữ kim. Rồi bà bắt tay vào việc. May vết thương cần đến ba gói chỉ khâu không tan. Khi chuyên gia pháp y làm chứng, ông ta nói rằng mẹ tôi đã không quan tâm đến việc khâu lại vết thương trên đường tiểu; bà đã không khâu lại vị trí nơi bà mở tử cung ra. Ông không trình bày thông tin này như một dấu hiệu cho thấy vết khâu của mẹ kém, hoặc để trình bày ý nghĩ rằng bà không tôn trọng người chết. Ngược lại, ông nói đường khâu của mẹ tôi rất “chuyên nghiệp và chặt. Việc bà đã làm là hoàn toàn thành thạo.” Quan điểm của ông - quan điểm của chính quyền bang - chỉ đơn giản là mẹ tôi đã không nỗ lực cứu Charlotte khi bà khâu thi thể cô ấy lại; bà hiểu Charlotte đã chết. Với quan điểm đó, mẹ tôi chỉ quan tâm đến vấn đề thẩm mỹ. Khi mẹ tôi cung khai, Stephen đã hỏi bà tại sao lại bận tâm khâu lại cơ thể mà bà biết rằng đã chết. “Tôi không thể để cô ấy như thế,” mẹ tôi nói. “Như thế thật không phải với cô ấy, và không phải với gia đình cô ấy.” “Gia đình cô ấy?” Stephen hỏi, chờ cho mẹ tôi làm rõ ý là chồng của Charlotte, hoặc, có thể là, chồng của Charlotte và gia đình cô ở miền Nam. “Asa và Veil,” mẹ tôi đáp, mở đầu cho một trong nhiều cuộc hỏi đáp giữa hai người, trong đó Stephen nghĩ ông biết chính xác mẹ tôi định nói gì, còn mẹ tôi thì cho rằng dù bà có định nói gì, chúng đều vô hại. Đôi khi bà đúng, đôi khi bà đã sai. “Nhưng chủ yếu là Veil. Chúng ta đến với cuộc đời này như thế nào có ý nghĩa nhiều hơn so với những gì mà chúng ta hiểu,” mẹ tôi nói tiếp. “Vì thế tôi muốn đảm bảo rằng Veil nhìn thấy mẹ nó: Tôi muốn đảm bảo rằng cậu bé đem theo một hình ảnh với mình suốt cuộc đời rằng khuôn mặt mẹ cậu mới đáng yêu, xinh đẹp và bình an nhường nào - bình an một cách khó tin. Ngay cả vào lúc đó. Ngay cả sau tất cả những gì mà cô ấy đã trải qua. Ngay cả vào khoảnh khắc cuối cùng đó.”